PHAN DUY KHA
BƯỚC ĐẦU GIẢI MÃ NHỮNG BÍ ẨN
CỦA TRIỀU ĐẠI TÂY SƠN
PHAN DUY KHA
* CÁC TÁC PHẨM:
- Nhìn lại lịch sử (In chung ba tác
giả, Nxb Văn hóa – Thông tin, 2003)
- Lịch sử và sự Ngộ nhận (Nxb Từ
điển Bách khoa, 2008)
- Nhìn về thời đại Hùng Vương (Nxb
Lao động, 2009)
- Trải nghiệm đời người (Nxb Lao
động, 2009)
- Từ điện Kính Thiên triều Lê đến
Tổng Hành dinh thời đại Hồ Chí Minh (Nxb Dân trí, 2010)
* SÁCH IN CHUNG:
- Hoàng Sa - Trường Sa, máu thịt
Việt Nam
(Nxb Thông tin và Truyền thông, 2014)
- Hiền tài đất Việt (Nxb Lao động,
2005)
- Lễ Nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ và
thảm án Lệ Chi Viên (Nxb Văn hóa- Thông tin, 2004)
- Họ Phùng Việt Nam (Nxb Lao
động, 2011)
- Thế giới trong ta, những bài hay
nhất (Nxb Văn hóa- Thông tin, 2004)
- Danh nhân Phan Kính (Nxb Khoa học
Xã hội, 1999)
- Họ Phan trong cộng đồng dân tộc
Việt Nam
(Nxb Văn hóa – Thông tin, 1997)
- Cội nguồn 6 (Nxb Văn hóa- Thông
tin, 2004)
* CÁC TRANG MẠNG:
1. phanduykha.wordpess.com
2. phanduykha.blogspot.com
GIẢI MÃ BÍ ẨN CUỘC HÀNH BINH THẦN
TỐC CỦA QUANG TRUNG
Theo Lê Triều dã sử thì khi tiến quân ra Thăng Long đánh quân Thanh,
vua Quang Trung đã bày cho quân lính cứ ba người một tốp, thay phiên võng
(cáng) nhau đi, thành ra quân trẩy liên miên không phải dừng mà ai nấy đều được
nghỉ, do đó quân Tây Sơn hành quân cực kỳ thần tốc.
Nhiều người tin rằng đã có một cách hành binh đặc biệt
như thế thật. Tức là cứ hai người võng (cáng) một người, thay phiên nhau mà đi,
nên suốt dọc đường ra Bắc lúc nào cũng hành quân liên tục và lúc nào cũng có
người được nằm võng nghỉ cho lại sức.
Nhưng cũng có nhiều người tỏ ra nghi
ngờ cách hành binh này. Bởi vì mỗi người lính ra trận, ngoài binh khí bắt buộc
phải mang theo (giáo mác, hỏa hổ…), người lính còn phải
mang áo quần, tư trang, gạo nước (gọi chung là quân trang, quân dụng, quân
lương) cho nên trên vai mỗi người ít nhất cũng phải 20-30 kg. Rồi lại còn phải
trèo đèo lội suối nữa, vậy thì còn sức đâu mà cáng người. Không khéo vì phải
cáng nhau mà làm chậm tốc độ hành quân, chứ nhanh hơn làm sao được. Mà người
nằm trên cáng cũng chẳng cảm thấy thoải mái gì, thà đi bộ còn dễ chịu hơn?
