TRIỀU ĐẠI TÂY SƠN (Những bí ẩn)


PHAN DUY  KHA




BƯỚC ĐẦU GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN
CỦA TRIỀU ĐẠI TÂY SƠN















PHAN DUY KHA
* CÁC TÁC PHẨM:
- Nhìn lại lịch sử (In chung ba tác giả, Nxb Văn hóa – Thông tin, 2003)
- Lịch sử và sự Ngộ nhận (Nxb Từ điển Bách khoa, 2008)
- Nhìn về thời đại Hùng Vương (Nxb Lao động, 2009)
- Trải nghiệm đời người (Nxb Lao động, 2009)
- Từ điện Kính Thiên triều Lê đến Tổng Hành dinh thời đại Hồ Chí Minh (Nxb Dân trí, 2010)
* SÁCH IN CHUNG:
- Hoàng Sa - Trường Sa, máu thịt Việt Nam (Nxb Thông tin và Truyền thông, 2014)
- Hiền tài đất Việt (Nxb Lao động, 2005)
- Lễ Nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ và thảm án Lệ Chi Viên (Nxb Văn hóa- Thông tin, 2004)
- Họ Phùng Việt Nam (Nxb Lao động, 2011)
- Thế giới trong ta, những bài hay nhất (Nxb Văn hóa- Thông tin, 2004)
- Danh nhân Phan Kính (Nxb Khoa học Xã hội, 1999)
- Họ Phan trong cộng đồng dân tộc Việt Nam (Nxb Văn hóa – Thông tin, 1997)
- Cội nguồn 6 (Nxb Văn hóa- Thông tin, 2004)
* CÁC TRANG MẠNG:
1. phanduykha.wordpess.com
2. phanduykha.blogspot.com
3. duykhaphan.blogtiengviet.net







GIẢI MÃ BÍ ẨN CUỘC HÀNH BINH THẦN TỐC CỦA QUANG TRUNG
Theo Lê Triều dã sử thì khi tiến quân ra Thăng Long đánh quân Thanh, vua Quang Trung đã bày cho quân lính cứ ba người một tốp, thay phiên võng (cáng) nhau đi, thành ra quân trẩy liên miên không phải dừng mà ai nấy đều được nghỉ, do đó quân Tây Sơn hành quân cực kỳ thần tốc.

Nhiều người tin rằng đã có một cách hành binh đặc biệt như thế thật. Tức là cứ hai người võng (cáng) một người, thay phiên nhau mà đi, nên suốt dọc đường ra Bắc lúc nào cũng hành quân liên tục và lúc nào cũng có người được nằm võng nghỉ cho lại sức.
Nhưng cũng có nhiều người tỏ ra nghi ngờ cách hành binh này. Bởi vì mỗi người lính ra trận, ngoài binh khí bắt buộc phải mang theo (giáo mác, hỏa hổ…), người lính còn phải mang áo quần, tư trang, gạo nước (gọi chung là quân trang, quân dụng, quân lương) cho nên trên vai mỗi người ít nhất cũng phải 20-30 kg. Rồi lại còn phải trèo đèo lội suối nữa, vậy thì còn sức đâu mà cáng người. Không khéo vì phải cáng nhau mà làm chậm tốc độ hành quân, chứ nhanh hơn làm sao được. Mà người nằm trên cáng cũng chẳng cảm thấy thoải mái gì, thà đi bộ còn dễ chịu hơn? Trong  tác phẩm nghiên cứu “Tìm hiểu thiên tài quân sự Nguyễn Huệ”, các tác giả Nguyễn Lương Bích -Phạm Ngọc Phụng đã phân tích rất có lý: “Có tài liệu như Lê Triều dã sử  nói rằng, trong cuộc tiến quân từ Phú Xuân ra Bắc lần này, để hành binh nhanh chóng, Nguyễn Huệ đã cho quân dùng cáng, ba người một tốp thay phiên cáng nhau, khiến mọi người đều đi nhanh mà không bị mỏi”. Sự việc này không chắc có thật. Bởi vì cáng nhau mà đi thì không thể đi nhanh được bằng đi bộ rảo cẳng, càng không thể đi nhanh đều đặn trong thời gian nhiều ngày liền.  Cho nên, chúng tôi cho rằng việc cáng nhau mà đi chỉ là câu chuyện người đời sau viết sách tưởng tượng ra để giải thích tốc độ hành quân mau lẹ của quân Tây Sơn. Hoặc giả có những bộ phận quân đội dùng cáng chuyên chở quân trang, quân dụng, quân lương... để đem đi được nhiều nên nhân dân trông thấy, tưởng đoàn quân cáng nhau để hành quân nhanh. (Tìm hiểu thiên tài quân sự Nguyễn Huệ,  Nxb Quân đội Nhân dân, 2003, tr 246-247). Xin ghi thêm để bạn đọc tham khảo.
Quê tôi ở xứ Nghệ, nằm trên trục đường Thiên lý Bắc - Nam xưa. Thuở còn ấu thơ, tôi đã từng nghe các bậc già cả trong làng truyền ngôn lại câu chuyện về cuộc hành binh thần tốc kỳ lạ của vua Quang Trung:
Quân dung đâu mới lạ nhường
Mũ mao, áo đỏ, chật đường tiến ra .
Sở dĩ quân lính của Quang Trung được trang bị mũ lông (mũ mao) vì lúc này đang là mùa đông tháng chạp, trời rất rét (1).
Đó là cuộc hành binh có một không hai với hàng vạn người, quân đi điệp điệp trùng trùng như sóng. Có nhiều voi, ngựa, và đặc biệt là có nhiều chiếc cáng. Nói là cáng, nhưng thật ra không hẳn là cáng. Phải gọi là những chiếc thuyền nan thì đúng hơn. Hình dạng của nó thuôn nhỏ như chiếc thuyền câu của đồng bào vùng trũng Bắc bộ. Những chiếc thuyền nan này được đan bằng tre, chiều dài khoảng 6 thước (2,4m), rộng khoảng 2 thước (0,8m). Đan xong, người ta lấy vỏ một loại cây có nhựa, cùng với sợi  dây tơ hồng (một loại dây leo), giã nhỏ, trộn với phân trâu, bò thành một chất kết dính, trát kín thuyền rồi đem phơi khô (danh từ trong nghề gọi là “xảm”. Cứ ba người lính lập thành một tổ  (như tổ tam tam sau này) và được trang bị một chiếc thuyền. Chiếc thuyền này được coi như chiến cụ của cả tổ, các thành viên trong tổ có nhiệm vụ mang vác, bảo quản, vận chuyển suốt dọc đường hành quân. Để được thuận lợi, người ta buộc một chiếc đòn tre dài dọc theo thuyền. Bình thường hai người khiêng hai đầu đòn tre như khiêng cáng, trên thuyền là vũ khí cá nhân, dụng cụ, tư trang, gạo nước… của cả tổ.  Người dân từ xa nhìn vào tưởng là cáng người. Thật ra thì cũng có khi cáng người, nhưng rất ít. Đó là những trường hợp có người nào ốm yếu, mệt mỏi,  bị thương, thì có thể nằm lên cáng, để hai người khiêng đi. Tuy nhiên trường hợp này không nhiều. Ai cũng cố gắng không muốn để đồng đội phải khiêng mình.
Tác dụng tốt nhất của chiếc “thuyền cáng” là để vượt sông. Từ Phú Xuân ra Thăng Long đoàn quân phải vượt qua hàng chục con sông lớn và hàng trăm con sông nhỏ, rồi đầm, phá. Huy động làm sao đủ thuyền bè để đưa hàng chục vạn quân qua sông cùng một lúc? Mà bơi vượt sông thì  đang là mùa đông  (tháng Chạp) trời rất rét. Chính lúc này chiếc thuyền phát huy tác dụng. Quân đến bờ sông lập tức thuyền được hạ thủy, giáo mác làm mái chèo, cứ thế 3 người một thuyền sang sông chủ động, an toàn và đặc biệt là không bị ướt, rét. Dọc đường hành quân, mỗi khi trời mưa, chiếc thuyền cáng còn được úp lên đầu thành mái che mưa rất hữu hiệu.  Chiếc thuyền này còn có một tác dụng nữa: Đó là khi công đồn thì nó được dùng làm khiên, cản tên đạn của kẻ thù để cho quân ta tiến lên, rất có hiệu quả. Do chiếc “thuyền cáng” có nhiều công dụng như thế nên các tổ ba người luôn luôn bảo vệ nó, mang theo nó không bao giờ quên, như là một dụng cụ chiến đấu vậy.Vì thế mà có câu ca nói về tác dụng của  chiếc “thuyền  cáng” này:
Giúp quân thần tốc
Không kể ngày đêm
Đi đường làm cáng
Xuống nước là thuyền
Trời mưa làm lán
Xung trận thành khiên
Quân đi như nước
Trên cáng dưới thuyền. (2). .
Chiếc “thuyền cáng” trong cuộc hành quân thần tốc của vua Quang Trung có nhiều công dụng thật đặc biệt. Nó góp phần làm cho cuộc hành quân được mau lẹ, tạo yếu tố bí mật, bất ngờ, góp phần không nhỏ vào trận Đại thắng mùa Xuân năm Kỷ Dậu 1789. Nó là một sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật quân sự tuyệt vời của Hoàng đế Quang Trung.

Chú thích (1): Tác phẩm Đại Nam quốc sử diễn ca (của Lê Ngô Cát- Phạm Đình Toái) đặt câu này vào đoạn Nguyễn Huệ đem quân ra Bắc tiêu diệt họ Trịnh vào tháng 6 . 1786 là chưa chính xác .Vì lúc này đang giữa mùa hè, khí hậu rất nóng nực, không ai lại đội mũ lông cả .
(2): Trong cuốn “Văn học dân gian Tây Sơn”, (Nxb Trẻ, 1999), khi đề cập đến cuộc hành binh thần tốc của quân đội Tây Sơn, các tác giả  cũng có đề cập đến chiếc cáng và nêu các công dụng của chiếc cáng gồm làm cáng, làm thuyền chở quân trang quân dụng khi vượt sông và đẻ che mưa…Như vậy là nêu được gần đủ tác dụng của chiếc cáng. Tư liệu khai thác ở hai vùng miền khác nhau nhưng cũng thống nhất nhau, chứng tỏ được độ tin cẩn của thông tin đã nêu.
*

 

 

 

 

 

 

 

TRẬN ĐÁNH ĐỒN NGỌC HỒI QUANG TRUNG DÙNG BÓ RƠM HAY TẤM VÁN.

1- Hai giả thuyết về trận tấn công đồn Ngọc Hồi

   Đồn Ngọc Hồi là một vị trí then chốt của quân Thanh ở phía Nam Thăng Long ,nơi địch tập trung phần lớn binh lính tinh nhuệ, các tướng lĩnh cao cấp như Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long, Thượng Duy Thăng. . .là lá chắn bảo vệ cửa ngõ phía nam kinh thành.  Xung quanh đồn được đặt địa lôi, cắm chông sắt dày đặc. Trong đồn được bố trí một hỏa lực rất mạnh. Rạng sáng mồng 5 tháng Giêng, Quang Trung bắt đầu công phá đồn Ngọc Hồi. Đoàn quân dàn trận hình chữ “nhất” tiến vào. Hỏa lực địch bắn ra như mưa. Theo Hoàng Lê nhất thống chí, để tránh thương vong cho quân ta, Quang Trung đã cho ghép các tấm ván lại dùng rơm dấp nước phủ kín ở bên ngoài, cho quân lính vác đi trước làm lá chắn che đạn. Sách này viết: “Vua Quang Trung lại truyền cho lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép ba ván thành một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là 20 bức. Đoạn kén 10 lính khỏe mạnh, cứ 10 người khiêng một bức, lưng dắt dao ngắn. hai mươi người khác đều cầm binh khí theo sau, dàn thành trận chữ nhất; vua Quang Trung cưỡi voi đốc thúc, mờ sang ngày mồng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng bắn ra, chẳng trúng người nào cả. Nhân có gió Bắc, quân Thanh liền dùng ống phun khói lửa ra, khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì, hòng làm cho quân Nam rối loạn. Không ngờ trong chốc lát, trời bỗng trở gió Nam, thành ra quân Thanh lại tự hại mình. Vua Quang Trung liền gấp rút sai đội khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên trước. Khi gươm giáo của hai bên đã chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm giáo ngắn chém bừa; những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh. Quân Thanh chống không nổi ,bỏ chạy toán loạn, giày xéo lên nhau mà chết” ( Hoàng Lê nhất thống chí. NXB Văn học. 2005 tr359, 360).
     Đại Việt sử ký tục biên cũng chép tương tự như thế: “ Đến ngày mồng 5, khi trời chưa sáng, Nguyễn Huệ tự thân đốc chiến đem hơn trăm voi khỏe đi trước, quân mạnh đi theo sau, đánh nhau rất lâu. Kỵ binh của quân Thanh cưỡi ngựa, chợt thấy bầy voi, ngựa đều hí lên quay đầu chạy. Bộ binh bị voi dẫm đạp lên, bèn chạy vào trong lũy, cố thủ, bắn sung ra. Quân Nguyễn Huệ đem những tấm bia đỡ, đạp lũy mà vào” ( Đại Việt sử ký tục biên, NXB Khoa học xã hội- H 1991 tr .483 ). Đại Việt sử ký không nói cụ thể như Hoàng Lê nhất thống chí, nhưng “ bia đỡ” thì cũng có nghĩa là những “ tấm ván” chứ không thể là bó rơm.
   Như vậy , theo Hoàng Lê nhất thống chí và Đại Việt sử ký tục biên thì để tránh tên đạn của địch, Quang Trung đã cho lam 20 tấm ván, lấy rơm dấp nước phủ ngoài ván, cho người vác lên che chắn phía trước, người đi sau cứ nương theo tấm ván mà xông lên, cho đến khi giáp nhau với địch thì quẳng ván đi mà đánh giáp lá cà. Ta đã hạ đồn Ngọc Hồi bằng chiến thuật như thế.
    Tuy nhiên, cũng có tài liệu ghi khác. Khâm định Việt sử thông giám cương mục ( Quốc sử quán triều Nguyễn ) thì cho rằng không phải dùng ván mà dùng những bó rơm to, lăn lên phía trước để đỡ tên đạn. Sách này chép:  “ Bốn mặt đồn lũy, quân Thanh đều cắm chông sắt. Súng và tên bắn ra như mưa. Giặc dùng những bó rơm to để che đỡ mà lăn xả vào , rồi quân tinh nhuệ tiến theo sau. Kẻ trước ngã, người sau nối, thảy đều trổ sức liều chết mà chiến đấu. Các lũy quân Thanh đồng thời tan vỡ và quân Thanh đều chạy. Giặc đuổi đến đồn Nam Đồng, thừa thắng ập lại giết chết. Quân Thanh bị chết và bị thương quá nửa. Thế Hanh, Tiên phong Trương Sĩ Long, Tả dực Thượng Duy Thắng đều chết” ( S đ d,  q.47 tờ 42 ).
           Thanh thông giám cũng chép tương tự như thế “ Vào canh 5 ngày này  (mồng 5 ) Nguyễn Huệ đem đại binh tiến đánh, thân tự đốc chiến, dùng 100 thớt voi khỏe  làm tiên phong. Rạng sáng quân Thanh cho kỵ binh nghênh địch , ngựa bị voi quần kinh hãi bỏ chạy, quân rút lui vào trại cố thủ. Phía ngoài trại, lũy đầy chông sắt, bên trong bắn súng ra cự địch. . Vào giờ ngọ quân Nguyễn bắn hỏa châu, hỏa tiễn tới tấp; lại dùng rạ bó to lăn mà tiến đều, khinh binh theo sau, trước ngã, sau tiến lên, một lòng quyết chiến, tại các trại, quân Thanh đồng thời tan vỡ, quân Nguyễn thừa thắng chém,giết, quân Thanh bị tử thương quá nửa.” (Thanh thực lục. Bản dịch của Hồ Bạch Thảo, Nxb Hà Nội 2007, tr. 74)
             Như vậy ,cho đến nay có hai thuyết nói về chiến thuật công phá đồn Ngọc Hồi của Quang Trung. Thuyết của Hoàng Lê nhất thống chí và Đại Việt sử ký tục biên cho rằng Quang Trung ghép ván ,dùng rơm tẩm nước rồi phủ ra bên ngoài để che đỡ. Còn Thanh thông giám và Khâm định Việt sử thong giám cương mục thì lại cho rằng Quang Trung dùng rơm rạ bó to, rồi cho lăn tròn ở phía trước để chắn đạn cho đoàn quân ở phía sau tiến lên.
             2- Bó rơm hay tấm ván
  Vậy ở đây, sách nào chép đúng. Hay nói cách khác, là ta nên tin vào tài liệu nào. Tấm ván hay bó rơm?
    Dịch giả Hồ Bạch Thảo khi dịch cuốn Thanh thực lục cũng đặt nghi vấn về chi tiết dị biệt này giữa các tài liệu. Ông nghiêng về việc dùng bó rơm. Trong lời bàn của người dịch, ông viết : “ Việc dùng rạ bó thành bó lớn như bánh xe khổng lồ, bó nọ nối liền bó kia cùng lăn đều tạo thành bức tường di động giúp quân lính núp đằng sau tương đối an toàn, vừa tiến lên vừa bắn, để đánh chiếm đồn giặc, là một sang kiến tuyệt diệu”. Cuối cùng ông kết luận : “ Rất  tiếc những bộ sử ngày nay như Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, và Đại cương lịch sử Việt Nam của NXB Giáo dục Hà Nội vẫn dùng sử liệu “ Ghép ván có phủ rơm” của bộ tiểu thuyết Hoàng Lê nhất thống chí mà không đề cập đến bó rạ lăn tròn được chép trong sử Thanh và sử Triều Nguyễn” ( Thanh thực lục Tr 79- 80 ). Gần đây trên tạp chí Xưa và Nay số 336 ra tháng 7- 2009, tác giả Hồ Bạch Thảo cũng nhận định tương tự.
    Chúng tôi cho rằng, trong việc tấn công đồn Ngọc Hồi, việc dùng “ tấm ván phủ rơm” như Hoàng Lê nhất thống chí là hoàn toàn hợp lý. Trong trường hợp này, người ta không thể dung bó rơm ( hay rạ ) bởi vì:
    – Rơm rạ là chất dễ cháy, dễ bén lửa. Trong lúc đó , hỏa lực trong đồn địch bắn ra rất mạnh. Không ai lại dung rơm để tự thiêu cháy quân mình.
    – Muốn khỏi cháy, cách duy nhất là phải dấp ướt các bó rơm, lúc ấy sẽ bị xẹp lại, bết vào nhau. Rơm phải đủ ướt ( ướt sũng ) thì mới không thể cháy được khi tên lửa và sung phun lửa bắn vào. Nhưng nếu ướt như thế, nó sẽ thành một mớ bùng nhùng, không thể lăn tròn được, nhất là với một bó rơm to như cái bánh xe khổng lồ , đường kính ít nhất phải 1,5 m mới che được cho người  thì làm sao mà lăn được .Dù buộc bằng cách nào, đối với một bó rạ to như thế, khi lăn sẽ bị xộc xệch, chỉ độ chục mét là bung ra ngay. Không lẽ lúc ấy phải dừng lại mà bó để hứng đạn của địch? Không ai lại đùa với mạng sống của binh lính khi dùng những vật dễ bung, dễ hỏng như vậy.
    Vậy thì dù dung rơm khô hay rơm ướt đều không khả thi. Trong khi đó, dùng ván phủ một lớp rơm ướt ở bên ngoài, việc khiêng vác sẽ rất nhẹ nhàng, thuận tiện.
    Dịch giả Hồ Bạch Thảo nêu nghi vấn: Nếu khiêng ván thì mép dưới ván ít nhất cũng phải cách mặt đất 0,2 mét để khỏi vấp khi địa hình mấp mô, tên đạn của địch cứ nhằm vào vào phía dưới chân mà bắn, như vậy không tránh khỏi bị thương vong. Xin thưa rằng, không ai khiêng ván dựng đứng cả ( tức mặt phẳng ván vuông góc với mặt đất ). Mà người ta khiêng ván nghiêng 60-70 độ so với mặt đất. Lúc đó mép dưới của ván cách xa chân người , dù mép ván cách mặt đất 0,2m  ( để khỏi vấp khi địa hình mấp mô) thì đạn cũng không thể chạm tới chân người được.
    Chúng tôi cho rằng, trong trận tấn công đồn Ngọc Hồi, quân ta đã dùng tấm ván phủ rơm ướt bên ngoài che đỡ cho đoàn quân tiến lên là hoàn toàn chính xác.Đối với quân đội của Quang Trung, các chiến thuật công đồn là rất sáng tạo. Chúng ta không loại trừ có những đơn vị sử dụng “ Thuyền cáng” làm khiên che khi tấn công, như có lần chúng tôi đã đề cập. Tuy nhiên, không thể dùng bó rơm lăn tròn như sử nhà Thanh hay sử nhà Nguyễn mô tả. Ngay sử nhà Nguyễn trong Khâm định Viẹt sử thông giám cương mục ghi là dùng bó rơm lăn tròn thì trong Đại Nam liệt truyện lại cho rằng Quang Trung dung những tấm ván .Sách này viết: “Mờ sang mồng 5, tiến sát đến luỹ Ngọc Hồi, trên luỹ đạn bắn , Huệ sai chiến sĩ đội ván gỗ để xông vào trận mà tự thúc voi đốc đằng sau” (Sđ d. q.30). Như vậy thì thuyết cho rằng Quang Trung dung tấm ván phủ rơm ướt bên ngoài để che đỡ cho quân lính là chính xác. / .
*

KỲ CÔNG NGOẠI GIAO
SAU ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN KỶ DẬU 1789

Chiến công lừng lẫy của cuộc đại thắng mùa xuân Kỷ Dậu là một trong những mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Bên cạnh chiến công ấy, có một chiến thắng cũng không kém phần quan trọng, đó là những thắng lợi về mặt ngoại giao. Chiến thắng này đã đưa hai nước, hai triều đại đang đối đầu trên chiến trường trở thành những người bạn láng giềng hiểu biết lẫn nhau, mang về cho hai nước Việt – Trung món quà quý giá nhất mà ai cũng trông mong: hòa bình và hữu nghị.
Những sách lược ngoại giao đúng đắn
Ngày 30 tháng chạp Mậu Thân (1788) khi đang ở Tam Điệp (Ninh Bình), trước lúc chuẩn bị cho chiến dịch giải phóng Thăng Long, Quang Trung đã nói với tướng sĩ: “Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được người Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp 10 nước ta, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân. (Ta) Nỡ lòng nào mà làm như vậy!” (Hoàng Lê nhất thống chí – HLNTC). Như vậy là trong khi đang lo đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, Quang Trung đã nhìn thấy trước, đã tính đến nước cờ: làm sao để kết thúc chiến tranh thật gọn, thật dứt điểm, không để dây dưa về sau, di hại cho dân. Muốn thế thì không còn cách nào khác là phải tranh thủ thiết lập quan hệ ngoại giao với chính đối thủ của mình.

Ngay sau khi giải phóng Thăng Long, triều đình đọc được trong đống giấy tờ của Tôn Sĩ Nghị (vội tháo chạy không kịp mang theo) có chỉ dụ của vua Càn Long: “Chỉ nên làm thanh viện cho họ (tức nhà Lê), để tự họ lo lấy, không cần phải dấy quân làm to chuyện (HLNTC). Bản ý của Quang Trung sau khi kết thúc chiến tranh: “Ta xem tờ chiếu của vua Thanh thì chẳng qua họ cũng chỉ cốt xem tình hình ta mạnh yếu ra sao để mà dễ bề tiến lui, chứ  còn nghĩa cử dựng lại nhà Lê không phải là bản tâm của họ. Họ chỉ mượn tiếng để mưu đồ lợi riêng mà thôi”. Nắm bắt được ý đồ này của vua Thanh, Quang Trung kết luận: “Nay họ bị ta đánh thua, nhịn đi thì thẹn, báo thù thì khó” (HLNTC). Chính vì vậy mà sách lược đầu tiên là phải “chữa thẹn” cho vua Thanh.
Công việc chữa thẹn đầu tiên là tập trung tất cả quân Thanh ra đầu thú lại, đối xử tử tế, chu cấp cho họ cơm ăn áo mặc, rồi đưa hết lên cửa ải, chờ trao trả lại cho nhà Thanh, rồi “xin lỗi” nhà Thanh. Đó là việc làm hợp đạo lý, hợp với truyền thống nhân đạo của dân tộc ta và được nhà Thanh nể phục. Công việc thứ hai là viết biểu trần tình, thanh minh về sự việc xảy ra vừa rồi, cho người tin cẩn lên cửa ải đợi mệnh. Phái bộ Nguyễn Quang Hiển, cháu ruột của Quang Trung nhận nhiệm vụ này. Trong biểu trần tình (do Ngô Thì Nhậm soạn) có viết: “Tôi không tránh lời dèm ném chuột, liền đem năm ba dân đinh trong ấp đi theo. Ngày 5-1 năm nay, tiến ra Thăng Long, vốn còn mong Sĩ Nghị nghĩ lại, may ra lấy ngọc lụa thay can qua, chuyển binh giáp làm hội áo xiêm, tôi khẩn khoản xin yết kiến, nhưng không được Nghị trả lời”. Sau khi vạch tội Sĩ Nghị, tờ biểu tỏ lòng quy thuận: “Kính xin Đại Hoàng đế thể theo lòng trời làm trị, tươi héo tốt xấu thuận theo lẽ tự nhiên, tha thứ cho cái tội tạm thời không đừng được mà phải dùng binh đối phó, lượng xét cho cái lòng thành ba lần đến cửa quan tâu bày, đặt chức tư mục, dựng bức bình phong, ban cáo mệnh, phong cho tôi làm An Nam Quốc vương, giữ chức một phương, giữ thống lĩnh. Tôi sẽ sai sứ giả, theo lệ chư hầu dâng lễ cống và phụng nội số nhân khẩu hiện còn ở bản quốc để giữ lòng thành” (Biểu trần tình – Tổng tập văn học Việt Nam – tập 9A). Ở đây, thái độ Quang Trung hết sức nhún nhường, hết sức “hối lỗi” (vì đã “lỡ” tiêu diệt 20 vạn quân của thiên triều!). Tuy nhiên, ông cũng cảnh cáo vua Thanh, nếu không được chấp nhận, sự việc đổ bể thì “Tôi cũng phó mặc cho mệnh trời mà không dám biết tới vậy” (tức ý nói sẽ đánh đến cùng, còn nếu kết cục ra sao thì không thể lường trước được).
Đối với các quan lại nhà Thanh trực tiếp có quan hệ với nước ta thì triều đình “dùng lời nói khéo, đem lợi để nhử” (Lịch triều tạp kỷ – LTTK) cốt để tranh thủ họ, lấy lòng họ. Ví dụ, đối với hai viên tri phủ Thái Bình và Nam Ninh (hai phủ sát biên giới nước ta) hay với viên Tả giang đạo Thanh Hùng Nghiệp, Tổng lý biên vụ (tức tổng quản các vấn đề biên giới), triều đình Quang Trung đều tỏ thái độ hết sức nhún nhường, đề cao họ, luôn tranh thủ sự đồng tình của họ để họ sẵn sàng giúp đỡ trong những việc cần đến. Từ những người này mà móc nối với Phúc Khang An – Tổng đốc Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây), từ Phúc Khang An mà đặt mối liên hệ với Các thần Hòa Khôn (có sách ghi là Hòa Thân), viên cận thần của Càn Long. Có như thế thì những nhã ý của Quang Trung mới thấu đến vua Càn Long được.
Hòa Khôn là người được Càn Long tin cậy và sủng ái. Biết ông ta là một viên quan tham nhũng có tầm cỡ, Quang Trung sẵn sàng “lễ hậu”. Chính Hòa Khôn đã nói với Càn Long một câu rất chính xác, nhưng không phải ai cũng dám nói: “Từ xưa đến nay, Trung Hoa chưa có đời nào làm nên công trạng ở cõi Nam cả. Nhà Tống rồi nhà Nguyên, nhà Minh, rốt cuộc đều bị thua trận, gương ấy hãy còn rành rành” (HLNTC). Nếu Hòa Khôn không nhận “hậu lễ” của quân ta, chắc ông ta không dại gì mà nói một câu “chết người” như thế. Và nếu không phải là một đại thần hết sức được sủng ái thì vua Thanh chắc đã nổi cơn thịnh nộ mà chém đầu kẻ đã dám đề cao một nước phiên thuộc, hạ thấp uy thế của thiên triều như thế.
Phúc Khang An là một viên quan mới được thay thế Tôn Sĩ Nghị làm Tổng đốc Lưỡng Quảng. Được thấy cảnh Sĩ Nghị một mình ôm đầu chạy về, lại được nhìn thấy cảnh suốt 200 dặm nội địa (đất Trung Hoa) dân bỏ chạy tứ tán, tất ông ta đã biết được sức mạnh của quân đội Quang Trung. Bản thân không muốn gây chiến tranh nhưng nhận lệnh triều đình, ông ta phải chấp hành, nên đã tập hợp binh mã 9 tỉnh để chuẩn bị báo thù. Nhưng trong thâm tâm, Phúc Khang An chỉ mong biên giới ổn thỏa, chính vì vậy mà ông ủng hộ cái thiện chí của ta, bởi mục tiêu hòa bình và ổn định biên giới của ta cũng chính là nguyện vọng của Phúc Khang An.
Nhún nhường không có nghĩa là hạ mình
Tất nhiên, sự mềm dẻo, nhún nhường không có nghĩa là đối phương đưa ra yêu sách gì là Quang Trung đáp ứng ngay. Khi Phúc Khang An muốn Quang Trung lên cửa ải để tiếp kiến, ông đã từ chối thẳng, viện cớ là: “Nước vừa xây dựng, không được một phút rảnh tay, hiện nay chưa thể rời khỏi đô thành” (thư gửi Thang Hùng Nghiệp) và “trèo đèo lội suối, phí tổn rất nhiều của cải, sức lực của dân, trong lòng có chỗ rất áy náy, không yên” (thư gửi Phúc Khang An, 28 – 4 Kỷ Dậu). Phúc Khang An yêu cầu trong lễ cống cần có 2 – 4 con voi, Quang Trung cũng nêu khó khăn và xin miễn, vì voi chiến thì “đang xua vào biên thùy phương Nam để khống chế các Man”, voi thuần dưỡng thì các bộ lạc người Man “đang đánh lẫn nhau nên chưa thể mua được” (LTTK). Nếu ta nhớ rằng trước đó 3 – 4 tháng trong chiến dịch mùa xuân Kỷ Dậu, Quang Trung đưa một đội tượng binh hàng trăm thớt voi đánh vào Ngọc Hồi, Đầm Mực thì sẽ thấy 2 – 3 con voi chẳng có ý nghĩa gì. Tuy nhiên, Quang Trung vẫn từ chối để chứng tỏ rằng không phải thiên triều yêu sách gì, ta cũng chấp nhận. Vả lại, những con voi lập nên chiến công như thế, ông “không nỡ” đem tặng kẻ thù!
Trong quá trình chuẩn bị cho lễ phong vương, Quang Trung cũng không hành động như Phúc Khang An nghĩ. “Quốc vương họ (chỉ Quang Trung) từ khi nộp khoản đầu hàng tới nay, đối với mọi nghi văn lễ tiết phụng sự thiên triều đều rất cung kính thận trọng. Vì vậy, được hưởng ân sủng đặc biệt của Thánh chúa, cả nước vẻ vang, quốc vương của họ cũng phải vô vàn cảm khích, vô vàn kính phục, hẹn trước để chờ đợi đón tiếp ở dọc đường” (trát của Phúc Khang An gửi cho Chánh đường phủ Thái Bình họ Lâm – LTTK). Sự thật không phải như tưởng tượng của Phúc Khang An: Quang Trung không “vô vàn cảm khích mà đứng chờ đợi dọc đường” để đón tiếp sứ Thanh! Khi sứ nhà Thanh lên đường sang ta, hẹn với Quang Trung ngày 24 – 9 cùng có mặt ở Thăng Long để làm lễ sắc phong. Ngày 13 – 9 nhận được công văn của nhà Thanh, ông hẹn rằng trung tuần tháng 9 sẽ có mặt (thư gửi Phúc Khang An). Nhưng sau đó, Quang Trung lại thay đổi kế hoạch. Lý do ông đưa ra với Phúc Khang An là: có một đoàn thuyền tuần tiễu 100 chiến tiến vào vùng biển Biện Sơn (Thanh Hóa) rồi kéo vào Nhật Lệ, Tư Khánh (Thuận Hóa), cờ xí, khí giới đều là hình mẫu của nội địa (tức nhà Thanh), đề nghị Phúc Khang An giải thích rõ những tàu thuyền ấy là của ai, để có cách xử trí. Thế nhưng, khi gửi thư cho Chánh đường phủ họ Lâm và 2 vị sứ thần thì Quang Trung lại nêu lý do là bị ốm: “Nào ngờ khi mới bị cảm, tiểu phiên không được nghỉ ngơi mà cứ phải miễn cưỡng làm việc, lại hành trình vất vả nhiều, bệnh cũ phát ra, khi đến đất Đông Thành (Nghệ An) bị cảm nặng, cơ thể rất mệt mỏi, rất khó mang bệnh mà đi, đành phải tạm cấp tốc chạy chữa”. Rồi Quang Trung hẹn đầu tháng 10 sẽ ra tới Thăng Long.
Ngày 22 – 9 – 1789, đoàn sức bộ nhà Thanh đến Gia Quất (Gia Lâm – nơi đón tiếp sứ bộ) ở bên kia sông Hồng thì ngày 3 – 10, Quang Trung mới khởi hành từ Nghệ An. Ngày 15, Quang Trung cho dàn nghi lễ, cờ xí đón rước sứ đoàn vượt sông Hồng sang Thăng Long để làm lễ cầu phong. Nghe lễ hoàn tất, sứ giả lại vượt sông Hồng sang Gia Quất để 17 – 10 trở về Trung Hoa. Như vậy, Quang Trung và các cộng sự của ông đã biến thù thành bạn mà không hề hạ mình và uy tín của dân tộc, của triều đại vẫn được đề cao đến tột cùng. Đó là một điều kỳ diệu, một kỳ công trong nền ngoại giao Việt Nam cuối thế kỷ 18.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