Trong tác phẩm nghiên cứu “Tìm hiểu
thiên tài quân sự Nguyễn Huệ”, các tác giả Nguyễn Lương Bích -Phạm Ngọc Phụng
đã phân tích rất có lý: “Có tài liệu như Lê
Triều dã sử nói rằng, trong cuộc
tiến quân từ Phú Xuân ra Bắc lần này, để hành binh nhanh chóng, Nguyễn Huệ đã
cho quân dùng cáng, ba người một tốp thay phiên cáng nhau, khiến mọi người đều
đi nhanh mà không bị mỏi”. Sự việc này không chắc có thật. Bởi vì cáng nhau mà
đi thì không thể đi nhanh được bằng đi bộ rảo cẳng, càng không thể đi nhanh đều
đặn trong thời gian nhiều ngày liền. Cho
nên, chúng tôi cho rằng việc cáng nhau mà đi chỉ là câu chuyện người đời sau
viết sách tưởng tượng ra để giải thích tốc độ hành quân mau lẹ của quân Tây
Sơn. Hoặc giả có những bộ phận quân đội dùng cáng chuyên chở quân trang, quân
dụng, quân lương... để đem đi được nhiều nên nhân dân trông thấy, tưởng đoàn
quân cáng nhau để hành quân nhanh. (Tìm hiểu thiên tài quân sự Nguyễn Huệ, Nxb Quân đội Nhân dân, 2003, tr 246-247). Xin
ghi thêm để bạn đọc tham khảo.
Quê tôi ở xứ Nghệ, nằm trên trục
đường Thiên lý Bắc - Nam
xưa. Thuở còn ấu thơ, tôi đã từng nghe các bậc già cả trong làng truyền ngôn lại
câu chuyện về cuộc hành binh thần tốc kỳ lạ của vua Quang Trung:
Quân dung đâu mới lạ nhường
Mũ mao, áo đỏ, chật đường tiến ra .
Sở dĩ quân lính của Quang Trung được
trang bị mũ lông (mũ mao) vì lúc này đang là mùa đông tháng chạp, trời rất rét
(1).
Đó là cuộc hành binh có một không hai với hàng vạn
người, quân đi điệp điệp trùng trùng như sóng. Có nhiều voi, ngựa, và đặc biệt
là có nhiều chiếc cáng. Nói là cáng, nhưng thật ra không hẳn là cáng. Phải gọi
là những chiếc thuyền nan thì đúng hơn. Hình dạng của nó thuôn nhỏ như chiếc
thuyền câu của đồng bào vùng trũng Bắc bộ. Những chiếc thuyền nan này được đan
bằng tre, chiều dài khoảng 6 thước (2,4m), rộng khoảng 2 thước (0,8m). Đan
xong, người ta lấy vỏ một loại cây có nhựa, cùng với sợi dây tơ hồng (một loại dây leo), giã nhỏ, trộn
với phân trâu, bò thành một chất kết dính, trát kín thuyền rồi đem phơi khô
(danh từ trong nghề gọi là “xảm”. Cứ ba người lính lập thành một tổ (như tổ tam tam sau này) và được trang bị một
chiếc thuyền. Chiếc thuyền này được coi như chiến cụ của cả tổ, các thành viên
trong tổ có nhiệm vụ mang vác, bảo quản, vận chuyển suốt dọc đường hành quân.
Để được thuận lợi, người ta buộc một chiếc đòn tre dài dọc theo thuyền. Bình
thường hai người khiêng hai đầu đòn tre như khiêng cáng, trên thuyền là vũ khí
cá nhân, dụng cụ, tư trang, gạo nước… của cả tổ. Người dân từ xa nhìn vào tưởng là cáng người.
Thật ra thì cũng có khi cáng người, nhưng rất ít. Đó là những trường hợp có
người nào ốm yếu, mệt mỏi, bị thương,
thì có thể nằm lên cáng, để hai người khiêng đi. Tuy nhiên trường hợp này không
nhiều. Ai cũng cố gắng không muốn để đồng đội phải khiêng mình.
Tác dụng tốt nhất của chiếc “thuyền
cáng” là để vượt sông. Từ Phú Xuân ra Thăng Long đoàn quân phải vượt qua hàng
chục con sông lớn và hàng trăm con sông nhỏ, rồi đầm, phá. Huy động làm sao đủ
thuyền bè để đưa hàng chục vạn quân qua sông cùng một lúc? Mà bơi vượt sông
thì đang là mùa đông (tháng Chạp) trời rất rét. Chính lúc này
chiếc thuyền phát huy tác dụng. Quân đến bờ sông lập tức thuyền được hạ thủy, giáo mác làm mái chèo, cứ thế 3 người một thuyền sang
sông chủ động, an toàn và đặc biệt là không bị ướt, rét. Dọc đường hành quân,
mỗi khi trời mưa, chiếc thuyền cáng còn được úp lên đầu thành mái che mưa rất
hữu hiệu. Chiếc thuyền này còn có một
tác dụng nữa: Đó là khi công đồn thì nó được dùng làm khiên, cản tên đạn của kẻ
thù để cho quân ta tiến lên, rất có hiệu quả. Do chiếc “thuyền cáng” có nhiều
công dụng như thế nên các tổ ba người luôn luôn bảo vệ nó, mang theo nó không
bao giờ quên, như là một dụng cụ chiến đấu vậy.Vì thế mà có câu ca nói về tác
dụng của chiếc “thuyền cáng” này:
Giúp quân thần tốc
Không kể ngày đêm
Đi đường làm cáng
Xuống nước là thuyền
Trời mưa làm lán
Xung trận thành khiên
Quân đi như nước
Trên cáng dưới thuyền. (2). .
Chiếc “thuyền cáng” trong cuộc hành
quân thần tốc của vua Quang Trung có nhiều công dụng thật đặc biệt. Nó góp phần
làm cho cuộc hành quân được mau lẹ, tạo yếu tố bí mật, bất ngờ, góp phần không
nhỏ vào trận Đại thắng mùa Xuân năm Kỷ Dậu 1789. Nó là một sáng tạo độc đáo
trong nghệ thuật quân sự tuyệt vời của Hoàng đế Quang Trung.
Chú thích (1): Tác phẩm Đại Nam
quốc sử diễn ca (của Lê Ngô Cát- Phạm Đình Toái) đặt câu này vào đoạn Nguyễn
Huệ đem quân ra Bắc tiêu diệt họ Trịnh vào tháng 6 . 1786 là chưa chính xác .Vì
lúc này đang giữa mùa hè, khí hậu rất nóng nực, không ai lại đội mũ lông cả .
(2): Trong cuốn “Văn học dân gian
Tây Sơn”, (Nxb Trẻ, 1999), khi đề cập đến cuộc hành binh thần tốc của quân đội
Tây Sơn, các tác giả cũng có đề cập đến
chiếc cáng và nêu các công dụng của chiếc cáng gồm làm cáng, làm thuyền chở
quân trang quân dụng khi vượt sông và đẻ che mưa…Như vậy là nêu được gần đủ tác
dụng của chiếc cáng. Tư liệu khai thác ở hai vùng miền khác nhau nhưng cũng
thống nhất nhau, chứng tỏ được độ tin cẩn của thông tin đã nêu.
*
TRẬN ĐÁNH ĐỒN NGỌC HỒI QUANG TRUNG DÙNG BÓ
RƠM HAY TẤM VÁN.
1- Hai
giả thuyết về trận tấn công đồn Ngọc Hồi
Đồn
Ngọc Hồi là một vị trí then chốt của quân Thanh ở phía Nam Thăng Long ,nơi địch
tập trung phần lớn binh lính tinh nhuệ, các tướng lĩnh cao cấp như Hứa Thế
Hanh, Trương Triều Long, Thượng Duy Thăng. . .là lá chắn bảo vệ cửa ngõ phía
nam kinh thành. Xung quanh đồn được đặt địa lôi, cắm chông sắt dày đặc.
Trong đồn được bố trí một hỏa lực rất mạnh. Rạng sáng mồng 5 tháng Giêng, Quang
Trung bắt đầu công phá đồn Ngọc Hồi. Đoàn quân dàn trận hình chữ “nhất” tiến
vào. Hỏa lực địch bắn ra như mưa. Theo Hoàng Lê nhất thống chí, để tránh thương
vong cho quân ta, Quang Trung đã cho ghép