GIẢI MÃ BÍ ẨN SỰ KIỆN QUANG TRUNG GIẢ THỜI TÂY SƠN

Sự tồn tại của triều đại Tây Sơn quá ngắn ngủi, do đó mà nhiều sự kiện lịch sử, nhiều nhân vật lịch sử không kịp ghi vào sử sách. Chưa có một bộ sử chính thống của triều đình, đại loại như Đại Việt sử ký tục biên (của triều Lê trước đây) hay ĐạiNamthực lục (của triều Nguyễn sau này). Muốn tìm hiểu thời kỳ Tây Sơn, triều đại Tây Sơn, chúng ta chỉ con cách tìm trong những ghi chép cá nhân (dã sử) hay nhặt nhạnh những ghi chép có liên quan đến triều đại Tây Sơn của các sử gia nhà Nguyễn (như Đại Nam thực luc, Đại Nam liệt truyện) hay những tư liệu, thư từ ngoại giao còn lưu lại. Chính vì vậy mà nhiều sự kiện lịch sử, nhiều nhân vật lịch sử còn chìm trong bí ẩn. . Để làm sáng tỏ những bí ẩn đó, không phải ngày một ngày hai. Xung quanh sự kiện Quang Trung (giả) sang chầu vua nhà Thanh năm 1790, một sự kiện ngoại giao “lạ lùng và vẻ vang” (lời người đương thời) trong lịch sử ngoại giao của dân tộc ta, vẫn còn nhiều điều chưa sáng tỏ. Những câu hỏi đại loại như:
– Tại sao vua Thanh Càn Long chỉ yêu cầu một mình vua Quang Trung sang triều kiến mà cả hai cha con nhà vua cùng đi?
– Tại sao giữa đường Nguyễn Quang Thùy cáo ốm rồi trở về nước?
– Tại sao Phạm Công Trị là cháu vua, được chọn đóng vai Quang Trung giả, lại còn có Phạm Công Trị hộ tống Nguyễn Quang Thùy trở về nước, ngay khi vừa mới đi hết đất Lưỡng Quảng?
Bài viết này hi vọng làm sáng tỏ những bí ẩn về sự kiện ngoại giao “lạ lùng và vẻ vang” có một không hai đó.
1. Lý do cần phải có Quang Trung giả.
Năm 1789, sau đại thắng mùa xuân Kỷ Dậu, uy thế của triều đại Tây Sơn lên cao chưa từng thấy. Tuy nhiên, như vua Quang Trung từng nhận định: “Chúng là nước lớn gấp mười nước ta, sau khi bị nhục một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân” (Hoàng Lê nhất thống chí). Để tránh một cuộc binh đao “không bao giờ dứt” đó, đường lối ngoại giao của nhà Tây Sơn là khôn khéo, mềm dẻo, nhún nhường, linh hoạt. Nguyên tắc đặt ra là tránh những căng thẳng ngoại giao không cần thiết, có thể thỏa mãn những tiểu tiết, nếu điều đó không ảnh hưởng đến chủ quyền dân tộc, lợi ích quốc gia.
Về phía nhà Thanh, sau trận thua đau mùa xuân Kỷ Dậu, không khỏi hổ thẹn, nuôi chí phục thù. Tuy nhiên, đối với các quan lại địa phương sát biên giới nước ta (như Phúc Khang An, Thang Hùng Nghiệp. . .) họ đã thấy rõ sức mạnh của Tây Sơn, rất “ngán” một cuộc đụng độ tiếp theo mà bài học Tôn Sĩ Nghị còn đang nhãn tiền. Một cuộc đối thoại hòa bình dù sao cũng còn tốt hơn nhiều một cuộc đối đầu trực tiếp. Đó là điều mà hai bên có thể đi đến tiếng nói chung. Tuy nhiên, điều mà vua Càn Long nhà Thanh đặt ra là vua Quang Trung phải sang triều cận vua Thanh để tỏ ý “thần phục”. Đây thực chất là nhằm chữa thẹn cho vua Càn Long và triều đình nhà Thanh trước bàn dân thiên hạ của họ mà thôi. Trong thư của Phúc Khang An, viết theo lệnh của Càn Long, cũng thường nhắc tới yêu cầu này, coi như điều kiện tiên quyết để bình thường hóa quan hệ hai nước : “Chú ngươi (tức vua Quang Trung- PDK chú) đều có thiên lương và cũng là người hiểu biết. Phải nên muôn phần cảm kích, vui mừng, nếu không tự mình tới kinh để chiêm ngưỡng thiên nhan, khấu đầu cảm tạ ơn lớn thì lấy gì bày tỏ lòng sợ trời thờ nước lớn, thành kính cung thuận?” (Trích thư của Phúc Khang An gửi Nguyễn Quang Hiển tháng 5-1789) (Lịch triều tạp kỷ). Và “ Mùa xuân sang năm , bản đường ở trong cửa quan đợi Quốc trưởng để cùng vào triều cận, cúi đầu lạy chỗ cung khuyết nhà vua , giãi bày lòng thành thực” ( Đại Việt quốc thư)
Thế nhưng, đối với vua Quang Trung thì điều đó là không thể được. Bởi vì, từ xưa chưa có một vị vua nào của nước ta lại chịu sang chầu vua một nước khác. Từ Đinh, Lý, Trần, Lê đến bây giờ đều thế. Đây là nguyên tắc ngoại giao, là thể diện quốc gia. Vì vậy cần phải có một “vua giả” sang chầu là điều mà các nhà thương thuyết của cả hai bên sớm đi đến thống nhất. Tuy nhiên, thực hiện giải pháp này là một sự mạo hiểm chết người. Bởi nếu lộ ra thì quan hệ giữa hai nước được xây dựng, được vun vén hàng năm trời nay có nguy cơ bị đổ bể. Kéo theo đó là một số quan lại nhà Thanh dính líu trong vụ này sẽ chịu tội rất nặng với triều đình nhà Thanh, có thể đến mức tử hình (vì mang tội khi quân). Chính vì vậy mà việc bố trí một đoàn sứ bộ hộ tống “vua giả” phải cực kỳ thận trọng, phải tính đến từng chi tiết nhỏ. Một vở kịch phải đóng không phải ngày một ngày hai mà là hàng năm trời (thời gian đi sứ, cả đi và về thường hơn 1 năm!)
2. Tại sao đoàn sứ bộ lại phải có hai cha con: Vua Quang Trung và Hoàng tử Nguyễn Quang Thùy
Trong đoàn sứ bộ Tây Sơn sang triều cận vua Thanh nhân bát tuần đại khánh (mừng thọ 80 tuổi) của vua Thanh ta thấy có “vua giả” do Phạm Công Trị đóng. (Theo Quốc sử quán triều Nguyễn thì vào tháng 10 Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung cũng cho Phạm Công Trị đóng vai Quang Trung giả ra Thăng Long nhận sắc phong của vua Thanh. Như vậy đây là lần thứ hai, Phạm Công Trị đóng vai Quang Trung giả). Đoàn còn có Hoàng tử Nguyễn Quang Thùy (thật). Võ thần có Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân, văn thần có Phan Huy Ích, Võ Huy Tấn, Đoàn Nguyễn Tuấn. . . Tổng số thành viên trong đoàn có 159 người. Tuy nhiên , khi mới đi hết địa phận Lưỡng Quảng thì Nguyễn Quang Thùy bị ốm, không đi tiếp được phải về nước dưỡng bệnh. Trong số những người tháp tùng Hoàng tử về nước dưỡng bệnh có Phạm Công Trị. Điều này sứ đoàn ngoại giao của ta đã có tâu báo với vua Càn Long, và đích thân Càn Long đã ra chỉ dụ, trong đó viết: “Nguyễn Quang Thùy ít tuổi, người yếu, đi xa muôn dặm lại thêm phần khó nhọc , lũ Phúc Khang An cho phái bồi thần nước ấy là Đặng Văn Chân cùng cháu gọi vua nước ấy bằng cậu là Phạm Công Trị đi kèm để ra khỏi cửa quan, dặn phải điều trị cho khéo, điều đó là rất phải” (Đại Việt Quốc Thư, tr.271 ). Đây chính là diều làm nhiều nhà nghiên cứu thắc mắc, cho rằng Phạm Công Trị đã về nước theo Nguyễn Quang Thùy rồi, đâu còn ở lại trong đoàn mà đóng vai “vua giả”. Tác giả Nguyễn Thế Long trong cuốn Bang giao Đại Việt triều Tây Sơn (Nxb VHTT,2005, tr.69) sau ghi sự kiện này, cũng đi đến kết luận: “Trong tờ dụ này có nói đến cháu vua là Phạm Công Trị cùng đi trong đoàn và khi Nguyễn Quang Thùy ốm thì cùng với Đặng Văn Chân đưa về, vì vậy , từ xưa đến nay đều nói người đóng giả vua Quang Trung là Phạm Công Trị  có lẽ không đúng”. Tác giả Tạ Chí Đại Trường trong cuốn Việt Nam thời Tây Sơn, Lịch sử nội chiến (Nxb CAND, 2007) cũng đặt vấn đề nghi vấn: “Theo Liệt truyện thì vua giả là Phạm Công Trị , người có mặt ở Gia Định năm 1783. Rắc rối là trong sứ bộ năm 1790 lại có tên Phạm Công Trị đã đến Quảng Tây mà vì Nguyễn Quang Thùy bị bệnh, phải hộ tống trở về” . Vậy thì tại sao lại có sự lạ lùng như thế. Muốn hiểu điều này, chúng ta lại phải trả lời câu hỏi: -Tại sao vua Càn Long chỉ yêu cầu có một mình vua Quang Trung sang chầu mà Quang Trung lại “thật thà” và “quá sốt sắng” đi cả hai cha con?”. Trả lời câu hỏi này cũng chính là làm rõ vì sao có Phạm Công Trị về nước theo Nguyễn Quang Thùy.
Chúng ta biết, việc cử “vua giả” sang chầu Càn Long là một điều bắt buộc, một sự vạn bất đắc dĩ bởi nó là sự mạo hiểm chết người đối với các nhà ngoại giao của cả hai bên, và ảnh hưởng rất lớn đến thành quả ngoại giao mà hai bên đã gặt hái được trong quá trình phấn đấu hàng năm trời. Vì vậy, việc tính toán kỹ lưỡng , chi tiết cho cho chuyến đi này là vấn đề sống còn của cả hai bên. Có ai dám chắc rằng , trong cả quá trình đi hàng mấy tháng trời qua rất nhiều địa điểm đón tiếp, không phạm phải những sơ suất mà chân tướng vua giả sẽ lộ ra? Ai dám đảm bảo rằng , trong số rất nhiều vong thần nhà Lê, những kẻ tử thù của Tây Sơn hiện đang nhan nhản ở vùng sát biên giới (bên phía Trung Quốc) nhận diện ra Quang Trung giả rồi lu loa lên để phá hoại công cuộc bang giao? Chính vì vậy mà Nguyễn Quang Thùy chính là nhân vật chính của phương án 2, nếu phương án 1 là Quang Trung giả bị bại lộ. Ở đây ta thấy cái tài khôn khéo của các nhà ngoại giao Tây Sơn, đó là trong giả có thật, trong thật có giả. Quang Trung là giả, nhưng con Quang Trung là Quang Thùy lại là thật. . Và khi giả (phương án 1) bị bại lộ thì thực (phương án 2) sẽ thay thế, quyết không để cho công cuộc bang giao bị đổ bể. Tình huống cụ thể ở đây là, trong đoàn ngoại giao có ghi tên Phạm Công Trị (người có thực đang đóng vai Quang Trung) nhưng người mang tên Phạm Công Trị lại là một người khác (có thể chỉ là một nhân vật vô danh, một người lính chẳng hạn) . Đặt trường hợp Quang Trung giả bị phát hiện là Phạm Công Trị , thì tất nhiên ông phải nhận mình là Phạm Công Trị, tên tuổi ông đã được ghi rõ ràng trong danh sách ngoại giao đoàn. Lúc đó thì “Quang Trung” đành phải cáo ốm mà trở về nước, ủy thác lại cho Nguyễn Quang Thùy tiếp tục công việc. Các nhà ngoại giao Tây Sơn sẽ thác lời Quang Trung mà làm một tờ biểu trần tình lên Càn Long, đại khái nói : Tiểu phiên (Quang Trung thường tự xưng với Càn Long như thế-PDK chú) vì không quen thủy thổ, bị ốm dọc đường, tình thế rất khẩn thiết, nay ủy cho con trai tôi là Nguyễn Quang Thùy thay mặt Tiểu phiên đến chầu hầu Đại Hoàng đế. Tiểu phiên lòng xiết bao sợ hãi, xin được xá tội. . .” Đại loại là như thế. Lúc ấy Quang Trung “giả” sẽ về nước. Người tháp tùng Quang Trung “giả” sẽ là Phạm Công Trị, lúc này sẽ lấy tên thật. Còn ai sẽ là Quang Trung “giả” trong vai vua ốm? Đó chính là người vô danh đội tên Phạm Công Trị lúc ra đi. “Người vô danh” này không cần phải giống Quang Trung, bởi vì dọc đường về, do “vua” bị ốm nên sẽ ở trong xe (hoặc kiệu) được buông rèm kín không lộ diện để “tránh nắng gió”, đó là lý do hợp lý không ai phản bác được. Tuy nhiên, điều chẳng may bị lật tẩy đó đã không hề xẩy ra. Đoàn vượt biên giới Lạng Sơn vào ngày 13-4 Canh Tuất (1790). Đầu tháng 5 thì đi hết địa phận Lưỡng Quảng. Sự việc diễn ra êm đẹp. Từ đây, khi đã vào sâu trong nội địa Trung Quốc thì mối lo bị lộ tẩy do các vong thần nhà Lê hay các thế lực thù địch với Tây Sơn không còn nữa. Có nghĩa là phương án 2 không cần đến. Lúc này, Nguyễn Quang Thùy phải trở về nước. Nguyễn Quang Thùy được phong tước Khang Công, đang lĩnh chức Tiết chế thủy bộ ở Bắc Thành (tức chỉ huy toàn bộ quân đội ở phía Bắc) ông còn nhiều việc phải làm. Phạm Công Trị trong vai Quang Trung giả cũng không có gì sơ suất, cần phải “quên” cái tên Phạm Công Trị đi. Vì vậy, “người vô danh” mang tên Phạm Công Trị trong dịp này cũng trở về với Nguyễn Quang Thùy. Như vậy, dù thực hiện phương án 1 (Quang Trung giả) hay phương án 2 (Hoàng Tử thật) thì cái tên Phạm Công Trị cũng phải được xóa bỏ trong danh sách Đoàn ngoại giao trước khi triều kiến vua Càn Long. Đó là lý do vì sao chúng ta thấy trong số những người tháp tùng Nguyễn Quang Thùy về nước lại có tên Phạm Công Trị.
3. Chưa có lần nào lạ lùng và vẻ vang như thế.
Đây là nhận xét của Đoàn Nguyễn Tuấn, một thành viên trong sứ đoàn ngoại giao 1790. “Lạ lùng” là như chúng tôi đã phân tích ở trên. Thực mà hư, hư mà thực, trong thực có hư, trong hư có thực. Những nhà thiết kế chuyến đi này không chỉ bố trí người đóng vai Quang Trung giả mà cả người đội tên của người đóng vai Quang Trung giả, tức là phải hai lần giả: Quang Trung giả và Phạm Công Trị giả. Và, nếu vạn bất đắc dĩ bị lộ tẩy thì Phạm Công Trị (thật) sẽ đứng ra nhận tên mình để khỏi bị đổ bể. Đó chính là sự bố trí thần tình của chuyến đi ngoại giao đầy bí ẩn này !
Thế rồi Quang Trung “giả” đã không bị bại lộ. Phái đoàn sứ bộ của ta đã thành công mỹ mãn. Vua Càn Long đã tỏ ra rất trân trọng , rất chu đáo với “Quang Trung”. Trên đất Trung Quốc phái đoàn đi đến đâu cũng được đón tiếp long trọng như là đón vua thật. Thậm chí khi Càn Long nhận được quà biếu là quả vải tươi, đã cho chạy ngựa trạm vượt hàng ngàn dặm, đem đến biếu Quang Trung lúc ấy đang trên đường đi. Xem số quả vải tươi được biếu (5 quả) , trong đó vua Quang Trung được 2 quả, Phúc Khang An được 2 quả và Ngô Văn Sở được 1 quả, đủ thấy nhà Thanh quý quả vải tươi như thế nào, và tầm cỡ của người được biếu vải.
Khi phái đoàn của Quang Trung (giả) đến Nhiệt Hà để ra mắt Càn Long, vua Thanh đã tặng An Nam Quốc vương một viên ngọc Như ý, một tòa Ngọc phật , tặng cả đoàn một vạn lạng bạc, tặng Ngô Văn Sở một cái mũ san hô tam phẩm (tức công nhận Ngô Văn Sở ngang hàng quan tam phẩm nhà Thanh) .Ngày 20 tháng 8 Canh Tuất (1790) vua Thanh đặt tiệc tiễn Quang Trung về nước. Khi “Quang Trung” vào bệ kiến để từ biệt, Càn Long đã mời vào bên giường ngự, vỗ vai thân mật , sai họa sĩ cung đình vẽ một bức chân dung Quang Trung để tặng . Càn Long lại tự tay viết 4 chữ đại tự “Củng cực quy thành” ( Chầu về sao Bắc đẩu với tất cả lòng trung thuận, thành thực). Sách Hoàng Lê nhất thống chí ghi chép lại: “Khi Quốc vương tới Yên Kinh, vua Thanh mừng lắm, không hề biết là Quang Trung giả. Lúc Quốc vương vào yết kiến, vua Thanh cho ăn yến với các vị thân vương, lại ban ơn đặc biệt cho làm lễ ôm gối, hệt như tình cha con trong nhà. Lúc Quốc vương lạy tạ về nước, vua Thanh sai thợ vẽ bức truyền thần mà ban cho, ân lễ rất trọng hậu, thực là một cách đối đãi khác thường từ ngàn xưa hiếm có.”
Theo Đại thanh thực lục thì số tiền nhà Thanh bỏ ra để chi tiêu vào việc đón tiếp Quang Trung trong suốt đợt đi sứ hết 80 vạn lạng bạc (con số này có thể bị khai khống lên để các quan lại địa phương có dịp bớt xén. Nhưng việc gửi quà, việc đón tiếp của Càn Long đối với Quốc vương An Nam là hết sức ân cần, chu đáo, điều đó không phải bàn cãi). Nhận xét về chuyến đi sứ này, nhà thơ Đoàn Nguyễn Tuấn , một thành viên của sứ bộ viết: “Từ trước đến nay, người mình đi sứ Trung Quốc chưa có lần nào lạ lùng và vẻ vang như thế”
Như vậy là từ mùa xuân 1789 đang là kẻ thù không đội trời chung (ta đã tiêu diệt 29 vạn quân Thanh, đuổi chúng chạy dài về nước), hơn một năm sau, năm 1790 hai nước đã trở lại quan hệ hữu hảo với nhau, coi nhau là đồng minh tin cậy, đó chính là thành tựu ngoại giao mà triều đại Tây Sơn đã đạt được. Trong một năm rưỡi ngắn ngủi đó, từ thù thành bạn, đó không phải là điều lạ lùng sao? Mà điều lạ lùng nhất , chính là sự kiện ngoại giao năm 1790, sự kiện Quang Trung giả, đỉnh cao của thành tựu ngoại giao thời Tây Sơn.
*

 

 

PHONG CÁCH XỬ SỰ ĐỜI THƯỜNG CỦA HOÀNG ĐẾ QUANG TRUNG

Nhắc dến Quang Trung Nguyễn Huệ, chúng ta thường hình dung đó là một con người quyết đoán, cứng rắn, với tài cầm quân xuất quỷ nhập thần, bách chiến, bách thắng . Một người như thế chắc tính tình phải khắc kỷ, khô khan, cứng nhắc… Thế nhưng, trong cuộc sống đời thường, ông lại rất vui vẻ, dí dỏm, có tài pha trò với những lời đối đáp rất thông minh, sắc sảo, chứng tỏ một trí tuệ mẫn tiệp xuất chúng. Ngay cả khi không vừa lòng thuộc cấp , ông vẫn chọn được cách nhắc nhở tế nhị nhất, thấm thía nhất, mà không hề “ đao to búa lớn”.
Sử chép, sau khi chiếm được Phú Xuân, Nguyễn Hữu Chỉnh vì nóng lòng muốn Nguyễn Huệ đánh ra Bắc Hà để Chỉnh được cơ hội báo thù riêng, nên có nói : “ Người tài Bắc Hà chỉ có một Chỉnh này thôi. Nay tôi đã đi rồi, ấy là cái nước rỗng không,xin ngài chớ nghi ngại”. Nguyễn Huệ mới đùa rằng: “ Không nghi ngại người nào khác, chảng hóa ra chỉ có ông là đáng nghi ngại thôi ư?” ( Hoàng Lê nhất thống chí- HLNTC). Lời nói của Chỉnh quả là sái. Nguyễn Huệ nói đùa bẻ lại rất nhẹ nhàng, nhưng thực chất là “ nhắc khéo” Chỉnh, “uốn nắn” Chỉnh  chớ nên kiêu căng “ mục hạ vô nhân”, đến nỗi một kẻ vốn gian hùng như Nguyễn Hữu Chỉnh cũng phải “ tái mặt” và cố sức thanh minh vì sự lỡ lời của mình.
 Lại chuyện khác. Nguyễn Hữu Chỉnh vì muốn lấy lòng Nguyễn Huệ, nên đã “ bịa” ra việc vua Lê muốn gả một nàng công chúa cho Nguyễn Huệ. Một việc vốn rất nghiêm túc và cũng “ đúng ý” Nguyễn Huệ , nên ông mới đùa rằng: “ Vì dẹp loạn mà ra, để rồi lấy vợ mà về, bọn trẻ nó cười cho thì sao ( năm ấy Nguyễn Huệ đã 33 tuổi). Tuy nhiên ta mới quen gái Nam Hà chứ chưa biết gái Bắc Hà, nay cũng nên thử một chuyến xem có tốt không”  ( HLNTC ). Mọi người xung quanh đều cười ầm . Một lời nói đùa mà chủ tướng và quân sỹ dưới quyền xích lại gần nhau, tưởng chừng như không còn khoảng cách!
Thực ra, không phải Nguyễn Huệ có ý “thử xem con gái Bắc Hà có tốt không”, mà thực chất cuộc hôn nhân này lúc đầu cả hai bên đều có ý đồ chính trị. Nguyễn Huệ nói đùa để che giấu ý đồ mà thôi. Vua Lê muốn thông qua cuộc hôn nhân để ràng buộc Nguyễn Huệ trong vai trò chàng rể, để ông càng cố công giúp rập triều đình vốn đang rất rối ren. Ngược lại , Nguyễn Huệ  cũng muốn thông qua việc làm rể để tìm hiểu nội bộ Hoàng tộc nhà Lê. Tất nhiên , sau này, khi đã thành vợ thành chồng, anh hùng và giai nhân ý hợp tâm đầu, mối tình Nguyễn Huệ- Ngọc Hân mới trở thành mối tình tuyệt đẹp trong sử sách. Vì vậy, sáu ngày sau hôn lễ, vua Lê Hiển Tông chết, hoàng tộc đưa Lê Duy Kỳ ( tức Chiêu Thống) lên nối ngôi, Nguyễn Huệ kiên quyết không chấp nhận, vì ông biết được nhân cách Lê Chiêu Thống qua vợ mình. Sau này, khi  Chiêu Thống bán nước, rước hơn 20 vạn quân Thanh vào nước ta, càng thấy Nguyễn Huệ – Ngọc Hân thật là sáng suốt.
 Ngay như việc phê đơn ( ngự phê) Nguyễn Huệ cũng có cách xử sự rất độc đáo. Giai thoại Thăng Long kể: năm 1786, Nguyễn Huệ ra Bắc đánh họ Trịnh. Khi quân đánh vào Văn Miếu, có làm đổ một số bia tiến sĩ. Đến năm 1789 sau đại thắng quân Thanh, khi Nguyễn Huệ đã lên làm vua, nhân dân quanh Văn Miếu có làm đơn lên ông, đề đạt nguyện vọng khôi phục lại các di tích bị đổ nát. Trong đơn mà các nhà nho làm hộ nhân dân, dám gọi nhà vua băng Ngài. Quang Trung đã phê:
 Ta không trách các nông phu
Ta chỉ gớm các thầy nho
Cả gan to mật, dám kêu vua bằng ngài”
( Thời ấy thần dân phải gọi vua bằng bệ hạ. Gọi vua bằng ngài là khi quân, trong trường hợp khác có thể quy tội rất nặng)
Sau đó ông viết tiếp:
“ Mai sau dọn lại nước nhà
Bia nghè lại dựng trên tòa muôn gian”
Qua sự kiện này, giữa nhà vua và dân chúng hầu như không còn khoảng cách. Đó là nhờ sự giản dị, phục thiện , tính cách bình dân ở ông mà rất hiếm vị vua chúa có được.
Là một người quyền uy tối thượng nhưng Nguyễn Huệ không bao giờ cậy quyền mà luôn biết kiềm chế mình, biết dừng đúng chỗ. Giai thoại Thăng Long còn kể lại sự kiện sau khi đánh tan họ Trịnh, Nguyễn Huệ vào yết kiến vua Lê Hiển Tông ở điện Vạn Thọ. Sân điện vắng teo. Nguyễn Huệ mặc võ phục, đeo bảo kiếm dẫn đầu đoàn võ tướng Tây Sơn, bước lên điện. Bỗng một người bước ra cản đường ông:
Dám thưa tướng quân, theo phép nước, khi lên chầu vua, không được mang gươm, xin tướng quân cởi gươm cho.
Lời yêu cầu rất lễ phép nhưng rất cứng cỏi, kiên quyết. Đây là lệ từ xưa của triều đình nhà Lê. Có thể Nguyễn Huệ không biết đến lệ này. Ông trừng mắt nhìn người vừa nói. Các tướng lĩnh Tây sơn dấn bước lên, tay sờ vào đốc gươm. Tưởng chừng như Nguyễn Huệ chỉ cần đưa mắt là kẻ bướng bỉnh dám cản đường kia sẽ rơi đầu trong giây lát. Thế nhưng Nguyễn Huệ đã từ từ cởi gươm ra, để lại. Người dám cản đường Nguyễn Huệ là Phương Đình Pháp, một trong số ít ỏi các viên quan còn ở lại bên vua Lê. Sau này, người đời đều khen cả hai ông. Người ta khen Nguyễn Huệ biết kiềm chế đúng mực, biết xử sự hợp lý và cũng khen Phương Đình Pháp can đảm, dám đứng ra duy trì bảo vệ nghi lễ tôn nghiêm của triều đình. Sau này chính Nguyễn Huệ cũng coi trọng Phương Đình Pháp.
Trong xử sự đời thường, Nguyễn huệ cũng rất cẩn trọng. Khi vua Lê Hiển Tông bệnh nặng sắp mất, Ngọc Hân muốn mời ông vào thăm vua cha lần cuối, nhưng Nguyễn Huệ giữ ý, nói : “Hoàng thượng với tôi, nghĩa như cha con. Song tôi mới từ xa tới đây, người trong nước chưa chắc đã tin hết cả. Nếu như tôi vào thăm, chẳng may đúng lúc người chầu trời, há chẳng khiến tôi mang tiếng muôn đời với thiên hạ ư? Chi bằng nàng cứ về thăm hoàng thượng và nói rõ với các anh chị em như thế, đẻ ai nấy đều hiểu cho lòng tôi” ( HLNTC) . Sự cẩn trọng giữ ý của ông như thế thật đúng mực.
Nguyễn Huệ cũng là người rất bao dung độ lượng. Trong cuốn thơ văn Phan Huy Ích có kể lại câu chuyện sau: khi người em ruột Phan Huy Ích chống lại Tây Sơn, bị mang trọng tội, Phan Huy Ích rất sợ hãi, vội viết biểu về triều tạ tội. Nhưng rồi ông rất vui mừng nhận được chiếu của vua Quang Trung:  “Tính người ta thiện ác khác nhau, cha còn không vừa được lòng con ,huống chi anh đối với em. Việc đã không dính líu đến thì còn có hiềm nghi gì”. Phan Huy Ích lúc đó mới yên tâm phục vụ triều Tây Sơn và trở thành một cộng sự đắc lực của Nguyễn Huệ.
Chúng ta đều biết việc Nguyễn Huệ ba lần viết thư mời La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp ra giúp nước. Lời thư ân cần , thiết tha, trân trọng hiếm có xưa nay: “ Mong Phu Tử nghĩ đến chúng dân thiên hạ, vụt dậy đi ra, để cho quả đức có thầy mà thờ, cho đời này có người mà cậy. Như thế mới ngõ hầu khỏi phụ ý trời sinh ra người giỏi” ( thư viết lần hai) và “ Mong Phu Tử xét tấm lòng thành, vụt dậy mà đổi bụng, lấy lòng vì Nghiêu Thuấn quân dân ra mà dạy bảo, khiến cho quả đức được thỏa lòng mong ước tìm thầy và đời này được nhờ khuôn phép của tiên giáo. Thế thì may lắm lắm” ( thư viết lần ba – Tổng tập văn học việtNam).
Đây không còn là những bức thư mang nội dung công văn hành chính nữa mà là thể hiện một tấm lòng. Nếu không có tấm lòng thực tâm tôn sư, cầu hiền, làm sao có thể viết được những lời tỏ bày gan ruột, thiết tha , cảm động đến như thế . / .

 

 

 

 

 

PHƯỢNG HOÀNG TRUNG ĐÔ VÀ KHÁT VỌNG DANG DỞ CỦA QUANG TRUNG

Những kinh đô trong lịch sử dân tộc
Trong lịch sử dựng nước lâu dài của dân tộc ta, có những vùng đất do đặc điểm đặc biệt của nó đã vinh dự được các triều đại chọn làm kinh đô. Đầu tiên, vào thời kỳ đất nước Việt Thường, kinh đô đóng ở vùng Ngàn Hống (nay thuộc huyện Can Lộc , Hà Tĩnh) mà chúng tôi đã có lần giới thiệu. Đến thời đất nước Văn Lang, kinh đô đóng ở Văn Lang, còn gọi là Phong Châu (nay là thành phố Việt Trì, Phú Thọ). Thời An Dương Vương, kinh đô đóng ở Cổ Loa (nay thuộc Đông Anh, Hà Nội). Thời Hai Bà Trưng, đóng đô ở Mê Linh (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc). Ngô Quyền dành lại độc lập tự chủ cho dân tộc, trở lại đóng đô ở Cổ Loa, kinh đô cũ của An Dương Vương. Hai triều đại Đinh – Lê chọn đóng đô ở Hoa Lư (nay là Trường Yên, Ninh Bình). Các triều đại Lý – Trần – Lê – Mạc đều đóng đô ở Thăng Long (nay là Hà Nội) . Nhà Hồ đóng đô ở Tây Đô (nay là Vĩnh Lộc, Thanh Hóa). Nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn đóng đô ở Phú Xuân (nay là Thành phố Huế). Năm 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) chọn đóng đô ở Hà Nội, tức kinh đô Thăng Long của các triều đại Lý- Trần – Lê xưa. Như vậy, kinh đô Thăng Long- Hà Nội đã có trên một ngàn năm tuổi.
Phượng Hoàng Trung đô và khát vọng của Quang Trung.
Ngay từ năm 1788, khi chưa lên ngôi, Quang Trung đã để ý dến việc tìm đất xây dựng kinh đô ở Nghệ An. Trong chiếu gửi La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp về việc chọn đất xây dựng kinh đô, Quang Trung đã viết: “Chiếu truyền cho La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp được biết: Ngày trước ủy thác cho Phu tử về Nghệ An xem đất đóng đô cho kịp kỳ này ngự giá ở Bắc về trú. Sao ta về tới đây thấy chưa được việc gì? Nay ta hãy hồi giá về Phú Xuân cho sĩ tốt nghỉ ngơi. Vậy ban chiếu xuống cho Phu tử nên sớm cùng ông Trấn thủ Thận tính toán và làm việc xem đất đóng đô tại Phù Thạch”
Tờ chiếu đề ngày 1 tháng 6 năm Mậu Thân (1788), như vậy việc giao trách nhiệm chọn đất đóng đô phải diễn ra trước đó.
Người ta cho rằng, sở dĩ Quang Trung chọn đất đóng đô ở Nghệ An là do Nghệ An là quê hương, gốc gác của ông. Điều đó chỉ đúng một phần. Bởi nếu thế thì sao ông không chọn Tây Sơn (Bình Định) là nơi sinh ra và trưởng thành của ông, lại là nơi ông phất cờ khởi nghĩa ?
Chúng tôi cho rằng, sở dĩ Nguyễn Huệ chọn Nghệ An để dóng đô bởi hai lẽ. Một là, nơi đây đất rộng người đông, là đất căn bản của nước nhà. Ngay từ thời Trần, khi quân Nguyên sang xâm lược nước ta lần thứ hai ( 1285), chúng chiếm được Kinh thành Thăng Long và hầu hết miền Bắc, triều đình nhà Trần đã phải  lui về Thiên Trường ( Nam Hà) rồi lại phải chạy vào Thanh Hóa, Trần Nhân Tông vẫn tin tưởng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, bởi vẫn còn đất căn bản Nghệ An: “ Hoan Diễn do tồn thập vạn binh” ( ở châu Hoan Diễn ta còn 10 vạn quân). Thực tế, nhà Trần đã giải phóng đất nước sau đó không lâu. Thời Lê , đất Nghệ An được coi là đất thang mộc của triều đình, lính bảo vệ kinh thành đều lấy ở Thanh Nghệ. Ta nhớ rằng khi ra Bắc diệt quân Thanh, Quang Trung đã dừng lại ở đây để tuyển quân. Nhân dân Nghệ An ( bao gồm Nghệ An – Hà Tĩnh bây giờ)  đã nô nức lên đường tòng quân , đóng góp vào chiến thắng thần tốc của Quang Trung .
Hai là, về địa lý, Nghệ An cách Thăng Long 300Km, cách Phú Xuân trên 300km, nằm vào khoảng giữa rất cân đường ra vào (lúc bấy giờ vùng đất từ Quảng Ngãi trở vào thuộc quyền kiểm  soát của Nguyễn Nhạc). Trong chiếu gửi Nguyễn Thiếp, Nguyễn Huệ cũng viết: “ Nay kinh đô ở Phú Xuân thì hình thế cách trở, ở xa trị Bắc Hà địa thế khó khăn. Theo đình thần nghị rằng chỉ đóng đô ở Nghệ An là đường vừa cân, vừa khống chế được trong Nam ngoài Bắc và sẽ làm cho người  tứ phương đến kêu kiện tiện việc đi về” ( chiếu đề ngày 3 tháng 9 năm Thái Đức 11, tức năm 1788). Cũng trong tờ chiếu đó, Nguyễn Huệ còn ghi nhận ở đây “ hình thế rộng rãi, khí tượng tươi sáng, có thể chọn để xây dựng kinh đô mới. Thật là chỗ đất đẹp để đóng đô vậy!”. Cũng vì nóng lòng muốn dời đô ra Nghệ An mà Nguyễn Huệ đã đích thân ra tận nơi để đốc thúc công viêc (7-1789).
Tuy nhiên, Nguyễn Thiếp lại là người không muốn Nguyễn Huệ đóng đô ở Nghệ An, có lẽ ông sợ việc xây dựng kinh đô sẽ làm khổ nhân dân địa phương. Chính vì vậy mà trong một tờ tấu gửi Quang Trung, ông đã nại ra rằng, ở chỗ đó đất chật hẹp, kề núi kề sông, bờ sông lại hay bị sạt lở, việc đóng đô là không thuận lợi. Quang Trung đã trả lời rằng: “Nếu bảo rằng những chỗ như Phượng Hoàng, Khánh Sơn không được đô hội thì sao chẳng tìm chỗ tốt khác cho thỏa ý quả cung trông mong? . . . Nhớ buổi hồi loan kỳ trước lúc qua Hoành Sơn, quả cung đã từng mở xem địa đồ, thấy ở huyện Chân Lộc, xã Yên Trường hình thế rộng rãi, khí tượng tươi sáng, có thể chọn để  xây kinh đô mới. Thật là chỗ đất đẹp để đóng đô vậy” ( Trích chiếu của Quang Trung đề ngày 3 tháng 9 năm Mậu Thân (1788) . Đọc nội dung tờ chiếu, ta có thể thấy được khát vọng của Quang Trung trong việc đóng đô ở Nghệ An. Ta có thể thấy rõ ý của ông, muốn nói rằng, không chỗ này thì chỗ khac, không lẽ đất Nghệ An rộng lớn như thế mà không chọn được chỗ đất đẹp để đóng đô hay sao? Từ những tờ chiếu của Quang Trung, ta thấy ông quyết tâm và tha thiết chọn đất đóng đô ở Nghệ An như thế nào!
Lựa chọn, trao đổi mãi, cuối cùng Nguyễn Thiếp cũng chọn được địa điểm để xây dựng kinh đô. Đó là vùng đất nằm giữa Núi Quyết và núi Kỳ Lân , tên dân gian là Rú Mèo, thuộc làng Dũng Quyết, xã Yên Trường, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An (nay thuộc phường Trung Đô, thành phố Vinh)
Một kinh đô dở dang như chính sự nghiệp nhà Tây Sơn
Theo Hoàng Lê nhất thống chí thì ở đây triều đình Tây Sơn đã xây dựng được một số công trình như : Đắp thành đất xung quanh, xây dựng Lầu Rồng ba tầng, điện Thái Hòa và hai dãy hành lang : “ Quang Trung liền sai trưng dụng rất nhiều thợ thuyền , chuyên chở gỗ đá, gạch ngói để xây dựng cung phủ, lâu đài. Đắp thành đất xung quanh, và sai các quân lính đào đá ong ở địa phương để xây thành trong. Dựng tòa lầu ba tầng cùng hai dãy hành lang, để phòng dùng đến khi có lễ triều hạ” (Trích Hoàng Lê nhất thống chí) .Việc xây dựng Phượng Hoàng trung đô đang xúc tiến thì Quang Trung đột ngột qua đời ( 1792).Ngay trước khi mất, Quang Trung còn di chúc lại cho triều đình sớm dời đô ra Nghệ An: “Trước khi mất, Nguyễn Huệ cho triệu viên Trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về kinh và dặn rằng: “Sau khi ta mất, nên trong một tháng táng cho xong .Việc tang làm qua loa mà thôi. Chúng ngươi nên giúp rập Thái tử sớm dời đô ra Nghệ An để khống chế thiên hạ. Nếu không thế thì quân Gia Định sẽ tới, chúng ngươi không có chỗ chôn thân” (trích Đại Nam chính biên liệt truyện).
Thế nhưng, sau khi Quang Trung mất, việc xây dựng Phượng Hoàng Trung đô bị gác lại. Triều đình Quang Toản không hề nhắc đến việc dời đô ra Nghệ An như ý nguyện của Quang Trung trước khi mất. Vào năm 1801, sau khi Phú Xuân mất, triều đình Quang Toản kéo nhau ra Bắc Hà, đóng đô ở Thăng Long. Mùa hè năm đó, Lầu Rồng ba tầng tự nhiên đổ sụp, như điềm báo  trước về sự sụp đổ không thể tránh khỏi của triều đại Tây Sơn: “Tháng 6 mùa hè năm ấy (tức 1801), thình lình viên trấn thủ Nghệ An là Nguyễn Thận sai người báo tin là Lầu Rồng ba tầng ở đây tự dưng đổ sụp, người nghe biết là điềm chẳng lành” (Trích Hoàng Lê nhất thống chí)
Trải qua mưa nắng thời gian và sự phá hoại của con người ( nhất là dưới triều Nguyễn), Phượng Hoàng trung đô chỉ còn dấu tích mờ nhạt ở phía Nam thành phố Vinh (Nghệ An). Trong khoảng những năm 1940, học giả Hoàng Xuân Hãn đã từng đến khảo sát toà thành này và mô tả: “Ngày nay khoảng giữa núi Quyết và núi Mèo còn thấy dấu tích một toà thành cũ hình gần tam giac. Dấu thành và đường hào đang còn rõ. Cửa Tiền ở phía Nam. Núi Mèo (Kỳ Lân ) làm nền cho đồn gác, thành phía Nam chắp vào núi ấy. Mặt đông bắc lấy núi Quyết (Phượng Hoàng) làm thành . Địa thế thành rất dễ giữ. Phía trước có sông Cồn Mộc và sông Lam, phía bên có núi Quyết đều là hào và thành thiên nhiên. Ở giữa thành còn dấu thành trong và nền nhà. Nhất là có nền cao ba bậc ở phía Bắc mà ngày sau, đời Nguyễn dùng làm nền Xã Tắc, đó là chỗ Quang Trung ngự triều trong khi tạm nghỉ ở Nghệ An”  ( Trích La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, Tập 2, tr .1050). Quy mô thành không lớn, chưa xứng tầm với một kinh đô, như Hoàng Xuân Hãn đã nhận xét : “Thành Phượng Hoàng nhỏ, thành nam chỉ dài 300 mét, bức thành tây dài 450 mét, và các nền cao thì ngang dọc cũng chỉ chừng 20 mét mà thôi” ( Sđ d, tr. 1050)
Khảo tả của Hoàng Xuân Hãn là tương đối chính xác nhưng chưa cụ thể. May thay, chúng ta còn được thấy bức ảnh hàng không (ảnh chụp từ trên máy bay- không ảnh) thành Phượng Hoàng Trung Đô chụp từ những năm 1930. Bức ảnh này được đưa vào tác phẩm An Tĩnh cổ lục ( Ảnh mang số hiệu XCIII) của Le Breton một học giả người Pháp. Trong cuốn sách trên, Le Breton gọi thành này là thành Rú Mèo và không nói rõ nguồn gốc. Nhờ bức ảnh này, chúng ta hình dung được cụ thể quy mô vị trí của thành Phượng Hoàng vì các bức  tường thành còn thể hiện rất rõ. Thành phía đông bắc chạy sát theo chân núi Quyết ( Phượng Hoàng) .Phía nam thành cắt ngang qua núi Mèo ( Kỳ Lân ) , có lẽ lợi dụng núi Mèo làm đồn gác, như Hoàng Xuân Hãn phỏng đoán, cũng có thể đặt cột cờ trên núi này (vì nó ở phía nam) . Thành phía tây cắt qua cánh đồng bằng phẳng, kẻ thành một đường thẳng tắp lên sát núi Mũi Rồng (một nhánh của núi Quyết) .Bên ngoài tường thành là hào. Hào phía tây và phía nam còn thể hiện rất rõ. Tòa thành gần như hình tam giác. Đỉnh phía bắc có đền Rồng, phía nam Đền Rồng là thành Nội. Giữa thành nội là Lầu Rồng ba tầng (xem bản đồ). Khu vực này nay là Lâm viên núi Quyết, thuộc địa phận phường Trung Đô, thành phố Vinh.
Phượng Hoàng Trung đô dang dở một cách đáng tiếc, như chính sự dang dở của triều đại Tây Sơn vậy !

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

ĐI TÌM VÓC DÁNG NGOẠI HÌNH VUA QUANG TRUNG

Quang Trung Nguyễn Huệ là vị anh hùng lập nên những chiến công hiển hách trong lịch sử dân tộc: Đánh tan 5 vạn quân xâm lược Xiêm trong trận Rạch Gầm –Xoài Mút (1785); đánh đổ hai tập đoàn phong kiến Trịnh –Nguyễn chia cắt đất nước ta suốt hơn hai thế kỷ, đưa non sông quy về một mối (1785-1786); tiêu diệt 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh, giải phóng đất nước thoát khỏi nạn ngoại xâm (1789). Chỉ mấy năm ngắn ngủi, chiến công nối tiếp chiến công, đã đưa ông lên hàng thiên tài quân sự tầm cỡ thế giới. Hình ảnh của ông mãi mãi tượng trưng cho tinh thần bất khuất, ý chí quật cường của dân tộc ta. Việc tìm hiểu ngoại hình cũng như chân dung của ông góp phần làm thỏa mãn tấm lòng ngưỡng vọng của chúng ta đối với người anh hùng dân tộc.
 Hình ảnh Quang Trung qua ghi chép
Sử sách xưa ghi chép về ngoại hình của nhân vật lịch sử rất sơ sài. Theo Hoàng Lê nhất thống chí thì vẻ mặt của Quang Trung “rực rỡ, nghiêm nghị”: “Vua Lê sai các quan lần lượt đến yết kiến. Thấy thần sắc của Bắc Bình Vương rực rỡ, nghiêm nghị, ai cũng hãi hùng”. Rực rỡ, đó là hào quang rạng rỡ của người chiến thắng. Nghiêm nghị, đó là cái uy vũ của Quang Trung, khiến cho kẻ thù phải run sợ. Sử gia nhà Nguyễn mô tả: “Huệ tiếng nói như chuông, mắt lập lòe ánh điện, là người thông minh, giảo hoạt, giỏi chiến đấu, người người đều kinh sợ” (Đại Nam chính biên liệt truyện). Một sử gia khác mô tả: “Huệ ban đêm ngồi không có ánh đèn, ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu, lúc lâm trận thì anh hùng lẫm liệt, cho nên mới bình định được phương Nam, tiến đến đâu thì không ai hơn được” (Tây Sơn thuật lược). Có lẽ tác giả của cuốn sách trên thấy Nguyễn Huệ ban đêm làm việc không cần đèn mà nói quá lên như thế chăng? Nhưng dù sao thì qua hai cách mô tả trên ta có thể thấy Nguyễn Huệ có đôi mắt rất sáng, đó là cặp mắt thông minh sắc sảo (mà sử gia nhà Nguyễn do ác cảm mà dùng từ “giảo hoạt”). Cặp mắt đó soi thấu tận tim gan người đối thoại , khiến cho kẻ dưới quyền thì không dám dối trá, còn kẻ thù thì run sợ.
Tác giả Minh đô sử lại cho chúng ta hình ảnh một Nguyễn Huệ rất đĩnh đạc với nhung phục chỉnh tề, dung mạo hùng vĩ, trong một cảnh tượng rất đẹp: “Văn Huệ tiến quân đến bến Tây Long, ngồi đĩnh đạc trên tấm ván cao đặt trong thuyền, dung mạo hùng vĩ, nhung phục chỉnh tề, các tướng sĩ  đứng vòng hai bên tả hữu. Trông thấy ai cũng nói: “Bắc Bình Vương là vị thần sống vậy. Rồi cùng nhau tấm tắc ngợi khen mãi không thôi” .Đấy là cảnh Nguyễn Huệ trong lần tiến quân ra bắc diệt Trịnh (1786). Còn đây là cảnh được tả lại trong trận tấn công tiêu diệt quân Thanh: “ Ông liền bỏ voi dùng ngựa. Theo lời đồn, ông đeo hai thanh kiếm, chạy ngang dọc, đã chém rơi đầu nhiều tướng tá và binh lính Trung Hoa, ông luôn miệng hô xung phong và lúc nào cũng có mặt ở tuyến đầu của trận chiến” ( Nhật ký của Hội truyền giáo Bắc Kỳ)
Chân dung Quang Trung.
Các họa sĩ nhà Thanh đã để lại bức họa về Quang Trung rất đẹp. Trong bức họa này, Quang Trung cưỡi trên mình ngựa, đầu đội mũ trụ, mình khoác nhung phục, trong tư thế của một võ tướng oai phong. Như chúng ta đã biết năm 1790, vua Càn Long nhà Thanh  tổ chức mừng thọ “ bát tuần vạn thọ” ( sinh nhật 80 tuổi), có yêu cầu đích thân quốc vương An Nam đến Yên Kinh triều kiến để tăng thêm phần trọng thể. Tất nhiên, Quang Trung không thể thỏa mãn đòi hỏi đó, bởi vì:
Một là, nước ta vừa trải qua một cuộc chiến tranh tàn khốc ở phía Bắc. Trong Nam , mấy lần Nguyễn Ánh lăm le trở lại đứng chân ở Gia Định. Người đứng đầu nhà nước có bao nhiêu công việc cần kíp phải giải quyết, làm sao có thì giờ để đi sang Trung Hoa, mà nhanh nhất cũng mất 7-8 tháng ( trong thực tế, đoàn của quốc vương giả xuất phát từ Phú Xuân ngày 29-3, đến Yên Kinh, khi trở về tới biên giới Việt Trung đã là 29-11, tức đúng 8 tháng).
Hai là, năm trước( 1789) Quang Trung vừa tiêu diệt hơn 20 vạn quân Thanh. Ai có thể lường trước được những mưu mô xảo quyệt, những hiểm họa bất ngờ từ phía vua nhà Thanh hay thân nhân của những tướng sỹ vừa chết trận một khi Quang Trung lưu lại lâu trên đất Trung Hoa? Chính vì vậy mà Quang Trung nhất quyết không đi; còn Càn Long thì đòi cho bằng được. Việc đó đặt các viên quan lại thừa hành vào tình thế rất nan giải. Để giải quyết bế tắc, Phúc Khang An, tổng đốc Lưỡng Quảng ( mới được thay Tôn Sỹ Nghị) bèn gợi ý với ta là cần phải có một Quang Trung giả. Đây là một giải pháp tình thế, không kém phần mạo hiểm nhưng không còn cách nào khác. Bởi vì chỉ cần một sơ suất nhỏ làm công việc bị bại lộ thì sẽ ảnh hưởng khôn lường đến quan hệ bang giao giữa hai nước, đến tính mạng của cả đoàn sứ bộ của ta, cũng như ngay mạng sống của Phúc Khang An.Chính vì vậy mà đoàn sứ bộ  phải được chuẩn bị rất kỹ lưỡng, các thành viên trong đoàn sẽ phải là những tay đóng kịch giỏi. Những vai kịch đó  không phải chỉ diễn mấy giờ trên sân khấu mà là cả mấy tháng trời trên đất Trung Hoa, mà vai kịch khó khăn nhất sẽ là Quang Trung giả, bởi vì tất cả mọi sự chú ý đều hướng vao ông. Ngoài việc đóng kịch giỏi thì ông còn phải là người thông minh, nhạy bén, ứng đối nhanh và nhất là phải có ngoại hình giống Quang Trung, không giống được 100% thì cũng phải đến 80-90% rồi hóa trang thêm. Bởi vì Quang Trung là một người nổi tiếng,sẽ có rất nhiều người biết ông. Đây lại là một sự kiện ngoại giao quan trọng nên rất nhiều người chú ý đến, trong đó có không ít sự tò mò, thóc mách (  không loại trừ có cả điệp viên dò la tình hình trong vai những người phục dịch). Thế nhưng, sứ đoàn của ta đã hoàn thành xuất sắc chuyến đi, vở kịch được đóng khéo đến mức cả triều đình nhà Thanh và Càn Long không mảy may nghi ngờ. Trước khi đoàn ta ra về, Càn Long đã cho mời họa sỹ đến để vẽ chân dung cho Quang Trung. Bức vẽ đó được lưu giử trong kho tàng cổ họa Trun Hoa, sau đó được in trong sách Mãn Châu cổ họa, các sách báo của ta đã in lại từ sách này. Đây là chân dung Quang Trung giả, nhưng như chúng tôi đã phân tích ở trên, ít nhất thì cũng có đến 80-90% giống Quang Trung thật. Nó là một bức họa quý giúp chúng ta hình dung được diện mạo của Quang Trung.
Tượng Quang Trung
Pho tượng này được thờ trong chùa Bộc( Đống Đa, Hà Nội) mà chúng tôi đã có dịp mô tả . Chùa Bộc nằm cách gò Đống Đa khoảng 300m. Mùa đông năm Mậu Thân ( 1788), khi quân Thanh sang xâm lược nước ta, chua Bộc nằm trong phạm vi đóng quân của tướng giặc Sầm Nghi Đống. Khi  Đô đốc Long đem quân tiêu diệt cứ điểm này, chùa bị cháy trụi vì trận  “ Rồng lửa” của quân ta. Sau khi giải phóng Thăng Long, Quang Trung đã cho xây dựng lại chua Bộc. Ở đây còn lại nhiều di tích của triều đại Tây Sơn như tấm bia đá tạc năm Quang Trung thứ tư ( 1792) và quả chuông đồng đúc thời Cảnh Thịnh (1797). Nhân dân khu vực Khương Thượng nói chung và các vị sư sãi nói riêng chịu ơn của Quang Trung và triều đại Tây Sơn. Năm 1802, khi triều đại này sụp đổ, một số quân tướng Tây Sơn để tránh sự trả thù của triều Nguyễn đã vào gửi thân tại chùa này và được các vị sư sãi chùa Bộc che chở. Trong số đó có ông Nguyễn Kiên, trước là chỉ huy một đội tượng binh của Tây Sơn (Sau đại thắng mùa xuân Kỷ Dậu 1789, chùa Bộc là địa điểm tập kết tượng binh của Tây Sơn, hiện nay ở đây còn di tích hồ Tắm Tượng. Có thể Nguyễn Kiên đã quen biết các vị sư sãi chùa Bộc trong thời gian này). Nguyễn Kiên vào ẩn trong chùa, tu hành, sau này trở thành vị sư trụ trì chùa. Năm 1846, vào thời vua Thiệu Trị, khi sự trả thù của nhà Nguyễn không còn gắt gao như trước, ông đã cho tạc bức tượng Quang Trung (dưới dạng tượng Đức Ông ) để thờ. Nguyễn Kiên là tướng của Tây Sơn, vì vậy hình ảnh Quang Trung trong tâm khảm ông không bao giờ phai mờ. Các nghệ nhân đã tạc pho tượng Quang Trung theo ký ức mà Nguyễn Kiên đã mô tả. Hai bên Quang Trung con hai pho tượng hai vị đại thần , một văn quan và một võ tướng (nhiều người cho rằng đó là tượng Ngô Thì Nhậm và Ngô Văn Sở), tuy nhiên hai pho tượng này được tạc sơ sài, không có cá tính. Tất cả sự chú ý, công phu, tài khéo léo của nghệ nhân đều tập trung khắc họa nhân vật chủ chốt là Quang Trung. Vì vậy ta có thể coi pho tượng này như là hình ảnh của Quang Trung. Tuy nhiên, để tránh sự soi mói của vua quan nhà Nguyễn, các nghệ nhân xưa đã không thể tạc hoàn toàn chính xác như hình ảnh thật của Quang Trung mà phải khôn khéo che mắt kẻ thù. Sự che mắt đó thể hiện ở đôi tai và bộ râu của pho tượng được tạc theo khuôn mẫu ước lệ, truyền thống. Nếu chúng ta bỏ qua những chi tiết ước lệ này thì giữa chân dung vua Quang Trung do họa sĩ nhà Thanh vẽ và pho tượng Quang Trung ở chùa Bộc sẽ có sự tương đồng.
Tìm lại vóc dáng ngoại hình cũng như chân dung vua Quang Trung là thể hiện lòng ngưỡng mộ của chúng ta đối với vị Hoàng đế anh hùng. Mặt khác, việc đó sẽ giúp ích cho các nhà điêu khắc, các nhà điện ảnh, sân khấu thể hiện hình tượng Quang Trung trong các tác phẩm của mình được chân thực hơn, chính xác hơn  .  / .
PDK
Ảnh: 1.Chân dung vua Quang Trung (giả) do Họa sĩ cung đình nhà Thanh vẽ năm 1790.
2.Tượng Quang Trung tại chùa Bộc, Đống Đa, Hà Nội.
*

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

SỐ PHẬN BI THƯƠNG CỦA NGỌC HÂN CÔNG CHÚA


.
1.Ý đồ chính trị trong cuộc hôn nhân Ngọc Hân – Nguyễn Huệ
Lê Ngọc Hân (1770 – 1799) là con gái của vua Lê Hiển Tông và bà Chiêu Nghi Nguyễn Thị Huyền. Lê Hiển Tông là ông vua già an phận ngồi làm vì trên ngai vàng, để cho chúa Trịnh Sâm mặc sức chuyên quyền. Thậm chí khi Trịnh Sâm vu oan rồi giết hại con trai cả của ông là Thái tử Lê Duy Vĩ, ông cũng không có một hành động nào để bảo vệ con trai, đành để cho người ta xông vào cung bắt giết con trai mình. Mối thù đối với chúa Trịnh ông chôn chặt trong lòng chứ không dám hé lộ cùng ai.

Vì vậy mà vào tháng 6 năm Bính Ngọ (1786) khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc lật đổ cơ đồ hơn 200 năm của họ Trịnh, trả lại nước cho nhà Lê, trong thâm tâm nhà vua cũng thấy hởi lòng, hởi dạ.
Tuy nhiên, ông chẳng có gì để trả ơn người anh hùng, đành chỉ phong cho Nguyễn Huệ làm Nguyên soái Phù chính Dực vũ Uy quốc công, một thứ chức tước hữu danh vô thực, chẳng vinh dự lợi lộc gì thêm cho người được phong. Nguyễn Huệ bất bình nói với tả hữu dưới trướng: “Ta đem mấy vạn quân ra đây, đánh một trận dẹp yên thiên hạ, muốn xưng đế, xưng vương gì mà chẳng được. Cái chức Nguyên soái, Quốc công có thêm được gì đâu. Nếu ta không nhận thì ngại Hoàng thượng bảo là ta kiêu căng. Song nhận mà không nói gì thì người trong nước lại bảo ta là mọi rợ, nên nhân tiện nói chuyện cũng nói ra mà thôi” (1).
Nguyễn Hữu Chỉnh là kẻ rất biết chiều ý bề trên. Thấy Nguyễn Huệ không vui, sợ có gì sứt mẻ tình cảm giữa vua Lê và chúa Tây Sơn, sẽ ảnh hưởng đến sự nghiệp tương lai của mình, mới nói thác ra rằng: “Nhà vua đơn bạc, không có gì đáng để tặng. Cái tước danh nhỏ mọn, không làm ngài sang thêm. Bản ý Hoàng thượng vẫn cho rằng mình đã cao tuổi, sau khi ngài về Nam, không biết nương tựa vào ai, nên người muốn nối tình thân hai họ, để cho hai nước đời đời kết tình thông gia, giao hảo. Nhưng vì chưa hiểu ý ngài thế nào nên Hoàng thượng vẫn còn trù trừ chưa dám nói rõ…” (2).
Thực ra đây là lời bịa đặt của Nguyễn Hữu Chỉnh, để lấy lòng Nguyễn Huệ, nhưng không ngờ lại trở thành sự thật. Khi Nguyễn Hữu Chỉnh đặt vấn đề ấy ra, cả vua Lê Hiển Tông và Nguyễn Huệ đều bằng lòng. Vì cả hai bên đều thấy được sự cần thiết trong mối lương duyên này.
Nhà Lê thông qua việc kết hôn sẽ gắn kết hơn giữa Nguyễn Huệ với triều đình, để làm chỗ nhờ cậy trước tình hình bất ổn về chính trị lúc này. Còn Nguyễn Huệ, thông qua mối nhân duyên, sẽ hiểu thêm về hiện tình của triều đình, về nội bộ hoàng tộc nhà Lê, một điều rất cần thiết để qua đó ông nắm được Bắc Hà.
Nguyễn Huệ là một người rất tự chủ và rất có tài nói đùa. Câu ông pha trò: “Vì dẹp loạn mà ra, để rồi lấy vợ mà về, bọn trẻ cười cho thì sao? (Nguyễn Huệ lúc này đã 36 tuổi). Tuy nhiên ta mới chỉ quen gái Nam Hà, chưa biết con gái Bắc Hà, nay cũng nên thử một chuyến xem có tốt không?” (3), làm cho mọi người đều cười ầm, là câu nói đùa đúng lúc nhằm che giấu ý đồ chính trị mà thôi.
Cuộc hôn nhân giữa Nguyễn Huệ – Ngọc Hân, xuất phát ban đầu là ý đồ chính trị. Nhưng qua quá trình sống bên chồng, bà đã chiếm trọn niềm tin, tình yêu của người anh hùng. Dù vô tình hay hữu ý, Ngọc Hân đã làm tròn sứ mệnh lịch sử: Là cái gạch nối giữa triều đình nhà Lê với nghĩa quân Tây Sơn.
Bà Hoàng đoản thọ, nắm xương tàn cũng không yên
– Một nàng công chúa tài sắc vẹn toàn, làm vợ một vị anh hùng cái thế, cuộc đời tưởng chừng như hạnh phúc đến tột cùng. Ấy thế mà kết cục lại thật bi thảm, cho đến nắm xương tàn cũng không được yên.
Sau ngày đại thắng, Quang Trung về Phú Xuân tiến phong Ngọc Hân làm Bắc Cung Hoàng hậu. Ngọc Hân được hưởng những năm tháng tràn đầy hạnh phúc bên người chồng anh hùng. Bà sinh được hai người con, một gái là Nguyễn Thị Ngọc Bảo (SN 1788) và một trai là Nguyễn Quang Đức (SN 1790). Tuy nhiên, hạnh phúc đó không được bao lâu.

Tháng 9/1792, Quang Trung đột ngột từ trần. Mới 22 tuổi đầu, với hai đứa con thơ một lên 4 và một lên 2, Ngọc Hân trở thành goá bụa. Bà sống cô quạnh trong nỗi nhớ thương chồng. Tình cảm đau xót triền miên dần hút hết sinh lực của bà.
Năm 1796, sau khi Quang Trung mất được 4 năm, Triều đình Quang Toản có bố trí cho Ngọc Hân về Bắc thăm quê 1 lần, và có lẽ đây cũng là lần duy nhất trong suốt mười mấy năm sống ở Phú Xuân. Lê Triều dã sử chép: “Năm Bính Tý (1796) Công chúa Ngọc Hân cùng với con là Thành Công (có lẽ là Hoàng tử Nguyễn Văn Đức) từ Phú Xuân ra Bắc thành. Dân ven đường phải tu sửa hành tại (tức chỗ nghỉ tạm dọc đường) cực khổ khôn xiết). Tháng 3 lại trở về Phú Xuân” (Trích Lê triều dã sử)

3 năm sau (năm 1799), Ngọc Hân từ trần khi mới 29 tuổi đời. Hai năm sau (1801), Nguyễn Ánh tấn công vào Phú Xuân, vua tôi Quang Toản bỏ kinh thành chạy ra Bắc Hà. Hai con của Ngọc Hân còn thơ ấu đều bị bắt.
Một sĩ quan Pháp là Barizy theo chân Nguyễn Ánh vào Phú Xuân có đến nhà tù giam những người con của vua Quang Trung đã mô tả lại trong thư của ông viết vào ngày 16/7/1801: “…họ ở trong một căn phòng hơi tối, có tất cả 5 công chúa, một cô 16 tuổi, theo tôi là một cô gái đẹp, một em bé 12 tuổi là con gái bà công chúa Bắc Kỳ (tức Ngọc Hân), em này cũng coi được… Ngoài ra còn có 3 con trai, có một em độ 16 tuổi da nâu nhưng nét mặt tầm thường. Còn em trai kia độ 12 tuổi là con bà công chúa Bắc Kỳ thì diện mạo rất đáng yêu và có những cử chỉ rất dễ thương”.

Như vậy là cả con trai và con gái của Ngọc Hân đều bị bắt khi Nguyễn Ánh tấn công chiếm Phú Xuân vào tháng 5/1801 và sau đó bị giết vào tháng 11/1801; Là hai người trong số “con trai, con gái, họ hàng và tướng hiệu giặc, 31 người đều bị cắt nát thây” (Theo Đại Nam thực lục chính biên).
Sau ngày Gia Long thống nhất đất nước, bà Chiêu Nghi Nguyễn Thị Huyền (mẹ của Ngọc Hân) lúc này còn sống, đã nhờ người tin cẩn, bí mật vào Phú Xuân, chuyển hài cốt 3 mẹ con Ngọc Hân về quê nhà ở làng Nành tức Phù Ninh, Đông Ngàn, Bắc Ninh (nay là Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội). Mộ của 3 mẹ con Ngọc Hân được chôn ở bãi Cây Đại (còn gọi là bãi Đầu Voi) làng Phù Ninh. Trước mộ có xây đền thờ.
Vào năm thứ 2 đời vua Thiệu Trị (1842) do mâu thuẫn giữa hai dòng họ, có người làng đã vào tận Kinh đô Phú Xuân tố giác việc thờ Ngọc Hân. Việc bị phát giác, Thiệu Trị đã cho người về huỷ đền thờ và đào bỏ hài cốt 3 mẹ con Ngọc Hân.
Sách Đại Nam thực lục chính biên ghi về sự kiện này: “Nguyên người xã ấy là Nguyễn Thị Huyền làm cung nhân của vua Lê Hiển Tông, có con gái là Ngọc Hân gả cho nguỵ Huệ, sinh được một trai, một gái. Ngọc Hân chết, trai gái cùng chết non cả. Khoảng đầu năm Gia Long, nguỵ đô đốc tên là Hài ngầm đem hài cốt mẹ con Ngọc Hân từ Phú Xuân về táng trộm ở địa phận xã Phù Ninh; Thị Huyền ngầm xây mộ, dựng đền, khắc bia giả, đổi lại họ tên để làm mất dấu tích. Tới đây, việc ấy bị phát giác. Vua sai huỷ đền thờ và đào bỏ hài cốt kẻ nguỵ đi”.
*
Giải oan “lấy hai chồng” cho Ngọc Hân Công Chúa
1. Hiểu lầm. Số là có một người ứng với câu: “Con vua mà lấy hai chồng làm vua” thật. Đó là công chúa Lê Ngọc Bình, em gái của Lê Ngọc Hân. Lê Ngọc Bình là con gái thứ 29 và cũng là con gái út của vua Lê Hiển Tông và bà Nguyễn Thị Điều. Bà Điều cùng quê với bà Nguyễn Thị Huyền.
Nguyễn Ngọc Bình sinh năm 1783 thua Ngọc Hân 13 tuổi. Theo một tài liệu mới công bố gần đây (cuốn Chuyện cũ làng Nành của Nguyễn Khắc Quýnh chủ biên, NXB Văn hoá Dân tộc, 2004) thì Lê Ngọc Bình là con nuôi bà Nguyễn Thị Huyền.
Vào năm 1795, sau khi Thái sư Bùi Đắc Tuyên bị đánh đổ, thế lực ngoại thích không còn, Ngọc Hân có ý muốn hướng Quang Toản về Bắc Hà, nên làm mối em gái của mình cho Quang Toản. Năm đó, Ngọc Bình mới 12 tuổi. Ngọc Bình được phong làm Chính cung hoàng hậu, ở trong cung 6 năm trời nhưng chưa sinh con.
Tháng 5/1801, khi Nguyễn Ánh đánh chiếm Phú Xuân, vua tôi Quang Toản bỏ chạy ra Bắc Hà, Ngọc Bình và một số cung nữ bị kẹt lại Phú Xuân. Thấy nàng là một người con gái trẻ đẹp, ăn nói dịu dàng, dáng điệu thướt tha, Gia Long rất ưng ý. Mặc cho các cận thần nhà Nguyễn kịch liệt phản đối vì cho rằng “thiên hạ thiếu gì đàn bà mà lại lấy thừa vợ của vua nguỵ”.
Tuy nhiên, Gia Long vẫn bỏ ngoài tai tất cả. Ngọc Bình được nạp làm phi và sau đó được phong làm Đệ tam cung Đức Phi (đứng thứ ba sau hai bà hoàng hậu là Thừa Thiên, mẹ hoàng tử Cảnh và Thuận Thiên, mẹ vua Minh Mạng).
Bà sinh được bốn người con (hai trai, hai gái). Hai hoàng tử là Quảng Oai công Nguyễn Phúc Quân (1809) và Thường Tín công Nguyễn Phúc Cự (1810); Hai công chúa là Mỹ Khê Ngọc Khuê và An Nghĩa Ngọc Ngôn. Đức phi Ngọc Bình mất vào năm 1810, sau khi sinh hoàng tử Phúc Cự. Năm ấy bà mới 27 tuổi.
2. Ai giúp chuyển mộ ra BắcTừ việc tác thành em gái của mình cho con trai của chồng, ta có thể thấy, thuở sinh thời hai chị em Ngọc Hân, Ngọc Bình rất thân nhau
Trong việc chuyển hài cốt ba mẹ con Ngọc Hân từ Phú Xuân về quê (vào năm 1804), ta thấy nổi lên hai vấn đề: Một là, vào tháng 11/1802, Gia Long trả thù nhà Tây Sơn rất tàn khốc, đã cho quật phá lăng mộ của vợ chồng, anh em của Quang Trung, riêng mộ Ngọc Hân vẫn còn nguyên vẹn. Có như thế thì “nguỵ” đô đốc Hài, người thân tín của bà Nguyễn Thị Huyền mới tìm ra và tiến hành cất bốc được. Phải chăng, Gia Long vì “nể” Ngọc Bình mà không động chạm đến mộ Ngọc Hân?
Hai là, quá trình “nguỵ” đô đốc Hài bí mật vào Phú Xuân đào bới, cất bốc, di chuyển hài cốt ba mẹ con Ngọc Hân nếu không có tay trong ngầm giúp, thì khó mà trót lọt. Tay trong đó là ai, nếu không phải là Ngọc Bình?
Do hai chị em Ngọc Hân và Ngọc Bình có nhiều điểm tương đồng nhau, đều cùng là công chúa nhà Lê và đều cùng làm hoàng hậu nhà Tây Sơn, mặt khác do Ngọc Hân là người nổi tiếng nên khi nhắc đến công chúa nhà Lê và hoàng hậu nhà Tây Sơn lại lấy vua Gia Long, người ta nghĩ ngay đến Ngọc Hân, tưởng nhầm là bà, ít ai nghĩ đến Ngọc Bình. Đó là lý do vì sao có tin đồn Ngọc Hân lấy vua Gia Long. Thật ra thì Ngọc Hân đã từ trần hai năm trước khi Gia Long chiếm lại được Phú Xuân.

Trong Quốc sử di biên của Phan Thúc Trực có ghi một sự kiện vào tháng 5 năm Gia Long thứ 3 (1804): “Cố Lê công chúa Ngọc Hân mất.  Năm Bính Ngọ (1786) đời Cảnh Hưng, vua Lê gả Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ, đến lúc Ngụy Tây mất, Ngọc Hân lui về quê mẹ ở Phù Ninh; đến bấy giờ chết. Hàng thần làm quan ở huyện Đông Ngàn xin cho làm lễ an táng. Vua ưng cho. Dân Phù Ninh lập đền thờ bà”. Thực ra thì Phan Thúc Trực đã nhầm. Ngọc Hân đã mất từ năm 1799, còn lễ an táng mà các “hàng thần” làm quan ở huyện Đông Ngàn xin làm lễ an táng đó là an táng hài cốt của ba mẹ con Ngọc Hân do Đô đốc Hài cất bốc di chuyển từ Phú Xuân về mà thôi. Nhưng qua ghi chép này, chúng ta cũng có thể thấy, việc an táng và lập đền thờ Ngọc Hân đã thấu đến tận triều đình của vua Gia Long.


NỮ TƯỚNG BÙI THỊ XUÂN: CUỘC ĐỜI OAI HÙNG VÀ BI THẢM
  1– Vợ chồng anh hùng
  Nữ tướng Bùi Thị Xuân quê ở thôn Xuân Hoà, tổng Phú Phong, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn (nay là thôn Phú Xuân, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) .Theo một số tài liệu thì bà sinh vào năm 1758. Bà là con gái ông Bùi Đắc Chí và là cháu Bùi Đắc Tuyên, gọi ông Tuyên bằng chú . Thuở bé Bùi Thị Xuân ham mê võ nghệ, thích tập côn quyền đao kiếm. Đa phần là tự học ở nhà. Do thông minh ,sáng dạ và đặc biệt là tố chất nhanh nhẹn, khoẻ mạnh, Bùi Thị Xuân tập võ rất nhanh ( vì vậy mà ở địa phương có truyền thuyết về một bà cụ già, không con cháu, đêm đêm bí mật dạy võ cho Bùi Thị Xuân) . Năm 15 tuổi, đã nổi tiếng gần xa về vẻ đẹp thanh tú và võ nghệ cao cường. Đó cũng là thời kỳ anh em Tây Sơn thu dùng hào kiệt, chuẩn bị nổi dậy.
     Bùi Thị Xuân là vợ của danh tướng Trần Quang Diệu.Trường hợp gặp gỡ của hai ông bà cũng rất đặc biệt. Một hôm Bùi Thị Xuân vào rừng săn bắn thì gặp một tráng sĩ đang đánh nhau với hổ. Tráng sĩ tay không quần nhau với hổ dữ suốt cả buổi sáng, giờ đã đuối sức. Nếu bà không ứng cứu kịp thời thì có thể nguy đến tính mạng. Bà vội vàng rút kiếm xông đến đánh nhau với hổ dữ. Bằng một đường kiếm vút nhanh như tia sáng, hổ dữ bị một nhát xả vai, vội bỏ chạy vào rừng sâu. Tráng sĩ được cứu đó là Trần Quang Diệu. Số là hôm ấy Trần Quang Diệu đang trên đường tìm đến Kiên Mỹ ra mắt anh em Tây Sơn, không may giữa đường gặp hổ. Bùi Thị Xuân cũng đang định tìm đến gia nhập nghĩa quân Tây Sơn . Chí lớn gặp nhau, hai ông bà cùng nhau đến ra mắt Tây Sơn Vương Nguyễn Nhạc. Ở đây, Nguyễn Nhạc đã tác thành cho hai người thành vợ thành chồng. Và cả hai đã trở thành những trụ cột của Tây Sơn. Nếu bà là người đứng đầu “Ngũ phụng thư” (năm con chim phượng hoàng) thì ông là một trong “ Thất hổ tướng” (bảy viên hổ tướng) của nhà Tây Sơn .Hai ông bà là 2 trong số 18 người được coi là 18 viên đá tảng gây dựng nên triều đại Tây Sơn ( Sử gọi là Tây Sơn thập bát cơ thạch) .
    Ở trong bộ chỉ huy nghĩa quân, vì là nữ nên Bùi Thị Xuân được giao nhiêm vụ chỉ huy nữ binh ở nhà bảo vệ Hoàng thành.Vì bà có tài thuần dưỡng và huấn luyện voi chiến nên được giao chỉ huy đội tượng binh. Theo một số tài liệu thì dưới quyền bà có 5.000 nữ binh và 200 thớt voi, nhiệm vụ chính là bảo vệ Hoàng thành. Bà chỉ tham gia một số trận đánh như trận Rạch Gầm – Xoài Mút dưới quyền chỉ huy của chủ tướng Nguyễn Huệ vào đầu năm 1785, hay trận đánh sang Vạn Tượng vào năm 1791, dưới quyề chỉ huy của tướng Trần Quang Diệu chồng bà. Còn nhiệm vụ chính của Bùi Thị Xuân là chỉ huy bảo vệ Hoàng thành, bảo vệ sự yên bình của Kinh đô, để cho các tướng sĩ yên lòng ra trận. Bà được Hoàng đế Quang Trung phong là Đô đốc, vị nữ Đô đốc duy nhất dưới triều đại Tây Sơn, vị nữ tướng hiếm hoi trong lịch sử Việt Nam.
    Tháng 5 Tân Dậu (1801) trong lúc đại bộ phận tinh binh tướng giỏi của Tây Sơn đang tập trung vây hãm hòng chiếm lại Quy Nhơn thì Nguyễn vương Phúc Ánh bất ngờ đánh vào Phú Xuân. Lúc này lực lượng bảo vệ kinh đô còn lại rất mỏng, nên quân Tây Sơn nhanh chóng bị thất bại. Phú Xuân lọt vào tay nhà Nguyễn. Bùi Thị Xuân bảo vệ vua Cảnh Thịnh và toàn bộ Hoàng gia rút ra Bắc thành. Mất Phú Xuân, cục diện chiến tranh Tây Sơn – Nguyễn Ánh thay đổi hoàn toàn. Từ đây Tây Sơn bị chia cắt làm hai, không thể ứng cứu cho nhau . Toàn bộ quân đội của Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng ,sau khi chiếm lại được Quy Nhơn ,đã bị cô lập hoàn toàn. Không còn cách nào khác, hai ông đành phải bỏ thành Quy Nhơn, theo đường thượng đạo bí mật rút ra bắc.Nhưng trên đường ra bắc, phần thì bị lam sơn chướng khí, phần vì thiếu ăn bệnh tật, quân lính lớp thì bỏ trốn, lớp bị chết dọc đường, khi đi gồm 3.000 quân và 80 thớt voi, khi đến Nghệ An chỉ còn lại mấy chục người ! Bản thân Trần Quang Diệu cũng bị phù thũng, không chiến đấu được.Đến Thanh Chương (Nghệ An) Trần Quang Diệu và mấy người tuỳ tùng đều bị bắt sống.Là những vị tướng lẫy lừng trận mạc, nhưng “ Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn” . Bà Bùi Thị Xuân đem quân đến cứu chồng cũng bị bắt nốt.
     2- Trả thù tàn khốc
     Tháng 11 Nhâm Tuất (1802), sau khi thống nhất đất nước, Gia Long tổ chức lễ Hiến phù (Lễ dâng tù ở Thái Miếu), thực chất là trả thù những người theo Tây Sơn. Cuộc trả thù rất tàn khốc, có một không hai trong lịch sử. Đại Nam thực lục chính biên ghi lại: “Sai Nguyễn Văn Khiêm là Đô thống chế dinh Túc trực và Nguyễn Đăng Hựu làm Tham tri Hình bộ áp dẫn Nguyễn Quang Toản và em là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa thành, xử án lăng trì cho năm voi xé xác (dùng 5 con voi chia buộc vào đầu và hai tay hai chân rồi cho voi xé, đó là một thứ cực hình) ,đem hài cốt Nguyễn Văn Huệ và Nguyễn Văn Nhạc giã nát rồi vất đi, còn xương đầu lâu Nhạc, Huệ , Toản và mộc chủ của vợ chồng Huệ thì đều giam ở nhà Đồ ngoại (năm Minh Mạng thứ 2 đổi giam vào ngục thất cấm cố mãi mãi) . Còn đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu , Võ Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết” ( S đ d,  Đệ nhất kỷ, q.19) .
     Riêng về cái chết của vợ chồng Trần Quang Diệu-Bùi Thị Xuân , các tài liệu ghi không thống nhât. Có thuyết cho rằng Trần Quang Diệu bị lột da, còn Bùi thị Xuân bị quấn vải tẩm dầu thiêu sống. Có lẽ những ghi chép của giáo sĩ người Pháp Bisachère là đáng tin nhất, vì ông có mặt ở Phú Xuân ngay khi sự việc xẩy ra . Ông viết: “Còn về quan Thiếu phó (tức Trần Quang Diệu) là kẻ được người trong gia đình cùng tất cả những kẻ quen thuộc yêu kính. Quan đã tâu được thấu đến vua rằng, mẹ quan già đã 80 tuổi, không thể nào làm hại cho xã tắc được nữa, nên xin vua tha chết cho bà, vì bà mang tội cũng là tại quan. Quan được như ý. Phần quan chỉ bị chém thôi.
     Quan có một cô gái 15 tuổi , đầy đủ các vẻ đẹp của một thiếu nữ. Khi cô thấy một con voi tiến về phía cô để rồi tung cô lên trời, cô thét lên một tiếng não nuột. Cô kêu mẹ nói: “Mẹ ơi cứu con với. Mẹ cô, là vị nữ tướng , trả lời rằng: Con đòi mẹ cứu làm sao , vì mẹ cũng không cứu được chính mình mẹ, và con nên chết đi với cha mẹ còn hơn sống với bọn người kia. . .”Nhiều người muốn cứu cô, và họ quay mặt đi chỗ khác khi voi bị đánh đập đã tung cô lên trời hai lần rồi lấy ngà đỡ cô.
     Đến lượt bà Thiếu phó (tức Bùi Thị Xuân) bà hiên ngang đến trước mặt voi để khiêu khích nó. Khi bà đến gần, người ta bảo bà quỳ xuống cho voi dễ cuốn nhưng bà không nghe, cứ đi thẳng đến voi. Người ta còn kể rằng mặc dầu voi đã bị kích thích nhiều, cũng phải dục ép lắm nó mới tung bà lên, dường như nó còn nhận được bà là người chủ cũ của nó. . .”( Trich dẫn lại theo Nguyễn Huệ- Phú Xuân ,Nxb Thuận Hoá 1986, tr.121, 122)
    Như vậy là cả gia đình bà Bùi Thị Xuân , kể cả cô con gái Trần Thị Cúc (tức Bich Xuân ) mới 15 tuổi đều bị “ tận pháp trừng trị” .Ông thì bị chém ngang lưng, bà và cô con gái yêu thì bị voi cuốn. Bùi Thị Xuâ hi sinh khi mới 45 tuổi. Trần Quang Diệu- Bùi Thị Xuân ,họ là những vị anh hùng đã xây dựng nên triều đại Tây Sơn và cũng là những người cuối cùng chứng kiến kết cục bi thảm của triều đại đó. Cuộc đời của hai ông bà, tình yêu và sự nghiệp của họ tiêu biểu cho một triều đại oai hùng và bi thảm: Triều đại Tây Sơn. Hiện nay , tại nhiều thành phố ở nước ta, tên của hai ông bà được lấy để đặt tên cho những đường phố đẹp . / .
  *  

 

 

 

 

 





GIẢI MÃ BÍ ẨN KHÚC NGOẶT QUAN TRỌNG TRONG CUỘC ĐỜI DANH TƯỚNG NGÔ VĂN SỞ
.
Ngô Văn Sở (NVS) là danh tướng Tây Sơn, ông bắt đầu nổi tiếng bắt đầu từ khi được Nguyễn Huệ cử (cùng Phan Văn Lân) đem quân ra Bắc , phối hợp với Vũ Văn Nhậm diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Khi Vũ Văn Nhậm được trao quyền lớn, tỏ ý chuyên quyền và bị giết thì Ngô Văn Sở được trao quyền quản lý Bắc Hà. Cuối năm 1788, theo lời khẩn cầu của Lê Chiêu Thống, quân Thanh kéo vào xâm lược nước ta. Ngô Văn Sở theo kế của Ngô Thì Nhậm đã rút quân khỏi Thăng Long, kéo về lập phòng tuyến Biện Sơn- Tam Điệp, bảo toàn lực lượng.Vua Quang Trung kéo quân ra Bắc diệt quân Thanh, NVS và Phan Văn Lân được giao chỉ huy mũi tiên phong trong đạo Trung quân của Quang Trung. Sau khi đại thắng quân Thanh, năm 1790 NVS được giao cầm đầu đoàn sứ bộ Tây Sơn hộ tống vua Quang Trung giả sang triều cận vua Thanh. Năm 1791- 1792, ông được giao làm Đô đốc Hải quân đánh bọn hải tặc ở Biển Đông. Năm 1793, quân Nguyễn vây thành Quy Nhơn (của Nguyễn Nhạc) rất ngặt, Nguyễn Quang Toản cử NVS cùng các tướng Nguyễn Văn Hưng, Nguyễn Văn Huấn , Lê Trung mang 17.000 quân , 80 thớt voi vào giải vây thành Quy Nhơn. Năm 1795, trong khi đang làm Trấn thủ Bắc Thành, NVS bị triệu về Phú Xuân và bị giết khi các đại thần thanh toán lẫn nhau.
Những giả thuyết về cuộc đời Ngô Văn Sở
Về sự kiện năm 1795, Hoàng Lê nhất thống chí chép: “Hôm sau, Dũng đem quân bản bộ , gấp đường quay về, hợp mưu với Thái bảo Hóa, bắt phe đảng Đắc Tuyên bỏ ngục , lại sai người vào Quy Nhơn bắt Đắc Trụ và Đô đốc Hài ra thành Thăng Long dùng mẹo bắt Ngô Văn Sở đưa về rồi thêu dệt thành tội trạng làm phản mà đem dìm nước cho chết hết” (HLNTC, tr.393-394). Đại Nam thực lục lại ghi: “Trung thư Trần Văn Kỷ có tội, Đắc Tuyên xử tội đồ, đày ra trạm Mỹ Xuyên. Dunhx từ Bắc Thành về, Kỷ đón Dũng nói hết tình trạng Đắc Tuyên chuyên chế lộng quyền, , dặn Dũng dùng kế mà giết. Dũng đến Phú Xuân, bàn mưu với Thái úy Nguyễn Văn Hưng và Hộ giá Nguyễn Văn Huấn tuyên bố là ra cánh đồng phía Nam để tế cờ, nhân đêm đem đồ đảng vây bắt Đắc Tuyên ở chùa Thiền Lâm (Đắc Tuyên dùng chùa Thiền Lâm làm dinh ở). Đắc Tuyên lại ngẫu nhiên có việc vào ngủ ở phủ Quang Toản. Dũng bèn dời quân đến vây phủ. Quang Toản bất đắc dĩ phải bắt Đắc Tuyên đưa cho Dũng. Dũng dìm chết. Con Đắc Tuyên là Đắc Trụ và bè đảng là Ngô Văn Sở , Ngự sử Chương (không rõ họ) hơn 10 người đều bị Dũng giết” (Đại Nam nhất thống chí, tập 1, tr. 322)
Các nhà chép sử của ta sau này , khi chép về cuộc đời Ngô Văn Sở đều cho rằng, ông đã bị giết vào năm 1795, tức là năm xẩy ra sự kiện này. Các cuốn Từ điển về danh nhân lịch sử Việt Nam hiện nay cũng đều ghi như vậy. . Có lẽ người đầu tiên lật lại vấn đề tiểu sử NVS là nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân. Trong cuốn sách “Chuyện các bà trong cung Nguyễn” (Tập  1, Hội Văn nghệ Thành phố Huế- 1988) ở bài “Lai lịch bà Hgieenf Phi họ Ngô, người được vua Minh Mạng sủng ái nhất” , ông viết: “Trong cuộc tranh quyền trong  triều thần đời Quang Toản, , nhiều nhân vật đã từng phò Tây Sơn đã bỏ trốn vào Nam theo Nguyễn Ánh.. Số người này đã lập được nhiều chiến công nên được Nguyễn Ánh tin dùng. Một trong những người đó là tướng Ngô Văn Sở (nhưng không ai hay vì Sở về hàng Nguyễn Ánh dưới cái tên khác). Cuối năm Kỷ Mùi (1799), Sở cùng Võ Tánh giữ thành Bình Định. Thành bị quân Tây Sơn vây, một số binh tướng mở cửa thành ra đầu hàng Tây Sơn. Võ Tánh đã cử NVS ra đóng cửa thành, nhờ thế đã ngăn được những cuộc nổi loạn và đầu hàng của quân Nguyễn. Nhưng sau đó thành Bình Định cũng thất thủ. Ngô Văn Sở đã chạy thoát rồi trà trộn vào dân, tìm đường về với Nguyễn Ánh.Sau khi diệt được nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi, niên hiệu là Gia Long, dưới một cái tên khác, Ngô Văn Sở lại được cử làm Quản đạo trấn Thanh Hoa Ngoại (nay là Ninh Bình). Trong trận đánh trả  thù nhà Tây Sơn, Gia Long phát hiện ra người đứng đầu và có công ở Thanh Hoa ngoại lại chính là một trọng thần nhà Tây Sơn, đó là danh tướng Ngô Văn Sở. Sử nhà Nguyễn Liệt truyện chép vì Sở làm việc lâu ở đónên Gia Long tha cho tội chết , chỉ cách chức mà thôi. Thức ra, Sở được tha tội chết không phải vì Sở trung thành với nhà Nguyễn mà vì một lý do khác nữa (tức tác giả nhắc tới con gái NVS là bà Ngô Thị Chánh là Hiền Phi của vua Minh Mạng, (tức NVS thông gia với vua Gia Long) (sđ d tr.45-49)
Người cùng quan điểm với ông Nguyễn Đắc Xuân là ông Phan Thuận An. Trong bài thử đưa ra một kiến giải mới về nhân vật lịch sử NVS thời Tây Sơn” ở Hội thảo “Phú Xuân- Thuận Hóa trong phong trào Tây Sơn” sau khi khảo sát và đối chiếu nhiều nguồn tài liệu khac nhau, ông kết luận: “Có lẽ chỉ có một tướng NVS chứ không có hai như trước đây chúng tôi đã nhầm tưởng. Ông gốc người Thừa Thiên vào ngụ tại Gia Định theo quân Tây Sơn đi đánh Nguyễn Ánh , nhưng sau vì ở thế bức bách đe dọa đến tính mạng cho nên ông bỏ trốn chạy vào Nam gia nhập lực lượng Nguyễn Ánh chống lại nhà Tây Sơn. Nhờ chiến công, ông được thăng Vệ úy rồi khi Gia Long xưng đế, ông được thăng Chưởng cơ và được trọng dụng giữ chức Trấn thủ Thanh Hoa ngoại…” (1)
Nhưng cũng có những quan điểm không đồng tình với Phan Thuận An, Nguyễn Đắc Xuân. Tác giả Trần Viết Điền trong Hội thảo khoa học: “Phú Xuân- Thuận Hóa trong phong trào nông dân Tây Sơn” tháng 12- 1988 (đã dẫn ở trên) cho rằng, nếu Ngô Văn Sở (của nhà Nguyễn) là danh tướng Tây Sơn NVS thì hóa ra Quốc sử quán nhà Nguyễn đã thiếu nhất quán khi soạn bộ “Đại Nam chính biên liệt truyện , quyển 25 chép NVS còn sống sau năm 1802, còn quyển 30 lại chép sự kiện NVS bị dìm chết ở sông trong cuộc đảo chính ở Phú Xuân năm 1795. Nếu tướng NVS (của triều Nguyễn) là danh tướng NVS của Tây Sơn thì tại sao sử triều Nguyễn không chép chức vụ cao nhất của NVS là Đại Tư mã – Đại Tổng lý khi ra hàng mà lại chép ông giữ chức Đô úy? (1)
Năm 1992 trên tạp chí Thông tin Khoa học và Công nghệ Thừa Thiên- Huế, tác giả Trần Đại Vinh có bài “Thương xác về Đại Tư mã NVS” cũng đồng quan điểm với Trần Viết Điền cho rằng hoàn toàn không có chuyện Đại Tư mã NVS khi về hàng lại khai là Đô úy (1)
Vì sao Ngô Văn Sở lại “gửi thân” vào Chưởng Hậu quân Võ Tánh
Danh tướng NVS khi ở triều đình Tây Sơn đang là Đại Tư mã, Tổng trấn Bắc Thành, thuộc hàng đại thần trụ cột của triều đình Tây Sơn. Với chức tước đó, ông phải là Võ quan hàng cao cấp nhất hàm Chánh nhất phẩm (1a). Trong lúc đó, chức Đô úy của NVS khi hàng nhà Nguyễn thuộc hàng Tiểu tướng, với hàm Chánh ngũ phẩm (5a), kém xa chức tước của danh tướng NVS khi phục vụ triều đình Tây Sơn, điều đó làm cho rất nhiều nhà nghiên cứu phân vân cho rằng, chắc đây là một NVS khác, một tiểu tướng trùng tên mà thôi. Tuy nhiên, khi theo dõi sát lịch sử triều Nguyễn qua bộ Thực lục (tức Đại Nam Thực lục- ĐNTL) chúng ta sẽ thấy có một điều đặc biệt , đó là sự kiện NVS bị giết trong cuộc đảo chính cung đình diễn ra ở Phú Xuân vào thánh 5 Ất Mão (1795) thì 11 tháng sau đó, ta thấy cái tên NVS đã xuất hiện bên phía sử nhà Nguyễn. ĐNTL ghi: “Đặt 5 vệ Nhuệ Phong,, Chiến Phong, Chiêu Võ, Tuyên Võ, Chương Võ thuộc Hậu quân. Lấy hàng tướng Đô úy NVS làm Chánh vệ vệ Nhuệ Phong” (tr.335). Sự kiện này được ghi vào mùa hạ, tháng 4 năm Bính Thìn (1796). 11 tháng, đủ thời gian cho một cuộc vượt ngục, , chạy trốn và tìm đường vào Nam, chọn người bảo lãnh trong hàng ngũ các tướng Nguyễn. Chúng tôi đặt vấn đề chọn người bảo lãnh ở đây  bới NVS không phải là một nhân vật bình thường, ông là trọng thần của một triều đình đối nghịch. Nếu không thận trọng, ông có thể bị các tướng bên nhà Nguyễn do căm thù mà giết chết. Người mà NVS chọn để gửi thân, chính là Võ Tánh, một tướng trong “Gia Định tam hùng” (ba anh hùng đất Gia Định). Ông được Nguyễn Ánh tin dùng, gả em gái là Công chúa Ngọc Du cho. Võ Tánh nổi tiếng đến mức, đương thời hai danh tướng Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng của Tây Sơn chỉ kiêng nể một mình ông. Cũng do đánh giá quá cao Võ Tánh mà Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng đã tập trung tinh binh của Tây Sơn bao vây Quy Nhơn, nhằm tiêu diệt Võ Tánh, nên đã để hở Phú Xuân cho quân Nguyễn đánh chiếm, dẫn đến thất bại của nhà Tây Sơn sau này.
Võ Tánh là một tướng tài giỏi, có lòng bao dung và nể trọng người tài, ông lại cùng quê Gia Định với NVS, lúc này ông đang làm Chưởng Hậu quân của Nguyễn Ánh, NVS tìm đến ông để gửi thân là hợp lý. Mặt khác, khi đến hàng Võ Tánh, thân thế của NVS chỉ có Võ Tánh biết. Võ Tánh thông cảm với hoàn cảnh của NVS mà dấu tông tích thật của ông, chỉ công bố ông là Đô úy. Chúng ta biết rằng, nếu là một trọng thần của Tây Sơn sang đầu hàng quân Nguyễn thì các tướng Nguyễn không thể tự tiện chấp nhận và thu nạp hàng tướng đó mà phải tâu báo lên Nguyễn Ánh. Trong trường hợp NVS, nếu biết ông sang hàng , chắc gì Nguyễn Ánh đã chấp nhận và tha thứ? Còn một viên tỳ tướng (Đô úy có hàm chánh ngũ phẩm- 5a) đến đầu hàng thì một viên tướng cấp dưới có quyền chấp nhận sự đầu hàng và thu nạp vào hàng ngũ.Đó là lý do vì sao khi sang hàng Nguyễn, NVS chỉ khai là Đô úy. Ở trường hợp NVS chúng ta cũng thấy sự ưu ái của Võ Tánh đối với ông. NVS vừa mới sang hàng Nguyễn, chưa có công tích gì đã được phong là Chưởng vệ vệ Nhuệ Phong. Chưởng vệ là chức Võ quan, cầm đầu một vệ quân, có hàm đến Chánh tam phẩm   (3a). Rõ ràng là ở đây có một sự đối xử đặc biệt. Nếu NVS chỉ là một Đô úy bình thường thì đâu có thể được đặc cách như vậy?(Tăng 4 bậc hàm một lúc, từ 5a bỏ qua 4b, 4a, 3b để lên 3a).
Võ Tánh chết mang theo bí mật về cuộc đời Ngô Văn Sở
Năm 1801, trong khi quân Nguyễn tấn công hạ thành Phú Xuân thì cũng là lúc ở Quy Nhơn, quân Võ Tánh bị vây ép lâu ngày, hết lương thực. Võ Tánh tự thiêu trên giàn lửa. Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đem quân chiếm thành Quy Nhơn. Cảm phục trước cái chết của Võ Tánh, hai ông Diệu, Dũng đã cho thu xác viên tướng này , chôn cất cẩn thận và tha cho toàn bộ quân tướng trong thành, cho phép ai muốn đi đâu tùy ý.NVS ở trong đám loạn quân , lại tìm đường theo về Nguyễn Ánh. Như vậy, người duy nhất biết được sự thật về thân thế của NVS là Võ Tánh thì đã bị chết theo thành Quy Nhơn vào tháng 5.1801. Chính vì vậy mà sau này các sử gia nhà Nguyễn không biết rõ về NVS. Việc NVS khai ngụ cư ở Gia Định là sự thật. Nhưng việc ông khai quê gốc ở huyện Đăng Xương phủ Thừa Thiên (như sử nhà Nguyễn ghi) thì chưa chắc đã đúng. Có lẽ ông không dám khai gốc “Thạch Hà tướng phiệt” của ông vì sợ từ đó mà người ta lần ra nguồn gốc thật, bởi vì họ Ngô của ông vốn ở làng Trảo Nha, huyện Thạch Hà, trấn Nghệ An là một dòng họ nổi tiếng. Ông tổ ông là con trai Tào Quận công Ngô Phúc Văn là tướng nhà Lê- Trịnh đem quân vào Nam đánh chúa Nguyễn, bị thất bại nên đã di cư vào Gia Định, đến đời NVS là đời thứ 4 (cũng coi như là quê gốc) . Cũng vì quê ở Gia Định mà khi quyết định sang hàng quân Nguyễn, ông đã tìm đến doanh quân của Võ Tánh (cũng là người Gia Định) để tìm sự cảm thông.
Như vậy, khi NVS sang hàng quân Nguyễ, ông không thay tên, đổi họ như ông Nguyễn Đắc Xuân đã phỏng đoán. Nhưng tại sao ông đã không dám khai thật chức tước của mình, lại vẫn giữ tên họ là NVS mà không thay tên, đổi họ? Chúng tôi cho rằng, khi NVS sang hàng Võ Tánh, cả hai ông Tánh và Sở đều không có ý và cũng không dám lừa dối Nguyễn Ánh. Có lẽ hai ông sẽ chờ một cơ hội nào đó, khi NVS đã có một ít công lao thì sẽ đến ra mắt chúa Nguyễn mà tự thú. Tuy nhiên, do Võ Tánh chết nên một mình  NVS không dám tự thú. Có một điều để chúng ta có thể tin rằng, tướng NVS của Tây Sơn và tướng NVS của nhà Nguyễn vẫn chỉ là một. Đó là khi Đại Tư mã NVS làm Tổng trấn Bắc thành, ông có về xã Ninh Sơn, huyện Chương Đức, trấn Sơn Nam Thượng (nay thuộc huyện Chương Mỹ, Hà Tây) để so gia phả với một người đồng tộc là Hoành Quận công Ngô Phúc Phương, con rể chúa Trịnh Cương, đang về nghỉ dưỡng già tại đây. Theo gia phả thì vị Đại tư mã danh tiếng đó ngụ cư ở Gia Định thật, đúng như Đại Nam liệt truyện (quyển 25) của nhà Nguyễn đã ghi. Tổ 4 đời của Ngô Văn Sở là con trai Tào Quận công Ngô Phúc Văn , làm tướng Lê- Trịnh , bị sa cơ khi cầm quân vào đánh chúa Nguyễn nên đã di cư vào trấn Phiên An, Gia Định.Còn gốc gác của ông ở Trảo Nha, thuộc dòng dõi “Thạch Hà tướng phiệt” (theo Bốn con sông đất Việt, Phan Huy Đông, Nxb Văn hóa Dân tộc, 2001, tr.141-151)
Như vậy, chúng ta có thể kết luận danh tướng Tây Sơn NVS và viên tướng NVS hàng Nguyễn vẫn chỉ là một. Ông bị bắt trong vụ chính biến năm 1795, sau đó trốn thoát được rồi sang hàng Nguyễn.
Năm 1802, sau khi thống nhất đất csGia Long lên ngôi vua, phong NVS làm Khâm sai Chưởng cơ, lĩnh chức Tổng trấn Thanh Hoa Ngoại . Theo quan chế nhà Nguyễn , Khâm sai Chưởng cơ có hàm Chánh nhị phẩm (2a). Như vậy sau 6 năm đi theo Gia Long, NVS đã được trọng dụng, cất nhắc vượt cấp, gần ngang với chức tước của ông dưới triều đại Tây Sơn.
*





























BÍ ẨN CUÔC ĐỜI DANH TƯỚNG PHAN VĂN LÂN
1. Tổng trấn Bắc Hà
Phan Văn Lân là dang tướng của nhà Tây Sơn. Quê hương gốc gác của ông ở đâu, kết cục cuôc đời ông ra sao , con nhiều điều bí ẩn. Cuộc đời ông như một vệt sao băng , lóe lên tồi vụt tắt, không để lại dấu tích gì. Chính vì vậy mà có hiện tượng người nọ, người kia mạo nhận ông là tổ tiên dòng họ mình. Chúng ta thử lần theo lịch sử, dựng lại vài nét sơ lược cuộc đời của ông, mong sao sau này có đủ tư liệu để cung cấp cho bạn đọc đầy đủ hơn.
Theo cuốn sách Nhà Tây Sơn của Quách Tấn - Quách Giao (Sở VH-TT Nghĩa Bình, 1988) thì Phan Văn Lân đến với nhà Tây Sơn từ rất sớm.
Sách này viết: "Kế đó, có một tráng sĩ xin vào yết kiến. Tây Sơn Vương cho mời vào thì là Phan Văn Lân, người bạn học cũ. Họ Phan người miền ngoài nhưng không rõ ở phủ huyện nào. Võ giỏi, tự cho rằng võ mình được truyền từ Phạm Ngũ Lão đời Trần, thiên hạ vô địch" (sđd, tr 66). Năm 1775, ông làm phó tướng cùng Nguyễn Lữ đánh vào Gia Định: “Mùa xuân năm Ất Mùi (1775) Tây Sơn Vương sai Nguyễn Lữ và Phan Văn Lânđem thủy quân vào đánh Gia Định. Quân Tây Sơn đánh vào Sài Côn (tức Sài Gòn). Định Vương Nguyễn Phúc Thuần hoảng sợ, chạy về Trấn Biên (tức Biên Hòa) Quân Tây Sơn kéo vào thành. Nguyễn Lữ cho khuân hết lương thực , vũ khí xuống thuyền rồi sai Phan Văn Lân tải về Quy Nhơn, một mình ở lại Gia Định.
Năm 1778, Nguyễn Nhạc lên ngôi vua, xưng hiệu là Minh Đức hoàng đế, niên hiệu là  Thái Đức, đóng đô ở thành Quy Nhơn gọi là Hoàng Đế thành và phong Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân, Nguyễn Lữ làm Tiết chế, Phan Văn Lân làm Nội hầu, Trần Quang Diệu làm Thiếu phó, Võ Văn Dũng làm Đại tư khấu, Ngô Văn Sở làm Đại tư mã...". Mùa đông năm 1787, khi biết Nguyễn Hữu Chỉnh ở Bắc Hà làm phản, Nguyễn Huệ đã cử Tả quân Võ Văn Nhậm cùng Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân kéo quân ra Bắc: “…tức thì Bắc Bình vương sai bọn Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân kéo quân ra Nghệ An, hợp cùng Vũ Văn Nhậm tính việc đánh dẹp phương Bắc” (trích HLNTC). Nguyễn Hữu Chỉnh bị diệt, Võ Văn Nhậm lại lộng quyền. Lòng dân xao động. Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lại đích thân ra Bắc diệt Võ Văn Nhậm, trao quyền lại cho Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân.
Mùa đông 1788, theo lời cầu viện của Lê Chiêu Thống, 29 vạn quân Thanh kéo vào nước ta. Từ Phú Xuân, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, kéo quân ra Bắc diệt quân Thanh. Trong chiến dịch giải phóng Thăng Long, vua Quang Trung chia quân thành 5 đạo.
 Đạo chủ lực là đạo Trung quân do đích thân Quang Trung chỉ huy, có Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân đốc thúc Tiền quân làm Tiên phong, Hám Hổ hầu đốc thúc Hậu quân làm đốc chiến.Đại Đô đốc Lộc, Đô đốc Tuyết đốc suất Tả quân, Đại đô đốc Bảo, Đô đốc Long đốc suất Hữu quân. Chiến dịch mùa xuân Kỷ Dậu đại thắng, Phan được giao ở lại Thăng Long làm Trấn thủ cai quản các trấn ở Bắc Hà. Lịch triều tạp kỷ chép: “Tháng 3 (1789) Nguyễn Quang Bình từ Thăng Long trở về Phú Xuân để lo việc nước> Sai bọn Đô đốc Phan Văn Lân, Đô đốc Nguyễn Văn Danh , Nguyễn Văn Trực, Nguyễn Văn Dungjchia nhau dẫn các quân thủy bộ cùng ở lại giữ 11 trấn là thành Thăng Long, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Nam …Mọi việc quân, việc dân đều do bọn Phan Văn Lân trông coi” Sdd, tr.592-593)
Mãi đến tháng 8.1789, Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhậm từ Phú Xuân mới trở ra Bắc Hà và vai trò của các ông như là các quan Khâm phái thay mặt triều đình để đón tiếp sứ giả và bàn việc bang giao. Cũng chính Ngô Văn Sở đã cầm đầu đoàn sứ bộ sang sứ nhà Thanh vào năm 1790 trong chuyến hộ tống vua Quang Trung giả.
Sau khi đi sứ về, Ngô Văn Sở được giao chỉ huy lực lượng thủy quân Tây Sơn. Như vậy, ông không thể làm Tổng trấn Bắc Thành như một số tài liệu đề cập. Công việc quản lý quân dân 11 trấn Bắc Hà thực chất là của Phan Văn Lân (võ tướng) và Nguyễn Văn Danh (văn quan) đảm nhận. Trong bức thư của vua Quang Trung gửi cho quan Hộ đạo chánh đường họ Lâm của nhà Thanh cũng viết: "Tôi đã sức cho quan lưu thủ thành Thăng Long là Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Danh sai trấn mục các xứ mau chóng sửa sang quán xá, cầu đường như lệ cũ và cử các quan văn võ lên cửa quan đón tiếp..." (tr 632).
2. Từ trần đột ngột tại nhiệm sở!
Như vậy là sau đại thắng mùa Xuân Kỷ Dậu , Phan Văn Lân giữ vai trò một võ quan Tổng trấn ở Thăng Long (mà triều Tây Sơn gọi là Lưu thủ), nắm giữ, quản lý quân dân 11 trấn ở Bắc Hà. Vai trò đó ông giữ cho đến năm 1793 thì đột ngột từ trần, khi đang làm việc ở nhiệm sở. Sách Lê triều dã sử của tác giả khuyết danh (do Nguyễn Huy Thức và Lê Văn Bảy dịch, Nxb Văn hóa- Thông tin, 2006) có đề cập đế cái chết của ông. Sách này viết: “Năm Quý Sửu (1793) Lân Ngọc Hầu trấn ở Bắc thành , ngày 5 tháng 6, tối đến, mọi người đang ngủ ngon cả, ông đang ngồi tựa lưng, bỗng thấy người lạ đột ngột hiện ra trên giường, quát lớn rằng: “Ta là Nguyễn Danh Giản, Thượng thư bộ Công của Cựu triều, người Vĩnh Trị, Hoằng Hóa phụng mệnh Cao Hoàng Đế (tức Lê Lợi – PDK chú) đến giết nhà ngươi” nói rồi đột nhiên biến mất. Lân Ngọc Hầu tự nhiên thổ huyết rồi chết. Sai quan Tư khấu thay thế cùng với Khang Công (tức Nguyễn Quang Thùy, con vua Quang Trung) lo việc nước” (Sdd, tr.122-123). Ở đây có tước danh Lân Ngọc Hầu, chúng ta chưa thấy sách nào đề cập tới, nhưng đây chắc chắn là tước danh của Phan Văn Lân. Bởi chức Tổng trấn Bắc thành trong thời gian này là của Phan Văn Lân, như đã phân tích ở trên. Mặt khác, rất nhiều tước danh của các quan lại nhà Tây Sơn trong thời gian này lấy tên riêng làm chữ đầu của tước danh. Ví dụ: Trần Văn Kỷ là Kỷ Lễ hầu, Võ Văn Ước là ƯỚc Thiện hầu, Đặng Tiến Đông là Đông Lĩnh hầu… Vậy thì Lân Ngọc Hầu là tước danh của Phan Văn Lân chứ không phải của ai khác. Ở đây cần nói thêm về Nguyễn Danh Giản (có sách ghi là Nguyễn Đình Giản) . Ông là cựu thần triều Lê, làm tới Thượng thư bộ Binh. Ông nổi tiếng cương trực. Khi Tây Sơn ra Bắc có mời ông cộng tác. Nhưng ông không hưởng ứng. Sau đó Nguyễn Danh Giản cầm quân chống lại Tây Sơn, bị bắt rồi bị giết. Nguyễn Danh Giản là đại diện cho thế lực chống đối nhà Tây Sơn đến cùng. Có lẽ vì thế mà người ta gắn cái chết của Phan Văn Lân với tên tuổi của ông. Chúng ta cũng không loại trừ khả năng có nội gián là các trung thần của triều Lê ra tay đầu độc Phan Văn Lân để làm mất ổn định chính trị.
Cũng theo Lê triều dã sử thì sau khi Phan Văn Lân mất thì quyền Tổng trấn Bắc thành tạm giao cho quan Tư khấu (có lẽ là Nguyễn Văn Danh?) cho đến năm Ất Mão (1795) mới chính thức giao cho Ngô Văn Sở. Vào tháng 6.1795, do nội bộ lục đục, các đại thần Tây Sơn tàn hại lẫn nhau, Ngô Văn Sở đang làm Tổng trấn Bắc Thành thì bị triệu về kinh đô Phú Xuân , gây ra vụ án còn nhiều bí ẩn như đã  đề cập trong bài viết về Ngô Văn Sở ở trên.
Chúng ta chưa biết quê quán, gốc tích của Phan Văn Lân ở đâu. Ông mất vào năm 1793, khi đang làm Tổng trấn ở Thăng Long, vị tổng trấn đầu tiên sau khi ta giải phóng đất nước, còn bộn bề công việc về nội trị và ngoại giao.
Từ trước đến nay rất ít tài liệu đề cập đến Phan Văn Lân. Thảng hoặc có vài cuốn sách hiếm hoi nhắc đến ông thì lại kể về ông như một viên tướng võ biền, với những kỳ tích công phu về võ thuật, ví như nghiêng bàn tay chém vỡ tảng đá chẳng hạn. Thật ra, nếu ông chỉ có vài ngón nghề tuyệt kỹ của một võ sư, dù là siêu phàm, thì làm sao có thể điều hành quản lý được 11 trấn Bắc Hà vừa mới giải phóng còn nhộn nhạo, kể cả việc dập tắt sự chống đối của các cựu thần triều Lê nổi dậy ở nơi này, nơi khác. Về kết cục của Phan Văn Lân, một số sử sách cho rằng, sau khi nhà Tây Sơn sụp đổ, ông thất vọng bỏ vào núi rừng ở ẩn, “vui cùng cỏ nội mây ngàn” là sự suy đoán không có cơ sở. Bài viết này xin được đính chính lại . / .
*




BÍ ẨN  CUỘC ĐỜI DANH TƯỚNG TÂY SƠN VŨ VĂN DŨNG
.
Chiêu Viễn Đại tướng quân Vũ Văn Dũng là danh tướng của triều Tây Sơn, cũng nh nhiều danh tướng Tây Sơn khác, hiện nay quê hương gốc tích của ông ở đâu còn là vấn đề tranh cãi. Người thì cho rằng quê ông ở Bình Định, người lại nói quê ông ở Hải Dương. Vậy rốt cuộc quê ông ở đâu? Bài viết này chỉ mong đóng góp một phần nhỏ trong việc tìm hiểu quê hương gốc tích của Vũ Văn Dũng.
1. Vũ Văn Dũng quê ở Hải Dương.
Tài liệu quan trọng cho biết rõ quê Vũ Văn Dũng ở Hải Dương, đó là gia phả họ Vũ do Vũ Vĩnh Thứ, cháu ba đời của VŨ Văn Dũng soạn vào năm Tự Đức thứ 22 (1870), trong đó đoạn chép: “Vào ngày Rằm tháng 4 năm Quang Trung thứ 4 (1791) , nhà vua có phái người đi từ Phượng Hoàng trung đô ở Nghệ An đem sắc lệnh sau đây ra cho Đại Đô đốc Vũ Quốc công đang nghỉ giả hạn ở nhà: “
Sắc sai Chiêu Viễn Đại Đô đốc Đại tướng quân Dực vận công thần Vũ quốc công Vũ Văn Dũng được tiến phong làm chức Chánh sứ đi qua Tàu, kiêm toàn quyền trong việc tâu thưa xin lại hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây để dò ý và cầu hôn một vị công chúa để chọc giận. Cẩn thận đấy! Hình thể dụng binh đều do nơi chuyến đi này cả.. Một ngày kia người đi tiên phong chính là khanh đó. Kính thay lời sắc sai này.
Ngày Rằm tháng 4, năm Quang Trung thứ 4 (1791)
Tài liệu này được Hoa Bằng dẫn lại trong cuốn sách nghiên cứu về Quang Trung của ông, cuốn Quang Trung anh hung dân tộc (Hoa Tiên tái bản, Sài Gòn 1974). Sau này nhiều người cũng trích dẫn tài liệu này và cho rằng, đây là căn cứ duy nhất nói rằng Vũ Văn Dũng quê ở Hải Dương. Trong cuốn sách Nguyễn Huệ- Phú Xuân (Nhiều tác giả, Nxb Thuận Hóa, 1986) tác giả Phan Thuận An, sau khi trích dẫn tài liệu này cũng cho rằng “Trên đây là nguồn tài liệu thứ nhất và cũng là tư liệu duy nhất cho rằng, Vũ Văn Dũng là người tỉnh Hải Dương” (Sdd, tr.153)
Trước hết, theo chúng tôi, đây là một tài liệu rất quý (nhưng không phải là duy nhất) cho ta biết gốc tích của Vũ Văn Dũng. Điều đặc biệt là, tư liệu này rất phù hợp với những nội dung ghi chép của Hoàng Lê nhất thống chí (HLNTC), về sự kiện VVD được cử làm chánh sứ qua Tàu: “Lại nói, vua Quang Trung sau khi quyết định việc đánh Trung Quốc, bèn sai bề tôi là Chiêu Viễn Vũ Văn Dũng sang nhà Thanh, dâng biểu cầu hôn và đòi lại đất hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây. Điều đó không phải là bản tâm của vua Quang Trung , chẳng qua muốn thử xem ý nhà Thanh ra sao mà thôi. Nhưng vừa lúc ấy thì vua Quang Trung mất, việc cầu hôn và việc đòi đất không thấu đến triều đình Trung Quốc, nên vua Thanh cũng không biết” (HLNTC)
Việc ghi chép thống nhất giữa hai nguồn tư liệu như thế, cho phép chúng ta tin rằng, gia phả họ Vũ ở Hải Dương do Vũ Vinh Thứ chép là đáng tin cậy. Tuy nhiên, đây không phải là “căn cứ duy nhất” như một số nhà nghiên cứu nhận định. Còn một số sử sách đương thời ghi chép về gốc tích VVD , và đều cho rằng ông quê ở Hải Dương. Trong tác phẩm Lê Triều dã sử (Khuyết danh, do Nguyễn Huy Thức và Lê Văn Bảy dịch, Nxb Văn hóa- Thông tin, 2006) cũng có một đoạn ghi về sự kiện đi sứ này , và cũng nói rõ, VVD quê ở Thanh Miện, Hải Dương. Sách viết: “Trước đó, Quang Trung sai Dũng Phái Chiêu Viễn Đại Tướng quân người làng Thanh Miện sang sứ Càn Long , trong đó trình bày ba việc: Một là cầu hôn công chúa, hai là đòi trả lại đất Lưỡng Quang, ba là xin thả Chiêu Thống về nước. (Sdd, tr.121)
Trong tác phẩm Lịch triều tạp kỷ của Ngô Cao Lãng (tập 3, Nxb Khoa học Xã hội, 1995) có ghi: “Bọn lưu giữ Thăng Long là Phan Văn Lân và Nguyễn Văn Danh vâng lệnh chọn cử bọn võ quan trong thành là Chiêu Viễn Đại tướng quân Vũ Hữu Dũng, người Hải Dương, văn quan là Ngự sử Phan Huy Ích lên cửa quan Lạng Sơn chờ nghênh tiếp các Đại viên công quán của Thiên triều” (sdd, tr.628). Ở đây sách ghi là Vũ Hữu Dũng chứ không phải Vũ Văn Dũng , nhưng với tước danh và chức vụ Chiêu Viễn Đại tướng quân, thì người được nhắc đến ở đây là Vũ Văn Dũng chứ không phải ai khác.
Nhưng có lẽ tư liệu sau đây mới là đáng tin cậy nhất. Đó là tác phẩm Lê quý kỷ sự của Nguyễn Thu (do Hoa Bằng dịch, Nxb Khoa học Xã hội, 1974). Sách viết: “Nguyễn Huệ sai Chiêu Viễn Đại tướng quân tên là Dũng ở lại đóng quân ở Bố Chính ngoại châu, còn Huệ kéo quân qua song về Nam. Dũng người Hải Dương, ngày trước theo Đại tướng quân Quận Tạo (tức Phạm Ngô Cầu) vào lưu thủ ở Thuận Hóa. Quận Tạo sai Dũng đi Quy Nhơn để dụ Nguyễn Hữu Chỉnh quay về với cố quốc nhưng Dũng lại tiết lộ tình hình quân sự với giặc. Việc bị phát giác, Dũng bị quận Tạo bỏ tù. Khi thành Phú Xuân bị phá, Huệ thả Dũng ra  khỏi nhà lao, dung làm Chiêu Viễn Đại tướng quân. Đến đây, Huệ sai Dũng ở lại  Bố Chính ngoại châu, trưng mộ quân lính trong châu, đóng đồn ở Phổ Ngõa, còn Huệ, kéo hết quân qua La Hà về Nam” (Sdd, tr.53). Đây là tài liệu rõ rang nhất, cụ thể nhất cho ta biết gốc tích của Vũ Văn Dũng cũng như giải thích lý do vì sao ông là tướng nhà Lê Trịnh mà lại theo nhà Tây Sơn. Tài liệu này cũng giải thích cho ta biết vì sao ông lại có tước danh Chiêu Viễn (Mời gọi từ xa) mà Nguyễn Huệ phong tặng cho ông. Tài liệu này cũng cho ta biết cụ thể thời điểm mà VVD theo nhà Tây Sơn, đó là khi Nguyễn Huệ giir phóng thành Phú Xuân (5.1786) .
Điều chắc chắn là cả 4 tài liệu trên đây đều ghi rất chính xác cả chức vụ và tước danh của ông : Chiêu Viễn Đại tướng quân. Đó là chức vụ và tước danh của Vũ Văn Dũng chứ không phải của ai khác.. Tác giả Tạ Chí Đại Trường trong tác phẩm Việt Nam thời Tây Sơn, lịch sử cuộc nội chiến (Nxb Công an Nhân dân, 2007) có đưa ra nhận định tương đối chính xác : “Lại cũng là chuyện bình thường của thời thế, nhóm quan quân đầu hang, tù binh kia của Trịnh đi qua phía Nguyễn Ánh , vẫn còn một bộ phận ở lại phía Tây Sơn, trong đó hẳn có Vũ Văn Dũng” (sdd, tr.474). Gần đúng như thế. Chỉ có điều Vũ Văn Dũng không phải là tù binh mà ông đã tự nguyện cộng tác với nhà Tây Sơn từ những ngày Tây Sơn còn giữ quan hệ “ngoại giao” với triều đình Lê- Trịnh.(Chính Nguyễn Nhạc đã từng nhận chức tước của triều đình Lê- Trịnh làm Tráng Tiết tướng quân Tây Sơn trưởng hiệu và đã nhiều lần cử sứ giả đến Phú  Xuân giao thiệp với Hoàng Ngũ Phúc, Phạm Ngô Cầu (Theo Đại Việt sử ký tục biên)
2.Võ Văn Dũng quê ở Bình Định
Có một điều cần nhấn mạnh trước là, những tài liệu nói Võ Văn Dũng quê ở Bình Định đều ghi ông họ Võ (Võ, chứ không phải Vũ, mặc dù Võ hay Vũ cách viết chữ Hán cũng như nhau)
Có một số nguồn tài liệu nói rằng, Võ Văn Dũng quê ở Bình Định, cụ thể là ở thôn Phú Mỹ, xã Bình Phú, huyện Bình Khê. Trong Tây Sơn - Nguyễn Huệ, kỷ yếu Hội nghị nghiên cứu phong trào Tây Sơn và anh hung Nguyễn Huệ (Ty VHTT Nghĩa Bình, 1978) cho biết: Dòng họ Võ còn nhà thờ ở thôn Phú Mỹ với bức biển “Võ từ đường” khảm trai và bài vị Võ Văn Dũng. Gia phả họ Võ mới biên soạn gần đây trên cơ sở giấy tờ cũ, ghi rõ các thế hệ, trong đó Võ Văn Dũng đời thứ 4 (sdd, tr.53)
Trong tác phẩm Nhà Tây Sơn (Quách Tấn, Quách Giao, Sở VHTT Nghĩa Bình, 1988) cũng cho biết Võ Văn Dũng quê ở Bình Định. Là người cùng quê với an hem Tây Sơn, nên ông tham gia phong trào ngay từ đầu, là một trong “Tây Sơn thất hổ tướng (Bảy hổ tướng nhà Tây Sơn: Võ Văn Dũng, Võ Đình Tú, Trần Quang Diệu, Lý Văn Bưu, Nguyễn Văn Tuyết, Lê Văn Hưng, Nguyễn Văn Lộc).Đặc biệt, tác phẩm này còn cho ta biết, Võ Văn Dũng không chết dưới lưỡi gươm trả thù của vua Gia Long mà sau khi bị bắt, ông đã trốn được về quê nhà, rồi lên Núi Xanh ở ẩn, đổi tên là Võ Văn Độ. Ông sống trên 90 tuổi và mất dưới đời vua Thiệu Trị. Mãi đến năm Đồng Khánh, Thành Thái (1885- 1907), con cháu mới đem hài cốt của ông về quê nhà!
Về các tài liệu nói Võ Văn Dũng quê ở Bình Định, chúng tôi nhận thấy:
Một là, đây là những tài liệu mới được ghi chép gần đây. Gia phả họ Võ cũng mới được biên soạn trên cơ sở “giấy tờ cũ”. Giấy tờ cũ ở đây là giấy tờ gì, tài liệu không cho biết. Như vậy, mức độ tin cậy của cuốn gia phả đó là rất thấp.
Hai là, trong gia phả họ Võ cũng như trong tác phẩm Nhà Tây Sơn của Quách Tấn, Quách Giao các tác giả không hề ghi được tước danh của Võ Văn Dũng là Chiêu Viễn, một điều rất quan trọng để chứng tỏ ông là Vũ Văn Dũng chứ không phải là một người nào khác trùng tên.
Ba là, Vũ Văn Dũng là một nhân vật quan trọng số hai sau Trần Quang Diệu. Hẳn là việc giam giữ và dẫn giải đối với người tù này sẽ được áp dụng với một chế độ đặc biệt. Trong hoàn cảnh đó, làm sao VVD có thể vượt ngục và trốn thoát được? Và nếu ông trốn thoát được thì sẽ bị truy nã đến cùng (để đề phòng hậu họa). Vì vậy nói rằng ông trốn thoát được rồi lên núi sống đến 90 tuổi là không thể tin được.
Mặt khác, việc VVD bị bắt ở Thanh Hóa và bị nhà Nguyễn “xử trị hết phép” trong lễ “Hiến phù” diễn ra vào thang11 (1802) đã được sử nhà Nguyễn ghi chép lại đầy đủ: “Còn bọn đồ đảng là Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đều bị xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người đều biết” . Trong chiếu Bố cáo thiên hạ về việc này cũng nói rất cụ thể: “Ngày mồng 6 tháng này (tức tháng 11) tế cáo trời đất. Ngày mồng 7 yết tế Thái miếu, làm lễ Hiến phù, bọn Nguyễn Quang Toản và ngụy Thái tể Quang Duy, Nguyên súy Quang Diệu, Đốc trấn Quang Bàn, Thiếu phó Trần Quang Diệu, Tư đồ Vũ Văn Dũng , Tư mã Nguyễn Văn Tứ, Đổng lý Nguyễn Văn Thận, Đô ngu Nguyễn Văn Giáp, Thống tướng Lê Văn Hưng cùng với bè lũ đầu sỏ đều đã bắt giam, đều đem giết cả, bêu đầu bảo cho dân chúng” (Đại Nam thực lục, Nxb Giáo dục, tập 1, tr.532, 533)
Xem thế thì thấy rằng, chuyện VVD bị bắt rồi vượt ngục, trốn lên núi Xanh, sống đến ngoài 90 tuổi chỉ là chuyện hoang đường.Nhưng sự kiện có một tướng Tây Sơn tên là Võ Văn Dũng (Độ), trốn thoát rồi lên núi Xanh sống ẩn dật lại có thể là có thật. (vì có chuyện con cháu chuyển hài cốt). Chúng tôi cho rằng có một ông Võ Văn Dũng trùng tên quê ở Bình Định. Vì cùng quê với an hem Tây Sơn nên ông tham gphong trào từ rất sớm. Tuy nhiên, vai trò của ông đối với nhà Tây Sơn không lớn lắm.  Sauk hi nhà Tây Sơn mất, vì là tướng nhỏ, không có vai trò gì đặc biệt vua quan nhà Nguyễn không chú tâm lắm nên ông đã trốn thoát được và sống cho đến già trên núi Xanh, như tài liệu của các ông Quách Tấn, Quách Giao đã cho biết. Còn danh tướng Tây Sơn Chiêu Viễn Vũ Văn Dũng thì đã bị bắt, bị hành hình vào tháng11 năm 1802. Ông quê ở Thanh Miện, Hải Dương như nhiều tài liệu, sử sách cùng thời, đáng tin cậy đã cho biết.
Có một điều đáng lưu ý là : Trong tác phẩm Nhà Tây Sơn, hai ông Quách Tấn, Quách Giao đã đề cập đến rất nhiều vị tướng lĩnh tài ba, nổi tiếng, có vai trò rất quan trọng đối với nhà Tây Sơn như Võ Đình Tú, Đặng Xuân Phong, Lê Sỹ Hoàng, Đặng Cần Chánh, Nguyễn Quang Huy… chúng tôi đã tìm nhiều tài liệu ghi chép cùng thời nhưng không tìm thấy tên tuổi của những vị tướng này. Có lẽ đây là những nhân vật sưu tầm được trong dân gian ở một địa phương, được dân gian vùng Bình Định đồn thổi lên , có thể không có thật hoặc có một phần nhỏ sự thật. Trường hợp tướng Võ Văn Dũng (Độ) đề cập trong cuốn sách này cũng nằm trong số đó.
Có một điều thú vị là, ngày trước mỗi một vị tướng đều sở trường về một loại vũ khí. Theo các tác giả Nhà Tây Sơn cho biết thì tướng Võ Văn Dũng (Độ) sở trường về trường kiếm và đoản đao.. Tuy nhiên theo tập Hồi ký Biên niên sự vụ do Nguyễn Đức Xuyên, tướng nhà Nguyễn, đã từng gặp gỡ và đấu võ với tướng Vũ Văn Dũng cho biết thì ông lại sở trường về CÔN. (Theo Nghiên cứu Huế, tập 1-5, Trung tâm nghiên cứu Huế 1998 – 2003, do Trần Đại Vinh dịch và chú giải). Điều đó cho ta củng cố them nhận định, đây là hai nhân vật khác nhau.


.




CÓ HAY KHÔNG ĐẠI ĐÔ ĐỐC BÙI HỮU HIẾU DANH TƯỚNG  THỜI TÂY SƠN
Triều đại Tây Sơn với người anh hùng dân tộc Quang Trung – Nguyễn Huệ là một thời kỳ sáng chói trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta. Chiến công tiêu diệt 5 vạn quân xâm lược Xiêm trong trận Rạch Gầm – Xoài Mút (1784 – 1785) và đặc biệt là trận đại thắng mùa xuân Kỷ Dậu (1789) làm chói ngời tên tuổi những vị tướng lĩnh tài ba dưới sự chỉ huy tài tình của Quang Trung – Nguyễn Huệ. Tuy nhiên, do triều đại Tây Sơn quá ngắn ngủi, do bị trả thù quá thảm khốc, do ý đồ xóa bỏ đi hoàn toàn những ký ức về nhà Tây Sơn trong lòng nhân dân ta của vua quan nhà Nguyễn mà tên tuổi các vị anh hùng bị mai một. Tiểu sử, hành trạng của các vị lại càng mù mờ. Trong tình trạng đó, việc tìm tòi, khảo cứu các truyền thuyết dân gian, các gia phả , ghi chép của các dòng họ là một việc làm rất cần thiết. Chúng ta hoàn toàn trân trọng những tìm tòi, phát hiện đó. Tuy nhiên, gần đây đọc trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 9 – 2005 (trang 70 – 73) có bài “Đại đô đốc Bùi Hữu Hiếu qua tư liệu địa phương” của Phó Giáo sư Tiến sĩ Cao Văn Liên (Phân viện báo chí Tuyên truyền) chúng tôi thấy có đôi điều cần bàn.
Trước hết, chúng ta thấy rằng Đô đốc là phẩm hàm võ quan cao cấp của triều đại Tây Sơn, có thể làm tướng lĩnh chỉ huy cả một đạo quân. Ví dụ như trong chiến dịch Đống Đa lịch sử, chúng ta thấy có các Đô đốc Long, Đô đốc Tuyết, Đô đốc Bảo, Đô đốc Lộc, mỗi Đô đốc chỉ huy một đạo quân trong 5 đạo quân tiến vào giải phóng Thăng Long và các ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Hay như nữ Đô đốc Bùi Thị Xuân mà tên tuổi của bà đã nức tiếng xưa nay. Hàm Đại đô đốc lại còn cao hơn Đô đốc một bậc. Thế nhưng trong tên tuổi của các tướng lĩnh Tây Sơn, chúng tôi chưa hề tìm thấy tên tuổi Đại đô đốc Bùi Hữu Hiếu.
Chúng tôi lại khoanh vùng tra cứu các tài liệu ghi chép trong Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện, Hoàng Lê nhất thống chí, Lịch triều tạp kỷ,… về  thời gian xảy ra chiến dịch đánh chiếm lại thành Quy Nhơn (1800 – 1801), tìm ra tên tuổi của nhiều vị Đại đô đốc, Đô đốc nhà Tây Sơn tham gia chiến dịch này nhưng không thấy tên tuổi Bùi Hữu Hiếu. Sở dĩ chúng tôi tìm tên tuổi của các vị tướng lĩnh Tây Sơn tham gia chiến dịch này vì chiếc ấn mà con cháu ông Bùi Hữu Hiếu đang sở hữu có liên quan đến con đường rút quân ra bắc của hai tướng Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng.
Chúng ta quay trở lại thời kỳ lịch sử bi hùng năm 1800- 1801, trong khi hai ông Diệu – Dũng chỉ huy quân bao vây bức hàng Quy Nhơn, buộc Võ Tánh và Ngô Tùng Chu phải tự tử để thành lọt vào tay quân Tây Sơn thì Nguyễn Ánh bất ngờ đánh thọc ra, chiếm được Phú Xuân, vua tôi Quang Toản phải chạy vội ra Bắc Hà. Việc để mất Phú Xuân khiến cho đạo quân của hai tướng Diệu – Dũng bị cô lập hoàn toàn, không liên hệ được với triều đình trung ương. Để bảo vệ lực lượng, trở về với triều đình, hai ông Diệu – Dũng đành bỏ thành Quy Nhơn (vừa mới chiếm được), theo đường thượng đạo (tức đường núi, men theo Trường Sơn) kéo quân ra bắc. Tuy nhiên, ý đồ của hai ông không thể thực hiện được vì sau khi chiếm được Phú Xuân, quân của nhà Nguyễn đã tiến ra Bắc, đánh chiếm Nghệ An, Thanh Hóa với tốc độ quá nhanh; khiến cho hai ông Diệu – Dũng khi ra đến đây thì Nghệ An, Thanh Hóa đã rơi vào tay quân Nguyễn. Kết cục là, Trần Quang Diệu bị bắt ở Thanh Chương (Nghệ An). Cùng bị bắt với ông có các tướng Từ Văn Chiêu, Nguyễn Văn Mận, Nguyễn Văn Giáp, Lê Văn Hưng. Còn Vũ Văn Dũng mấy ngày sau cũng bị bắt ở Nông Cống (Thanh Hóa). Bị bắt cùng Vũ Văn Dũng chỉ có “ba tên đồ đảng”, tức là quân lính hay người tùy tùng, vô danh tiểu tốt. Như vậy trong số các tướng lĩnh Tây Sơn ra hàng hay bị bắt, chúng tôi không thấy có tên Đại đô đốc Bùi Hữu Hiếu. Bởi vì Đại đô đốc thuộc hàng võ quan cao cấp, không những vua biết mặt, chúa biết tên mà cả đối phương cũng dành cho sự quan tâm đặc biệt. Nếu Bùi Hữu Hiếu là Đại đô đốc bị bắt thì không thể dấu được tên tuổi, còn nếu ông trốn được thì cũng phải thay tên đổi họ, sống ở nơi rừng thiêng nước độc xa xôi nào đó, chứ không thể ung dung sống ở quê nhà, lấy vợ và sinh đến 5 người con, mà các con vẫn mang họ Bùi Hữu như trong gia phả đã ghi.
Mặt khác, trong gia phả họ Bùi Hữu do ông Bùi Hữu Cán biên soạn vào năm Bảo Đại thứ 17 (tức năm 1942) có ghi như sau: “Hai ông Bùi Hữu Hiếu và Bùi Hữu Thự là hai anh em ruột, con ông Bùi Hữu Nhượng, thuộc đời thứ 5 của dòng họ, kể từ cụ Bùi Hữu Doãn. Hai ông bị quân Hà Nam (?) bắt đi. Sau đó ông Bùi Hữu Thự mất tích. Dòng họ lấy ngày 16.8 âm lịch, là ngày hai ông ra đi để làm ngày tế giỗ cho ông Bùi Hữu Thự”. Đây là nguyên văn gia phả Bùi tộc được soạn vào năm 1942 mà tác giả Cao Văn Liên đã trích dẫn trong bài viết nêu trên trong tạp chí Nghiên cứu lịch sử. Như vậy, thời điểm 1942 là thời điểm sớm nhất mà gia phả dòng họ ghi về ông Bùi Hữu Hiếu. Gia phả 1942 không đề cập một chút gì về chức tước của ông Bùi Hữu Hiếu, cũng như việc ông tham gia quân đội Tây Sơn. Cần nhớ rằng, đến thời điểm năm 1942, nghĩa là sau gần 150 năm thì mối thù của vua quan nhà Nguyễn đối với nhà Tây Sơn hầu như không còn tồn tại. Vậy thì, nếu Bùi Hữu Hiếu là Đại đô đốc nhà Tây Sơn, một vinh dự như thế sao ông Bùi Hữu Cán không ghi vào gia phả mà lại chỉ ghi là “Bị quân Hà Nam (?) bắt” ? Nếu có các câu chuyện truyền lại trong dòng họ, trong địa phương về một vị Đại đô đốc lừng danh như thế, sao gia phả lại bỏ qua?
Hai ông Bùi Hữu Hiếu và Bùi Hữu Thự là hai anh em ruột và đều làm tướng nổi tiếng của nhà Tây Sơn (theo như gia phả mới soạn vào các năm 1970, 1984 và 2000) vậy sao ông anh còn sống sót trở về lại không rõ trường hợp hi sinh của người em mà gia phả phải lấy ngày họ ra đi làm ngày giỗ, như một trường hợp mất tích?
Chúng tôi cho rằng, ông Bùi Hữu Hiếu nếu có tham gia phong trào Tây Sơn thì chỉ là một người lính bình thường hoặc cùng lắm thì chỉ là tùy tùng của một vị Đại đô đốc nào đó. Ông được vị tướng này giao cho việc mang ấn tín trong đợt rút chạy từ Quy Nhơn ra Thanh Hóa (hay đó chính là ấn của Đại đô đốc Vũ Văn Dũng, vì ông bị bắt ở làng Ngọ Xá, Nông Cống, Thanh Hóa) (1). Điều đặc biệt là Vũ Văn Dũng không bị quân lính nhà Nguyễn bắt mà là bị 19 người dân làng Ngọ Xá bắt. Đại Nam thực lục ghi cụ thể: “Bọn Phạm Ngọc Phác, Phạm Ngọc Thụy 19 người dân làng Ngọ Xá (thuộc huyện Nông Cống) bắt được Tư đồ giặc là Vũ Văn Dũng và ba người đồ đảng, giải đến hành tại. Sai đóng xiềng giam lại” (trích Đại Nam thực lục) . Có thể trong quá trình bắt giữ này, một người họ Bùi đã nhặt được chiếc ấn của Vũ Văn Dũng, rồi thủ đi, không nộp lại cho triều đình. Chúng ta cũng không loại trừ khả năng các con cháu đời sau của ông Bùi Hữu Hiếu nhân đào ao, làm nhà, cuốc vườn mà nhặt được chiếc ấn do  quân lính của ông Dũng trước khi bị bắt đã quẳng lại vì không muốn ấn tín rơi vào tay kẻ địch.
Về hai tư liệu gốc mà tác giả Cao Văn Liên đưa ra để chứng minh ông Bùi Hữu Hiếu là Đại đô đốc thời Tây Sơn thì bản Di chúc do ông tổ là Bùi Hữu Doãn viết vào năm 1772 chưa có dòng nào ghi về ông Bùi Hữu Hiếu. Còn bản Gia phả Bùi tộc do ông Bùi Hữu Cán viết năm 1942 thì như chúng tôi đã phân tích, chỉ ghi là hai anh em ông Hiếu bị quân Hà Nam bắt. Vậy thì dựa trên cơ sở nào mà các bản gia phả sau này (mới được viết lại vào các năm 1970, 1984 và 2000) lại ghi hai ông là những vị tướng nổi tiếng của nhà Tây Sơn, lập được nhiều chiến công và còn cả sang sứ nhà Thanh nữa? Đây không phải là những điều bịa đặt, sáng tác thì là gì?
Trong bài viết trên, tác giả Cao Văn Liên cũng cho biết, hiện nay ở Nông Cống (Thanh Hóa) có hai địa phương thờ Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng. Đó là đình làng Xa Lý xã Thăng Bình thờ cả hai ông Diệu – Dũng và đình làng Ngọ Xá cũng ở xã Thăng Bình thờ riêng Vũ Văn Dũng. Nếu Bùi Hữu Hiếu là Đại đô đốc thì tên tuổi của ông chỉ đứng sau hai ông Diệu – Dũng. Có lẽ nào địa phương đã thờ ông Diệu, ông Dũng mà lại không thờ một vị Đại đô đốc , một nhân vật  kiệt xuất , niềm tự hào của địa phương mình?
Mặt khác, nếu ông Bùi Hữu Hiếu ở trong đoàn quân của hai ông Diệu – Dũng, giả sử ông trốn tránh được, không bị quan quân nhà Nguyễn bắt thì sau đó để tránh bị truy nã, ông phải thay tên đổi họ, rời bỏ quê hương, đến sống ở một vùng xa xôi nào đó, chứ sao ông vẫn đường hoàng sống ở quê, sinh con đẻ cái và vẫn mang họ Bùi Hữu. Có lẽ nào như thế mà ông lại không bị bắt, con cháu không bị tru di?
Như vậy là chiếc ấn Đại đô đốc do dòng họ Bùi Hữu lưu giữ chỉ có ý nghĩa là một di vật của triều đại Tây Sơn, chứ không thể chứng minh người giữ chiếc ấn đó từng là Đại Đô đốc.
Hiện nay trên đất nước ta, các dòng họ có phong trào dịch gia phả, viết lại gia phả , tục biên gia phả, trong đó có không ít người nhân việc làm đó lồng vào ý đồ phô trương dòng họ, phô trương tổ tiên của mình để mưu cầu này khác (ví dụ như chuẩn bị tư liệu để lập Hồ sơ xin được công nhận Di tích lịch sử cấp Quốc gia hoặc cấp tỉnh mà chúng tôi đã nhiều lần đề cập). Việc con cháu trong dòng họ viết gia phả, biến cha ông mình thành “ông nọ bà kia” là quyền của các dòng họ. Nhưng những người nghiên cứu , khi sử dụng gia phả vào các công trình nghiên cứu, biên khảo của mình thì cần phải hết sức thận trọng. Sao lại có thể dễ dãi cả tin đối với các cuốn gia phả có “niên đại” chưa quá vài ba chục năm, không căn cứ vào đâu cả, như cuốn gia phả này!
Chú thích: (1): Vũ Văn Dũng bị bắt tại làng Ngọ Xá, nay thuộc xã Thăng Bình, huyện Nông Cống, Thanh Hóa. Ông có hàm Đại đô đốc (Tên hiệu đầy đủ của ông là: Chiêu Viễn Đại đô đốc Đại tướng quân Dực vận công thần Vũ Quốc công)
















 

BÍ ẨN VỀ CÁI CHẾT CỦA HOÀNG ĐẾ QUANG TRUNG VÀ LĂNG MỘ CỦA ÔNG

Cái chết của Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ mãi mãi để lại những nghi vấn cho hậu thế. Đó là cái chết đột ngột, bất ngờ, không bình thường, khi ông mới ở tuổi 40 và đang sung sức.

Sách Đại Nam chính biên liệt truyện (Quốc sử quán triều Nguyễn) chép: “Huệ trong lúc lấy kinh đô Phú Xuân có mạo phạm vào lăng tẩm Liệt thánh. Một ngày kia, đương ngồi, thình lình bắt đầu xây xẩm rồi ngã ra hôn mê. Mơ màng thấy một lão trượng đầu bạc áo trắng, cầm gậy sắt từ không trung đi đến, mắng rằng: “Ông cha mày đều sinh ở đất vua, mày sao dám mạo phạm vào lăng tẩm?”. Nói dứt lời liền lấy gậy sắt đánh nơi trán Huệ. Huệ ngã xuống bất tỉnh, hồi lâu mới tỉnh lại. Từ ấy bệnh ngày càng nặng…”

Gạt bỏ phần hoang đường do các sử gia nhà Nguyễn bịa ra để đề cao triều Nguyễn, ta có thể thấy rõ cốt lõi sự thật về cái chết của Hoàng đế Quang Trung. Đó là: ông đang ngồi làm việc thì bất thình lình bị xây xẩm mặt mày rồi ngã ra hôn mê, một hồi lâu được cấp cứu mới tỉnh lại.

Sau đó, bệnh càng ngày càng nặng. Xét triệu chứng của hiện tượng trên, ta có thể suy đoán Nguyễn Huệ bị bệnh cao huyết áp do làm việc quá căng thẳng, suy nghĩ nhiều, dẫn đến tai biến mạch máu não. Đối với căn bệnh này, trình độ y học thời bấy giờ đành phải bó tay, dù triều đình có các lương y tài giỏi bên cạnh như Nguyễn Gia Phan, Nguyễn Hoành (còn với nền y học của thời đại chúng ta, bệnh này nếu có thể cứu sống được cũng để lại di chứng nặng nề cho người bệnh như ngớ ngẩn, mất trí nhớ, liệt nửa người…). Tóm lại, đây là một căn bệnh hiểm nghèo ngay cả với nền y học cuối thế kỷ XX.

Về cái chết của Hoàng đế Quang Trung, ta cũng có thể nêu một giả thiết khác. Sách Hoàng Lê nhất thống chí ghi: “… Vừa lúc ấy thì vua Quang Trung bị bệnh rồi mất. Hôm ấy nhằm ngày mùa thu, tháng 8 năm Nhâm Tý (1792), sau khi lên ngôi Hoàng đế được 5 năm. Trước đó, khi sứ nhà Thanh sang phong, vua Thanh đã ban cho vua Quang Trung chiếc áo bào, trong có thêu bảy chữ bằng kim tuyến: Xa tâm chiết trục, đa điền thử. Bấy giờ không ai hiểu ra sao, thì ra đến lúc này mới nghiệm”.

“Xa tâm chiết trục, đa điền thử” nghĩa đen là: bụng xe gãy trục, nhiêu chuột đồng. Chữ Xa và chữ tâm hợp lại thành chữ Huệ – tên vua Quang Trung. Chuột thuộc về Tý, ý nói năm Tý vua Quang Trung chết. Không phải ngẫu nhiên mà các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí gắn cái chết của Hoàng đế Quang Trung với chiếc áo bào vua Thanh tặng. Phải chăng
người chép sử muốn kín đáo gửi gắm lại cho hậu thế một nghi án rằng: chính chiếc áo bào là nguyên nhân gây nên cái chết của vua Quang Trung? Phải chăng triều đình Tây Sơn và vua Quang Trung đã mất cảnh giác với chiếc áo bào, có thể đã được tẩm một chất độc nào đấy? Và chính chất độc từ áo đã ngấm dần qua lỗ chân lông người mặc và gây nên cái chết của vua Quang Trung?

Sau đại thắng mùa xuân Kỷ Dậu (1789), mấy chục vạn quân Thanh bị tiêu diệt, mấy chục vạn gia đình thân nhân của binh lính nhà Thanh phải chịu tang tóc. Trong bối cảnh đó, chẳng lẽ vua Càn Long và triều đình nhà Thanh không có một chút thù hận nào đó với vua Quang Trung? Đành rằng với tài ngoại giao khéo léo của Ngô Thì Nhậm, lại có sự thu xếp bên trong của Phúc Khang An, nhưng sự dễ dãi của Càn Long và triều đình nhà Thanh đối với nhà Tây Sơn vẫn làm chúng ta nghi ngờ.


Triều đình Tây Sơn xin bỏ lệ cống người vàng, liền được chấp thuận. Càn Long lại coi Quang Trung như con (Càn Long hơn Nguyễn Huệ 42 tuổi). Dễ dãi đến mức Quang Trung đòi đất hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây mà Càn Long cũng chấp thuận thì thật đáng ngờ! Phải chăng sự dễ dãi bên ngoài đó là để làm cho Quang Trung mất cảnh giác nên bị hại ngầm bên trong? Đành rằng khi Càn Long yêu cầu Nguyễn Huệ phải đích thân sang Yên Kinh (1790), triều đình Tây Sơn đã phải dùng kế cho người đóng giả vua Quang Trung, đó là sự cảnh giác cần thiết. Rồi khi Nguyễn Quang Thuỳ (con Nguyễn Huệ) trong đoàn đi sứ, nửa chừng bị ốm phải trở về (có thể là vờ ốm), đây cũng là sự cảnh giác cần thiết. Nhưng chúng ta vẫn có quyền nghi vấn về sự sơ suất của triều đình Tây Sơn và Hoàng đế Quang Trung đối với chiếc áo này.

Sau khi Quang Trung mất, mộ táng ở phái Nam sông Hương. Gia Long lấy được Phú Xuân đã cho quật phá lăng mộ Quang Trung. Vì vậy, vấn đề tìm lại vị trí lăng mộ vua Quang Trung là một việc làm cần thiết, hợp với tình cảm, nguyện vọng và lòng ngưỡng mộ của nhân dân ta đối với vị Hoàng đế anh hùng. Gần đây, qua tìm tòi khảo sát, nhà nghiên cứu lịch sử Nguyễn Đắc Xuân đã đồng nhất vị trí phủ Dương Xuân của chúa Nguyễn với Đan Dương lăng – lăng Hoàng đế Quang Trung. Đây là một hướng tìm tòi đúng đắn, cần được đầu tư thêm.

Sau khi Quang Trung mất, triều đình Tây Sơn không muốn sứ đoàn nhà Thanh sang viếng tang đi sâu vào nội địa nước ta, nên đã làm mộ giả của vua Quang Trung ở làng Linh Đường (thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội ngày nay). Đây là một sự đề phòng đúng đắn bởi khi Quang Trung mất, triều đình Tây Sơn trong lúc bối rối, có thể bộc lộ nhiều sơ hở và nhược điểm, không thể để lộ cho người ngoài biết. Vì vậy, việc làm một ngôi mộ giả ở làng Linh Đường là cần thiết, nhất cử lưỡng tiện. Gần đây, trong cuốn “Bí mật mộ cố Linh Đường” một số tác giả (Nguyễn Tài Học, Nguyễn Mạnh Cường) cho rằng: lăng đá Linh Đường là mộ của bà Nguyễn Thị Hoa Dung, vợ Trịnh Doanh (mẹ Trịnh Sâm, bà nội Trịnh Tông, Trịnh Cán), đã được các triều thần Tây Sơn chọn làm mộ giả của vua Quang Trung. Theo chúng tôi, giả thiết này khó có thể chấp
nhận.

Một là, khi Quang Trung mất, triều đại Tây Sơn đang ở thời điểm cực thịnh, làm gì không bỏ ra được một ít công của, xây lăng cho vị Hoàng để lừng lẫy của mình (dù là lăng giả) mà lại phải “mượn” lăng của một người phụ nữ? Theo các tác giả cuốn sách trên, để biến mộ bà Hoa Dung thành mộ giả vua Quang Trung, người ta đã cho tu sửa và xây dựng lại toàn bộ cấu trúc bề ngoài của mộ. Nếu thế thì sao người ta không cho xây dựng hẳn một ngôi mộ mới ở một vị tri khác, công của bỏ ra cũng chỉ tốn đến thế mà thôi?

Hai là, khi sang viếng tang, không lẽ cả đoàn sứ bộ nhà Thanh và các đại thần triều Tây Sơn lại phải tế lễ, bái lạy và dâng hương trước lăng mộ của một người phụ nữ thuộc một triều đại thù địch đã bị tiêu diệt? Điều đó thật khó chấp nhận đối với các đại thần nhà Tây Sơn.

Vì những lẽ trên, lăng đá Linh Đường hiện còn không thể là mộ giả của vua Quang Trung. Mộ giả của vua Quang Trung đã bị Gia Long quật phá sau khi chiếm được thành Thăng Long (1802). Với chính sách tận diệt của triều Nguyễn, không một di tích nào của triều đại Tây Sơn có thể tồn tại được, huống chi là lăng mộ (dù là giả) của vua Quang Trung!

Sau khi vua Quang Trung mất, nội bộ triều Tây Sơn lục đục, tranh giành quyền thế. Các đại than gây bè cánh, sát hại lẫn nhau. Vua Cảnh Thịnh còn nhỏ tuổi, nhu nhược, không thể khống chế được các đại thần khiến nội bộ ngày càng rối ren. Triều đại Tây Sơn suy yếu dần, để mất nước mươi năm sau đó. Gia Long – nhờ thế lực của Pháp – lấy lại được bờ cõi. Nước ta càng ngày càng bị lệ thuộc vào Pháp và cuối cùng, bị Pháp thống trị. Có thể nói: cái chết của Hoàng đế Quang Trung đã làm cho lịch sử rẽ sang một huớng khác, hoàn toàn bất lợi cho dân tộc Việt Nam mà những người đương thời chưa thể lường hết được.
*









THỬ GIẢI NGHĨA ĐÔI VẾ CÂU ĐỐI Ở CHÙA BỘC
Pho tượng vua Quang trung
Chùa Bộc, tên chữ là Thiên Phúc tự, ở địa phận làng Khương Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội. Đây là một trong những ngôi chùa được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa sớm nhất nước ta (văn bản số 29 VH/QĐ ngày 13-1-1964). Đặc biệt, tại chùa có ba pho tượng thờ riêng ở bên phải bái đường, trong đó có pho tượng Đức Ông. Theo người xưa truyền lại, đây là một pho tượng lạ, phải có con mắt tinh đời và tấm lòng tưởng nhớ người xưa thì mới thấy được ý nghĩa sâu xa cùng bao điều bí ẩn trong đó. Phía trên ba pho tượng là bức hoành phi sơn son thếp vàng, có bốn đại tự: “Uy phong lẫm liệt”. Riêng bức hoành phi này đặt ở chùa đã là một sự lạ. Bởi vì bốn chữ “Uy phong lẫm liệt” thường để ca ngợi những người anh hùng có nhiều võ công và thường được thờ ở đền thờ các vị anh hùng dân tộc, còn đây là ngôi chùa thờ Phật. Đến tượng Đức Ông lại càng lạ. Bức tượng này to bằng người thật, ngồi trên bệ sơn son, một chân để trong hài, một chân để ngoài rất tự nhiên. Mình pho tượng mặc áo hoàng bào, thêu rồng, lưng thắt đai nạm ngọc, đầu pho tượng đội mũ  kiểu xung thiên, có hai dải kim tuyến thả xuống hai bên mang tai, trông rất oai nghiêm. Đó là, kiểu y phục của đế vương thời xưa. Do sự đặc biệt của bức hoành phi, pho tượng và đôi vế đối, các nhà nghiên cứu đều đặt vấn đề nghi vấn: phải chăng đây là pho tượng vua Quang Trung, nhưng không có bằng chứng cụ thể để khẳng định.
Ngày 22-4-1962, cụ Trần Huy Bá, một cán bộ nghiên cứu bảo tàng lâu năm, nhiều kinh nghiệm, khi xem xét pho tượng đã phát hiện ra phía sau bệ tượng có dòng chữ: “Bính Ngọ tạo Quang Trung tượng” (Tượng Quang Trung tạc năm Bính Ngọ). Đến lúc này mọi người mới chắc chắn đích thực tượng Đức Ông chùa Bộc là pho tượng thờ Quang Trung. Hai bên tả hữu của Quang Trung là tượng hai vị đại thần, được tạc nhỏ hơn, đặt thấp hơn. Ba người như đang ngồi bàn việc nước trong tư thế thoải mái. Về thời điểm năm Bính Ngọ khắc sau bệ bức tượng, các nhà nghiên cứu đều thống nhất đó là năm 1846. Lúc này đang đời vua Thiệu Trị (1840 – 1847), việc lùng bắt, trả thù những người liên quan đến triều đại Tây Sơn vẫn còn gay gắt (chúng ta càng thấy lòng ngưỡng mộ của nhân dân ta đối với vua Quang Trung thật là sâu sắc!).
Từ khi pho tượng Đức Ông chùa Bộc được phát hiện là tượng vua Quang Trung, nhân dân gần xa nô nức đến thắp hương bái vọng, tưởng niệm người anh hùng dân tộc.
Về câu đối ở hai bên tượng Quang Trung
Hai bên tả hữu bàn thờ có đôi vế đối (phiên âm):
(1) Động lý vô trần, đại địa sơn hà lưu đống vũ.
(2) Quang Trung hóa Phật, tiểu thiên thế giới chuyển phong vân.
Dịch theo nghĩa thông thường:
Vế trên (1): Trong động này không có mảy may bụi nhơ nào, non sông đất nước rộng lớn còn để lại một tòa lâu đài rường cột làm dấu vết.
Vế dưới (2): Giữa ánh sáng thành Phật, thế giới cõi tiểu thiên gió mây đều cảm động mà chuyển vần.
Nếu dịch nghĩa như trên thì không có gì dính dáng đến vua Quang Trung cả. Chúng ta cũng thấy, do sợ trả thù tàn khốc của triều Nguyễn, mọi sự người ta không thể nói thẳng ra được mà phải suy ngẫm, hiểu ngầm ý tứ bên trong. Bởi vì ở ngôi chùa ngay giữa Thăng Long đông người vãn cảnh, một sự sơ suất nhỏ cũng có thể gây ra tại họa khôn lường. Ngay từ năm 1962, các nhà nghiên cứu đã giải nghĩa đôi vế đối như sau:
Vế trên (1): Động lý tức là động ốc – tên một dụng cụ để phá thành, vì vậy, có thể diễn dịch: “Sau trận phá thành, quét sạch bụi bặm (quân xâm lược), trên toàn bộ dải đất núi sông rộng lớn, còn lưu lại tòa nhà cao rộng (ngôi chùa)”.
Vế dưới (2): Quang Trung hóa Phật. Theo sách nhà Phật: trong ánh sáng bốn biển lớn, hóa ra muôn vàn Đức Phật (nghĩa bóng là vua Quang Trung thình lình hóa thành ức vạn quân). Còn “phong vân” thì không hàm nghĩa gió mây mà chỉ là hai trận thế trong “Bát trận đồ” của Khổng Minh: “Thiên địa – Phong vân – Long hổ – Điểu xà” (“phong” còn có nghĩa là tình thế). Do đó vế này có thể diễn dịch là: “Vua Quang Trung tung ra ức vạn binh lính, đánh một trận phong vân làm rung chuyển cả cõi trần”. Hoặc là: “Vua Quang Trung tung ra ức vạn binh lính làm xoay chuyển cả tình thế”.
Từ trước đến nay, nhiều người vẫn bằng lòng với cách giải thích trên. Theo chúng tôi, cách giải thích này còn khiên cưỡng, gò ép. Ở vế trên (1), động lý được giải thích là “động ốc” – tên một công cụ phá thành (danh từ) – mà giải nghĩa thành “sau trận phá thành” (hành động) thì e rằng không hợp lý. Ở vế dưới (2). “Quang Trung hóa Phật” mà giải nghĩa là “Quang Trung tung ra ức vạn binh lính” cũng khó có thể chấp nhận. Trong một vế mà phải vận dụng cả điển tích nhà Phật, cả điển tích thời Tam Quốc, để giải thích là tùy tiện. Chúng ta có thể đặt nghi vấn: tại sao hai vế đối thờ vua Quang Trung lại chỉ nhắc tới cùng một sự việc (đánh quân xâm lược). Xét về mặt cấu trúc thì cả hai vế đối như thế sẽ không “chỉnh”. Chỉ đối chữ mà không đối ý.
Theo chúng tôi, đôi vế đối trên phải được hiểu như sau:
Vế trên (1) phải địch đúng nghĩa thông thường: “Trong động này (khu vực này) không còn mảy may bụi nhơ nào (vì đã quét sạch quân xâm lược), non sông rộng lớn này còn để lại một tòa lâu đài (tức ngôi chùa) làm dấu vết”.
Vế (1) phải hiểu theo nghĩa này mới đúng. Khu vực chùa Bộc lúc bấy giờ là vị trí đóng quân của Thái thú Điền châu Sầm Nghi Đống. Đêm mồng bốn rạng mồng 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu, trước sự tấn công bất ngờ và mãnh liệt của quân ta (đạo quân của Đô đốc Long), Sầm Nghi Đống thế cùng đã phải thắt cổ tự tử tại đài chỉ huy ở Loa Sơn (phía Tây chùa Bộc 200m). Nằm trong trận địa tiêu diệt quân Thanh nên sau đại thắng mùa xuân Kỷ Dậu (1789), chùa Bộc bị đổ nát. Vua Quang Trung đã sắc cho xây dựng lại chùa. Vì vậy trong vế trên, cụm từ đầu nêu sự kiện đại phá quân Thanh của Quang Trung ngay tại nơi đây (ngay tại vị trí chùa), còn ý sau nhắc đến công đức của Quang Trung đã cho xây lại chùa. Như vậy vế đối mới sát nghĩa.
Vế dưới (2), cụm từ đầu “Quang Trung hóa Phật”, theo chúng tôi, nhằm nhắc tới cái chết của vua Quang Trung. Trong từ điển Hán Việt, hóa ( ) là biến đổi Ngôn ngữ Việt Nam nhắc đến sự chết thường rất phong phú (“về” cũng là chết; “hóa” cũng là chết. Nguyễn Du viết: “Khí thiêng khi đã về thần” là nhắc đến cái chết của Từ Hải). Ở đây, cụm từ “Quang Trung hóa Phật” là nói đến cái chết của vua Quang Trung. Có thể dịch: “vua Quang Trung về cõi Phật” hoặc “vua Quang Trung về cõi vĩnh hàng”. Còn cụm từ sau vẫn được hiểu theo nghĩa thông thường. Vì vậy, toàn vế (2) có thể diễn dịch là: “Vua Quang Trung về cõi vĩnh hằng, tiểu thiên thế giới gió mây đều cảm động mà chuyển vần” (Vua Quang Trung qua đời, gió mây cũng cảm động, huống hố là con người!).
Vế này nói lên lòng thương tiếc của nhân dân ta đối với vua Quang Trung. Pho tượng và đôi vế đối đều được làm sau khi Quang Trung mất hơn 50 năm. Vì vậy, giải nghĩa vế (2) phải là lòng thương tiếc, ngưỡng vọng của nhân dân ta đối với Quang Trung mới chính xác. Như vậy, ta sẽ có đôi vế đối rất “chỉnh”, đối cả từ, đối cả ý.
Tương truyền câu đôi này do nhà thơ Cao Bá Quát làm giúp nhân dân thế thì cách giải thích trên lại càng hợp với văn phong của ông: nói thẳng mà kẻ thù không bắt bẻ được. Với quan quân nhà Nguyễn, cụm từ “Quang Trung hóa Phật” sẽ được giải thích là “giữa ánh sáng thành Phật” (Quang Trung còn là tên một vị bồ tát hóa Phật). Như vậy, quan quân nhà Nguyễn không có lý do gì để bắt bẻ.
Cao Bá Quát (1808 – 1855) đã từng mắng vua Tự Đức là khù khờ và khệnh khạng:
Khù khờ thi tứ đa nhân thức,
Khệnh khạng tương lai vấn tú tài.
(Tứ thơ khù khờ đã nhiều người biết, lại còn khệnh khạng mang đến hỏi tú tài. Khù khờ, khệnh khạng là những từ Nôm – xem Giai thoại văn học Việt Nam). Tự Đức tức tím ruột mà không làm gì được.
Trên đây là đôi điều giải thích sơ thiển của một kẻ hậu sinh, rất mong được các bậc túc nho phủ chính cho, ngõ hầu hiểu được đúng, chính xác ý tứ mà người xưa muốn gửi gắm lại cho hậu thế.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

LĂNG MỘ QUANG TRUNG Ở NGHỆ AN: MỘT HƯỚNG TÌM TÒI MỚI

       1- Phượng Hoàng Trung Đô, nguyện vọng tha thiết của Quang Trung. 
Quang Trung Nfuyeenx Huệ sinh ra, trưởng thành và xây dựng cơ  nghiệp từ đất Bình Định. Thế nhưng , quê gốc của ông lại ở Nghệ An. Tổ tiên ông vốn gốc họ Hồ ở Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu , sau đó dời về làng Thái Lão, Hưng Nguyên ,Nghệ An.  Xứ Nghệ, đó là mảnh đất thiêng liêng đối với Nguyễn Huệ. Trong cuộc đời cầm quân bách chiến, bách thắng của mình, có một điều Nguyễn Huệ luôn luôn tha thiết mà cho đến cuối đời vẫn chưa thực hiện được. Đó là việc thiên đô ra Nghệ An.
    Ngay từ khi chưa lên ngôi, mới được vua anh phong tước Bắc Bình Vương, Nguyễn Huệ đã có ý định chọn Nghệ An làm đất đóng đô. Trong tờ  chiếu đề ngày 1 tháng 6 năm Thái Đức thứ 11 ( tức năm 1788, cuối năm này, Nguyễn Huệ mới lên ngôi) gửi Nguyễn Thiếp, ông viết: “ Chiếu ban xuống cho Phu tử nên sớm cùng ông Trấn thủ Thận ( tức Trấn thủ Nghệ An Nguyễn Thận) tính toán mà làm việc xem đất đóng đô tại Phù Thạch. Hành cung thì ỏ phía sau, khá gần núi”. Bến đò Phù Thạch, dân gian gọi là bến đò chợ Tràng, gần núi Lam Thành. Nhưng Nguyễn Thiếp xem xét qua loa rồi trả lời : “ Chỗ đó chật hẹp, kề núi kề sông, bờ sông lại hay bị sạt lở” ( trích thư Nguyễn Thiếp). Sau khi nhận được thư trả lời của Nguyễn Thiếp, ngày 3 tháng 9, Nguyễn Huệ lại gửi chiếu cho Nguyễn Thiếp, có ý trách Nguyễn Thiếp không nhiệt tình trong việc được giao, “ Nếu bảo rằng những chỗ như Phượng Hoàng, Khánh Sơn không được đô hội thì sao chẳng tìm chỗ tốt khác cho thỏa ý quả cung cố trông mong”. Ông gợi ý: “ Nhớ buổi hồi loan kỳ trước, lúc qua Hoành Sơn, quả cung đã từng mở xem địa đồ, thấy ở huyện Chân Lộc, xã Yên Trường hình thế rộng rãi, khí tượng tươi sáng, có thể chọn để xây kinh đô mới. Thật là chỗ đất đẹp để đóng đô vậy”.
    Thật ra thì cả Nghệ An không phải không chọn được đất đóng đô. Nhưng vì Nguyễn Thiếp vốn trù trừ. Ông là cựu quan lại nhà Lê, không muốn đem  thân theo phò Tây Sơn ( Lúc này Quang Trung chưa đại phá quân Thanh) sợ mang tiếng với giới nhà Nho, lại không muốn Tây Sơn đóng đô trên quê hương mình (sợ dân phải phu phen tạp dịch nhiều mà oán trách lây đến ông). Vì vậy, ông chần chừ, lần lữa. Khi thì bảo không tìm được đất, lúc thì lại cáo ốm. Thư đi từ lại mãi cuối cùng Nguyễn Thiếp cũng nhận lời ra giúp Nguyễn Huệ. Vùng đất ông chọn đó nằm giữa núi Quyết ( tên chữ là Phượng Hoàng) và núi Mèo ( tên chữ là Kỳ Lân). Cũng vì Kinh đô nằm cạnh núi Phượng Hoàng, lại nằm vào khoảng giữa của Đất nước ( so với Thăng Long và Phú Xuân) nên Quang Trung gọi là Phượng Hoàng Trung Đô hay Trung Kinh Phượng Hoàng thành. Chính vì sự chần chừ, lần lữa của Nguyễn Thiếp và cái chết đột ngột của Quang Trung mà Phượng Hoàng Trung Đô chưa trở thành Kinh đô.  Đáng tiếc vậy thay !
    2-  Quy mô thành Phượng Hoàng Trung Đô:
    Sau khi chọn đươc đất, Quang Trung bèn sai thợ xây thành. Sách Hoàng Lê nhất thống chí viết : “ Vua Quang Trung cho rằng, Nghệ An ở vào chính giữa nước, đường sá từ Nam ra, từ Bắc vào vừa bằng nhau, quê Tổ tiên mình cũng ở đấy bèn sai trưng dụng thật nhiều thợ thuyền, chuyên chở thật nhiều gỗ đá, gạch ngói để xây dựng cung phủ, lâu đầi, đắp thành đất xung quanh và sai các quân lính đào đá ong ở địa phương để xây thành trong, dựng toà Lầu Rồng ba tầng cùng điện Thái Hoà, hai dãy hành lang để phòng dùng đến khi có triều hội. ( HLNTC, tr.378)
    Trong khoảng những năm 1940, học giả Hoàng Xuân Hãn đã từng đến khảo sát toà thành này và mô tả: “Ngày nay khoảng giữa núi Quyết và núi Mèo còn thấy dấu tích một toà thành cũ hình gần tam giac. Dấu thành và đường hào đang còn rõ. Cửa Tiền ở phía Nam. Núi Mèo (Kỳ Lân ) làm nền cho đồn gác, thành phía Nam chắp vào núi ấy. Mặt đông bắc lấy núi Quyết (Phượng Hoàng) làm thành . Địa thế thành rất dễ giữ. Phía trước có sông Cồn Mộc và sông Lam, phía bên có núi Quyết đều là hào và thành thiên nhiên. Ở giữa thành còn dấu thành trong và nền nhà. Nhất là có nền cao ba bậc ở phía Bắc mà ngày sau, đời Nguyễn dùng làm nền Xã Tắc, đó là chỗ Quang Trung ngự triều trong khi tạm nghỉ ở Nghệ An”  ( Trích La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, Tập 2, tr .1050). Quy mô thành không lớn, chưa xứng tầm với một kinh đô, như Hoàng Xuân Hãn đã nhận xét : “Thành Phượng Hoàng nhỏ, thành nam chỉ dài 300 mét, bức thành tây dài 450 mét, và các nền cao thì ngang dọc cũng chỉ chừng 20 mét mà thôi” ( Sđ d, tr. 1050)
    Khảo tả của Hoàng Xuân Hãn là tương đối chính xác nhưng chưa cụ thể. May thay, chúng ta còn được thấy bức ảnh hàng không (ảnh chụp từ trên máy bay- không ảnh) thành Phượng Hoàng Trung Đô chụp từ những năm 1930. Bức ảnh này được đưa vào tác phẩm An Tĩnh cổ lục ( Ảnh mang số hiệu XCIII) của Le Breton một học giả người Pháp. Trong cuốn sách trên, Le Breton gọi thành này là thành Rú Mèo và không nói rõ nguồn gốc. Nhờ bức ảnh này, chúng ta hình dung được cụ thể quy mô vị trí của thành Phượng Hoàng vì các bức  tường thành còn thể hiện rất rõ. Thành phía đông bắc chạy sát theo chân núi Quyết ( Phượng Hoàng) .Phía nam thành cắt ngang qua núi Mèo ( Kỳ Lân ) , có lẽ lợi dụng núi Mèo làm đồn gác, như Hoàng Xuân Hãn phỏng đoán, cũng có thể đặt cột cờ trên núi này (vì nó ở phía nam) . Thành phía tây cắt qua cánh đồng bằng phẳng, kẻ thành một đường thẳng tắp lên sát núi Mũi Rồng (một nhánh của núi Quyết) .Bên ngoài tường thành là hào. Hào phía tây và phía nam còn thể hiện rất rõ. Toà thành gần như hình tam giác .Đỉnh phía bắc có đền Rồng. Phía nam đền Rồng là thành nội . Giữa thành nội là nền của Lầu Rồng ba tầng (xem bản đồ). Khu vực này nay là Lâm viên núi Quyết, thuộc địa phận phường Trung Đô, thành phố Vinh.
    3- Giả thuyết lăng Quang Trung ở thành Phượng Hoàng
    Chúng ta biết rằng ,trước khi từ trần, Quang Trung có cho gọi Trần Quang Diệu, lúc này đang làm Trấn thủ Nghệ An về Phú Xuân để dặn dò: “Bọn ngươi nên giúp rập Thái tử sớm thiên đến Vĩnh Đô để khống chế thiên hạ. Không thế thì quân của Gia Định lại, bọn ngươi chết không có chỗ chôn đâu” (Theo Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, q 30). Điều đó nói lên sự bức xúc của Quang Trung đối với việc thiên đô. Trong hình dung của Quang Trung (trước khi mất) thì Phú Xuân sẽ là cựu đô, trong ngày một ngày hai, kinh đô mới sẽ là Trung Đô. Có lẽ nào Quang Trung không thấy trước, sau khi cả triều đình thiên đô ra Nghệ An sẽ để lại ngôi lăng của mình trơ trọi ở Phú Xuân không người chăm sóc? Có lẽ nào trong khi căn dặn về việc thiên đô, Quang Trung lại không căn dặn luôn cả địa điểm đặt lăng của mình (Quang Trung là người quyết đoán, ngay cả việc chọn đất đóng đô, ông cũng chỉ ra mấy địa điểm cho Nguyễn Thiếp chọn, như ta đã biết) .Vì đây là chuyện cơ mật nên chỉ một số rất ít người được biết. Chúng ta lâu nay cứ cả tin vào mấy dòng ghi chép rất chung chung (vì không biết cụ thể) về việc an táng Quang Trung của các sử gia nhà Nguyễn: “táng ở phía nam sông Hương” rồi chỉ đi tìm theo hướng đó. Những giả thuyết về cung điện Đan Dương của Nguyễn Đắc Xuân, lăng Ba Vành của Trần Viết Điền, rồi núi Kim Phụng, núi Ngọc Trản, . . .nhưng xem ra tất cả đều chưa đủ sức thuyết phục . Có một điều hết sức vô lý là, một ngôi lăng đồ sộ như thế ở kinh đô Phú Xuân, tồn tại ngót 10 năm trời mới bị phá (1792- 1801) có lẽ nào không hề để lại một chút ký ức gì trong nhân dân địa phương ở nơi gần lăng? Vì vậy đặt vấn đề nghi vấn lăng Quang Trung không ở Phú Xuân và chưa bị quật phá không phải là không có cơ sở. Gần đây có tác giả nêu giả thuyết là lăng Quang Trung ở Bình Thuận. Giả thuyết này khó có thể chấp nhận. Vì trước khi Quang Trung mất, vùng Bình Khang, Bình Thuận đang là đất tranh chấp, đến khi Quang Trung mất thì đã về tay Gia Long rồi, làm sao có thể táng Quang Trung ở đó được? Vả lại từ Phú Xuân vào Bình Thuận phải qua Quy Nhơn, vùng đất của Thái Đức Hoàng Đế cai quản. Mà lúc này triều đình Quang Toản và triều đình Nguyễn Nhạc đang mâu thuẫn làm sao mà đi qua đó được (Nguyễn Nhạc ra Phú Xuân dự đám tang Quang Trung và bị chặn lại ở địa đầu Quảng Ngãi) .Như vậy thì với tấm lòng hướng về cội nguồn gốc tổ, có khả năng trước khi mất, Quang Trung đã di chúc lại cho Trần Quang Diệu và các cận thần về việc đưa thi hài của mình về Nghệ An mà cụ thể là gần Phượng Hoàng Trung Đô, kinh đô mới mà ông đã chọn và lúc nào cũng tha thiết được chuyển đô về đó.
    Gần đây ,một số nhà ngoại cảm khẳng định thi hài Quang Trung ở dưới một hang sâu ở núi Mũi Rồng. Thậm chí có nhà ngoại cảm còn nhìn thấy “vua đang nằm giữa một cung điện dưới độ sâu 17,2 mét  (Theo báo Đờì sống &Pháp luật) ! Ý kiến của các nhà ngoại cảm không thể lấy làm căn cứ nhưng cũng có tính chất gợi ý, gợi mở, tạo cảm hứng cho những hướng tìm tòi nghiên cứu sau này. Hang đá ở Mũi Rồng có liên quan gì đến đền Rồng và đền Rồng có liên quan gì đến Lầu Rồng ba tầng của Phượng Hoàng Trung Đô xưa,  những câu hỏi đang rất cần lời giải. Và, còn một điều này nữa: Liệu những di tích về Quang Trung ở Phượng Hoàng Trung Đô có liên quan gì đến bốn cặp câu đối khóc vua Quang Trung mà cách đây 12 năm , vào năm 1998, người ta đã phát hiện được ở Nghệ An. Bốn cặp câu đối rất xúc động, nói lên lòng đau đớn tiếc thương và tự hào cảm phục đối với Quang Trung. Xin trích ghi lại 2 câu (Nguyên văn chữ Hán, xin được dịch nghĩa) :
   – Vâng mệnh trời, giúp nước Việt da vàng, công tích chói ngời, sấm giăng chớp giật, trong giờ phút mong manh thấy rõ uy lực của đấng anh hùng ,
     Nương mây trắng đến chốn quê vua, trong chơi vơi, từ ngõ hẻm đến hang cùng , không hề kêu gọi mà ai nấy đều mến mộ.
    – Quá đỗi rối ren! Công cuộc phòng vệ đất nước mới vừa xong ,thì bỗng chốc vị thần đã về cõi mặt trời mặt trăng, ánh sáng gom tụ nơi đền đài, từ bấy giấc mộng ngàn năm quanh quẩn đâu đây,
    Chao ôi buồn thảm! Cái râu rồng không bao giờ quay lại, tuy vậy ơn cứu vớt sinh linh còn đó , mưu đồ xây dựng lại đất nước thịnh trị lâu dài thì không thể nữa rồi .
   ( Trích văn bản chữ Hán Tây triều Quang Trung quân án giá do Nguyễn Nhân Lục phát hiện, Vũ Ngọc Liễn dịch ).Nếu không ở nơi có lăng mộ đền đài Quang Trung  sao có những câu đối cảm động như thế.
    Muốn trả lời được những điều nghi vấn đó, cần phải đầu tư nghiên cứu khảo sát công phu. Và Nghệ An, Phượng Hoàng Trung Đô hứa hẹn sẽ đem lại nhiều điều mới mẻ , hấp dẫn . / .

 

*












LĂNG MỘ QUANG TRUNG : GIẢ THUYẾT VÀ PHẢN BIỆN

Lăng mộ Quang Trung bị vua quan nhà Nguyễn quật phá vào tháng 11 Tân Dậu (1801), 6 tháng sau khi Nguyễn Anh lấy lại được Phú Xuân. Từ đó , lăng mộ của ông ở đâu, không một ai biết. Việc tìm lại được địa điểm  lăng mộ của Quang Trung là sự quan tâm trăn trở của nhiều thế hệ các  nhà nghiên cứu. Có người đã bỏ ra 15- 20 năm, thậm chí có người đã bỏ ra cả đời để theo đuổi một giả thuyết về lăng mộ Quang Trung, nhưng kết quả thì còn rất hạn chế.  Theo thời gian, đã có nhiều giả thuyết được đặt ra , làm cơ sở cho việc tìm kiếm lăng mộ Quang Trung : lăng Ba Vành ở làng Cư Chánh  giả thuyết của  L.Cadiere  và Nguyễn Thiêụ  Lâu từ những năm 30 , 40 của thế kỷ trước ; cung điện Đan Dương, giả thuyết của Nguyễn Đắc Xuân từ những năm 1980 ; núi Ngọc Trản ( Hòn Chén) , theo một bài thơ của Ngô Thì Hoàng ; Khuân Sơn , theo một bài thơ của Lê Triệu , mới được phát hiện gần đây v.v. . .O đây chúng tôi chỉ phân tích về những giả thuyết được đầu tư nghiên cứư công phu nhất . 

1. Giả  thuyết lăng Ba Vành của L.Cadiere- Nguyễn Thiệu Lâu- Trần Viết Điền : 
Lăng có  ba vòng thành hình bầu dục lồng vào nhau , bao bọc lấy phần mộ, vì vậy dân gian gọi là lăng Ba Vành , thuộc địa phận làng Cư Chánh xã Thuỷ  Bằng trên đồi Thiên An ngoại thành Huế . Sở  dĩ lăng Ba Vành được người ta cho là lăng Quang Trung vì quy mô kiến trúc của lăng khá lớn . Các vòng thành  có hình bầu dục , vòng thành ngoài cùng có kích thước : trục nhỏ 40 m , trục lớn  đến 60m .  
Xưa nay , lăng mộ  của các quan lại trong triều dù là  quan nhất phẩm cũng không lớn như thế . Lăng kiến trúc theo kiểu thời Tây Sơn , các vật liệu được cho là từ thời Tây Sơn . Tuy nhiên , sau đó người ta tìm ra rằng , đây là lăng mộ của  Hộ bộ kiêm Binh bộ Thượng thư Lê Quang Đại , một ông quan thời các chúa Nguyễn , mất vào năm 1746 ( trước khi Quang Trung mất tới 46 năm ! ) . Sự việc tưởng chừng như dừng lại ở đây . Tuy nhiên vẫn có những người kiên trì theo đuổi giả thuyết này đến cùng .  Tiêu biểu trong số những người này là ông Trần Viết Điền, một nhà nghiên cứu Huế .Ông Điền đã kế thừa những kết quả của L. Cadiere  , Nguyễn Thiệu Lâu trước đây . Và trong hơn 20 năm , từ 1986 tới nay , ông đã có những bước tiến mới trong việc khẳng định lăng Ba Vành là lăng mộ Quang Trung. Luận chứng của Trần Viết Điền có thể tóm tắt trong 5 điểm :
1 – Lăng Ba Vành không phải là lăng Lê Quang Đại . Mộ Lê Quang Đại nằm trong khuôn viên miếu Khai canh làng Xuân Hoà chứ không phải ở lăng  Ba Vành .
2 – Toà  Khâm sứ Pháp đã làm giả hồ sơ để hợp thức hoá chủ nhân của lăng Ba Vành là  Lê Quang Đại . 
3-  Kiểu thức , mô típ trang trí , quy mô kiến trúc của lăng Ba Vành đủ để kết  luận là lăng mộ của một nhà vua  . Chứ một vị quan lại ( dù là nhất phẩm) cũng không thể có quy mô, kiểu thức như thế .

4 -Vật liệu xây dựng lăng giống như ở Giao Đàn – Văn Miếu và một số công trình kiến trúc thời Tây Sơn ở Huế . 
5- Gia Long sau khi đã đào lấy hài cốt vua Quang Trung để  “trừng trị” , đã không san thành bình địa lăng này  để lấy làm bằng chứng tố cáo về “ tội”  của Tây Sơn. 
Chúng tôi không có tham vọng góp ý về tất cả  các điểm trong luận chứng của  Trần Viết Điền , chỉ xin góp mấy ý kiến nhỏ : Đầu tiên trong luận điểm điểm thứ 2, ông cho rằng : Toà Khâm sứ Pháp đã làm giả hồ sơ để hợp thức hoá chủ nhân của lăng Ba Vành là Lê Quang Đại . Y kiến đó rất khó thuyết phục. Vì động cơ gì mà nhà cầm quyền Pháp lại làm như thế , họ có liên quan gì ở đây ? Mặt khác, trong một kết quả sưu tầm trước đây của L.Ca diere , đã từng công bố một đoạn trong gia phả họ Lê ghi về Lê Quang Đại : “ Đời thứ 3. Con của Tham nghị, Chánh dinh Hộ bộ kiêm Binh bộ tặng Tá lý công thần đặc tấn Trụ quốc Kim tử Vinh lộc Đại phu Chánh trị Thượng khanh ý Đức hầu Lê quý công , mộ gọi là Ba Vành ở làng Cư Chánh “ ( Trích bài của Bửu Kế- được dẫn lại trong Nguyễn Huệ- Phú Xuân , NXB Thuận Hoá 1986) . Dù sao thì gia phả họ Lê ghi chép về Lê Quang Đại  cũng đáng tin cậy hơn  so với  gia phả họ Nguyễn của Nguyễn Cư Trinh , con rể của Lê Quang Đại mà ông Điền đã trích dẫn có ghi rằng :  mộ Lê Quang Đại trong khuôn viên miếu Khai canh làng Xuân Hoà . 
Về điểm thứ 3 của luận chứng , kiểu thức ,mô típ trang trí , quy mô kiến trúc của lăng đủ điều kiện để kết luận đây là lăng của một vị vua . Điều này chúng tôi vẫn thấy chưa đủ . Từ các dẫn  chứng của  L.Cadiere – Nguyễn Thiệu Lâu  trước đây cho đến Trần Viết Điền  hiện nay , chúng ta thấy các ông vẫn chưa làm rõ quy mô, kiểu thức của một lăng vua . Điều kiện cần và đủ của một lăng vua là phải có lăng ( mộ) và tẩm ( thờ) . Lăng vua không  thể chỉ có một ngôi mộ độc lập dù ngôi mộ đó có quy mô to lớn . Để tạo thành một ngôi lăng vua phải có hệ thống lầu ,các, miếu thờ , làm  nơi bày các đồ thờ cúng nhà vua , các đồ đạc nhà vua thường dùng lúc sinh thời ( ý nghĩa như một nhà lưu niệm ) . Đó là những công trình cần phải có, để cho các quan lại tổ chức nghi lễ thờ cúng vua vào những ngày “huý nhật”,kể cả  nhà  ở cho những người trông nom . Những công trình đó , đến nay không thể còn , nhưng nếu có thì phải còn dấu tích nền móng . Trong các công trình nghiên cứu về lăng Ba Vành , chúng ta chưa thấy một  ai  đề cập đến vấn đề này . Mà nếu không có thì không thể kết luận đây là lăng vua được . Trong công trình của ông Trần Viết Điền , có nhắc đến một căn hầm có nắp đậy là môt phiến đá , nằm giữa vòng thành thứ hai và thứ ba ,và ông  cho rằng đây là nơi chứa các đồ thờ và đồ tuỳ thân của chủ nhân ngôi lăng, là không có lý. Đồ thờ và đồ tuỳ thân của vua phải được để ( trưng bày) trong  miếu thờ , tẩm thờ , chứ sao lại có thể để trong hầm ở dưới đất, chẳng mấy chốc mà hỏng vì ẩm ướt .Trong luận điểm của ông Trần Viết Điền có nhắc tới  một cái hồ bán nguyệt (Tân nguyệt trì) và ông cho rằng chiếc hồ này có hình chữ nguyệt  (  ),kết hợp với bữu thành hình chữ nhật (  ), để tạo thành chữ minh   (  ),ý nói người nằm trong lăng là một minh quân, đây chỉ là một tưởng tượng đi quá xa thực tế và không có cơ sở . 
Tóm lại , những luận chứng của ông Trần Viết Điền  để chứng minh rằng lăng Ba Vành chính là lăng vua Quang Trung là chưa đủ sức thuyết phục . Dù sao chúng ta cũng rất trân trọng công phu của ông ( và  cả nhóm của ông) đã bỏ ra trong 20 năm nay , kiên trì , bền  bỉ theo  đuổi giả thuyết  này . Chúng ta mong chờ ở luận thuyết của ông những phát hiện mới , với những chứng lý có sức thuyết phục hơn .  
2-  Giả thuyết về lăng Đan Dương của Nguyễn Đắc Xuân : 
Cách làm việc của ông Nguyễn Đắc Xuân có phần khoa học hơn . Trước hết ông tìm trong thư tịch của những người cùng thời có ghi về lăng Quang Trung. Và ông đã tìm ra những đoạn ghi chép đăc biệt của Ngô Thì Nhậm , Phan Huy Ich là các đại thần của Quang Trung . Trong văn thơ của Ngô Thì Nhậm , ông Xuân đã tìm được một dòng quan trọng ghi: “ Cung địen Đan Dương là Sơn lăng phụng chứa bảo y Tiên hoàng ta” , và trong văn thơ Phan Huy Ich , ông cũng  tìm thấy một lời chú rằng : Phan Huy Ich trong những lúc đến chờ để được vào gặp Bùi Đắc Tuyên, “ Lúc bấy giờ bọn tiểu giám giữ Lăng thường đến hầu rượu”. Chúng ta biết rằng, dinh Bùi Đắc Tuyên đóng ở chùa Thiền Lâm ( ông Bùi lấy chùa làm dinh ở). Và như vậy thì lăng Quang Trung tức  Đan Dương lăng phải ở gần chùa Thiền Lâm. Nguyễn Đắc Xuân qua tìm tòi trong thư tịch đã chứng minh được rằng chùa Thiền Lâm và Cung điện Đan Dương lúc bấy giờ ở gần  nhau , và toạ lạc vào phạm vi khu vực gò Bình An( khu vực có đường Điện Biên Phủ cắt qua ngày nay).  
Qua tìm hiểu, nghiên cứu và cả khai quật thực địa , nhóm Nguyễn Đắc Xuân đã xác định được vị trí Huyền cung ( nơi đặt quan tài) của vua Quang Trung toạ lạc ở khu vực nay là nhà ở của căn hộ ông Nguyễn Hữu Oánh, bà Nguyễn Thị Liên, có địa chỉ cụ thể 63/ 13/ 12A Điện Biên Phủ (Theo  kết quả khai quật thám sat ngày 17.12.1988 ). Phát hiện của Nguyễn Đắc Xuân đã gây bất ngờ lớn trong dư luận những năm 1980 -1990 .Những luận chứng của Nguyễn Đắc Xuân và quá trình tìm tòi của nhóm ông đã được ghi lại trong cuốn Đi tìm lăng mộ vua Quang Trung (Viện Sử học  ,1992 ) .Mới đây ,ông lại cho xuất bản cuốn: Đi tìm dấu tích cung điện Đan Dương-Sơn lăng của Hoàng đế Quang Trung (NXB Thuận Hoá , Huế 2007 ) , với nội dung phong phú hơn . Nhiều người đã tưởng rằng, chúng ta đã tìm được địa điểm lăng mộ Quang Trung , trả lời được câu hỏi bức xúc của giới nghiên cứu đặt ra từ hàng trăm năm nay. Tuy nhiên , càng nghiên cứu kỹ thì chúng ta càng thấy , dường như không phải , lăng Quang Trung không thể ở đây . 
Đã là lăng mộ (nhất lại là lăng mộ nhà vua) thì càng phải ở nơi tôn nghiêm , tĩnh lặng .Việc phát hiện ra ở khu vực này có nhiều “mả loạn”, “giếng loạn”, chứng tỏ rằng từ trước ở đây đã có rất nhiều người sinh sống. (một cái  giếng có thể cung cấp nước ăn uống, sinh hoạt cho vài ba hộ). Từ “loạn” có thể liên quan đến một giai đoạn xã hội có nhiều biến động, không ổn định . Ông Nguyễn Đắc Xuân cho rằng, đó là chỉ vào thời kỳ Tây Sơn. Chúng ta tạm đồng tình như thế (thực ra thì từ loạn liên quan đến một cuộc nổi dậy thì chính xác hơn). Nhưng, là lăng mộ của nhà vua thì người ta không bao giờ chọn ở một khu vực đông dân cư. Còn  nếu trước đây đã có một ít dân cư thì trước khi đặt lăng mộ, số dân cư này cũng phải di dời đi nơi khác. Các công trình phục vụ dân sinh (nếu có , như giếng nước chẳng hạn) cũng phải san phẳng đi, để theo quy hoạch của một lăng mộ. Vậy nhưng , ở đây, ngay sau nhà ông Oánh, được cho là nơi đặt Huyền cung của Quang Trung , gần đây vẫn còn một “ giếng  loạn” . Giếng  đóng vai trò gì ở khu vực gần Huyền cung ?  Mặt khác , trong khu vực này có rất nhiều “ mả loạn”, thậm chí , có người khi làm  nhà , còn phát hiện được 27 bộ hài cốt xếp chồng lên nhau . Từ thực tế ấy, chúng tôi cho rằng , ở khu vực này trước đây từng có một đơn vị quân nổi dậy đồn trú và sau đó đã bị tiêu diệt .Vì vậy mà ở đây mới gặp nhiều hài cốt , được gọi là “mả loạn” như thế,có nhiều hài cốt được táng tập thể như thế. Còn có phải là quân Tây Sơn như Nguyễn Đắc Xuân phỏng đoán hay không thì không có căn cứ khẳng định . Mà dù những “mả loan” này là của quân Tây Sơn thì cũng không thể dựa vào đó mà kết luận ở đây có lăng Quang Trung.  
Việc  ở đây có nhiều hòn đá tảng ( kích thước 0,45x 0,45 , đá kê chân cột) nhiều đống vôi vữa cũ vun  ở bờ rào phía sau chùa Vạn Phúc, chứng tỏ khu vực này trước đây từng có công trình kiến trúc (cung điện , đền chùa). Điều đó cũng không lấy gì làm căn cứ để chứng minh rằng trước đây đã từng là lăng Quang Trung  
Điều làm cho ông Nguyễn Đắc Xuân (và nhóm nghiên cứu của ông) tin nhất, đó là bốn tấm  đá lớn và một đường hầm phía trước nhà ông Oánh .Vào năm 1925, bố  ông Oánh trong  khi làm nhà có đào được 4  tấm  đá có kích thước 2,7x 0,67 m dày 3,5 cm ; được ông Xuân cho là 4  tấm  đá bọc quan tài. Nhưng, nếu dùng để bọc quan tài thì chiều dài các  tấm  đá đó chỉ 2,1-2,3m chứ cần gì phải đến 2,7m , thừa ra như thế để làm gì ? Và nếu đá bọc quan tài, sao không có hai tấm đá vuông ở hai đầu .Bởi vì , so với các  tấm  đá dài 2,7m thì hai  tấm  đá vuông có kích thước khoảng 0,7x 0,7m  (để phù hợp với chiều rộng của 4 tấm dài ) sẽ rất tiện sử dụng ( ví dụ làm mặt bàn  ăn gia đình chẳng hạn ). Nếu có hai  tấm  đá vuông đó thì người ta sẽ sử dụng , và sẽ còn lại đến ngày nay. Mà dù có đem cho ai , tặng ai, người ta vẫn còn nhớ (như đối với trường hợp với 4  tấm  đá dài đã nói ở trên). Mặt khác , nếu dùng để bọc quan tài thì các  tấm  đá đó phải có “ lỗ”hay “ mộng” để lắp ghép với nhau và lắp ghép với  tấm  đá vuông , chứ không thể là  tấm  đá bình thường  như mặt phản được .  
Đối với đường hầm mà ông Nguyễn Đắc Xuân cho rằng đây là “ Huyền cung” (nơi đặt quan tài) của vua Quang Trung cũng không có căn cứ . Trong khi các  tấm  đá được cho là dùng để bọc quan tài chỉ có độ dài là 2,7m , vậy mà cái đường hầm này  đào theo chiều dọc  đến trên 3m , vẫn chưa thấy đầu và cuối. Sao kích thước “ Huyền cung” lại không phù hợp với độ dài của  tấm đá bọc quan tài?  
Tóm lại , việc chứng minh ở đây có nhiều “  giếng loạn”,“ mả loạn” thì cũng không thể chứng minh rằng, lăng Quang Trung đã từng ở nơi này. Tất nhiên, trong việc đề ra  các giả thuyết  khoa học, cần phải  có đầu óc tưởng tượng. Nhưng những tưởng tượng này là quá xa thực tế . 
Mặt khác ,khu vực gò Bình An, nơi Nguyễn Đắc Xuân cho rằng có lăng mộ của Quang Trung nằm rất gần trung tâm Kinh đô Phú Xuân (gần như đối diện qua sông Hương). Tháng 5 Tân Dậu (1801) sau khi chiếm được Phú Xuân, lăng Quang Trung (nếu ở gò Bình An) sẽ như một cái gai chọc vào mắt Gia Long. Có lẽ nào Gia Long lại để cho  “cái gai” đó tồn tại đến 6 tháng trời, ngày ngày chọc vào mắt mình ? Chúng tôi cho rằng, lăng Quang Trung phải ở một địa điểm nào đó ,ở ngoại vi thành phố Huế, một vị trí khuất nẻo, nằm trong vùng tranh chấp giữa quân Tây Sơn và quân Nguyễn. Mãi đến tháng 11 Tân Dậu (1801), sau khi bình định được toàn bộ vùng ngoại vi Kinh thành, Gia Long mới có điều kiện quật phá lăng mộ Quang Trung. Cùng với việc quật phá lăng mộ Quang Trung, Gia Long còn ra  thông cáo cho thiên hạ biết về việc khôi phục lại Kinh đô cũ (Đại Nam thực lục chính biên -Nxb Giáo dục .2004 – Tập 1 .Trang 473 ).Như vậy ta có thể thấy, việc chiếm được Kinh đô Phú Xuân vào ngày 3-5 Tân Dậu ,nhưng việc bình định được toàn bộ Kinh thành, kể cả vùng ngoại vi phải 6 tháng sau đó (tức tháng 11 Tân Dậu). Với suy luận trên ,chúng ta có thể ước đoán,  lăng Quang Trung phải ở ngoại vi phía Nam Kinh thành và cách trung tâm Kinh đô khoảng từ 10 -20 km; không loại trừ khả năng có thể ở khu vực núi Kim Phụng (nơi có lăng mộ Phạm Hoàng hậu ,mât trước Quang Trung 1 năm ) hay khu vực đồi Thiên An, nơi có lăng Ba Vành, nằm trong vành đai đó  hay là núi Ngọc Trản (Hòn Chén), như trong bài thơ của Ngô Thì Hoàng . . . 
Giả  thuyết về lăng mộ  Quang Trung ở Bình Thuận 
Gần  đây trên báo Bình Định điện tử có bài viết : “Người 16 năm theo đuổi một giả thuyết” (Cập nhật ngày 18-2-2008 ) cho biết ,có cô giáo tên là Võ Thị Minh Liêm suốt 16 năm trời tìm tòi tư liệu khảo sát thực địa để chứng minh rằng lăng mộ Quang Trung ở vùng Hàm Thuận Bắc (Bình Thuận). Theo giả thuyết của Minh Liêm thì ,sau khi Quang Trung mất, Hoàng hậu Ngọc Hân đã bàn bạc với các tướng thân cận đưa di hài chồng mình vào chôn ở Bình Thuận nhằm tránh việc triều Nguyễn trả thù . Giả thuyết này rât khó có thể chấp nhận . Bởi vì trước khi Quang Trung mất ,cả vùng Bình Khang, Bình Thuận đã thuộc về nhà Nguyễn .Đại Nam liệt truyện  (q. 30 ) viết : “ Từ đấy bệnh chuyển nặng lên ,bèn triệu Trấn thủ Nghệ An là Nguyễn Quang Diệu  để bàn việc dời kinh đô đến Nghệ An .Việc bàn ấy chưa nhất định thì khi ấy Thế tổ ta (tức Nguyễn ánh ) đã lấy được Gia Định ,thu phục lại Bình Khang, Bình Thuận, Diên Khánh ,thanh thế lừng lẫy lên . Huệ nghe thấy lo buồn ,bệnh càng nặng thêm . . .Ngày 29-9, Huệ chết ”. Mặt khác, khi Quang Trung mất (1792) Đường thuỷ ,đường bộ từ Phú Xuân vào Bình Thuận đều trắc trở .Đất Quy Nhơn – Bình Định thuộc phạm vi kiểm soát của Nguyễn Nhạc. Triều đình Nguyễn Nhạc và triều đình Quang Toản bất hoà. Nguyễn Nhạc muốn ra Phú Xuân viếng tang, mới đi đến Quảng Ngãi  đã bị quân của Quang Toản chặn lại ,vậy thì quan tài Quang Trung làm sao có thể đi qua Quy Nhơn ? Đường thuỷ thì cửa biển Thị Nại đang bị Nguyễn ánh chiếm đóng , phong toả .Xem như thế thì việc đem thi hài vua Quang Trung vào chôn ở Bình Thuận là không thể có được .Không ai dại dột đưa thi hài vị Hoàng đế của mình vào chôn ở vùng đất đang tranh chấp , huống chi đây đã là đất của kẻ thù . Giả thuyết lăng mộ Quang Trung ở Bình Thuận là không có cơ sở . 
3-  Tạm kết 
Qua những giả thuyết được dư luận quan tâm , được nghiên cứư công phu nhất, chúng ta thấy rằng vẫn chưa  đủ thuyết phục  để chứng minh rằng , đây là  địa điểm lăng vua Quang Trung, chứ không phải  ở nơi nào khác . Đối với các công trình nghiên cứu khoa học , chúng ta cần phải hết sức khách quan . Chúng ta rất cảm phục tinh thần tìm tòi nghiên cứu của các tác gỉa và các nhóm nghiên cứu, nhưng không thể lấy tình cảm mà thay cho căn cứ khoa học được . Chúng tôi viết bài này không có ý  “dội gáo nước lạnh” vào nhiệt tình của các  nhóm tác giả, mà chỉ góp một cái nhìn phản biện, mong rằng các công trình được hoàn thiện hơn , có những chứng lý thuyết phục hơn . Và cũng mong rằng, sẽ được đọc những công trình khác , được thấy những hướng đi khác trên con đường tìm kiếm lăng mộ Quang Trung.

       



      MỤC LỤC
-         Giải mã cuộc hành binh thần tốc của Quang Trung
-         Trận đánh đồn Ngọc Hồi, Quang Trung dùng bó rơm hay tấm ván
-         Bí ẩn sự kiện Quang Trung giả thời Tây Sơn
-         Kỳ công ngoại giao sau đại thắng mùa Xuân Kỷ Dậu
-         Phong cách xử sự đời thường của Quang Trung
-         Phượng Hoàng Trung đô và khát vọng dang dở của Quang Trung
-         Đi tìm vóc dáng ngoại hình vua Quang Trung
-         Số phận bi thương của Ngọc Hân Công chúa
-         Bùi Thị Xuân, cuộc đời oai hùng và bi thảm
-         Giải mã khúc ngoặt quan trọng trong cuộc đời danh tướng Ngô Văn Sở
-         Giải mã bí ẩn cuộc đời của danh tướng Phan Văn Lân
-         Giải mã bí ẩn cuộc đời danh tướng Vũ Văn Dũng
-         Có hay không Đại Đô đốc Bùi Hữu Hiếu
-         Bí ẩn về cái chết của Hoàng Đế Quang Trung
-         Thử giải nghĩa đôi vế đối Chùa Bộc
-         Lăng mộ Quang Trung, giả thuyết và phản biện
-         Lăng mộ Quang Trung ở Nghệ An, một hướng tìm tòi mới






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét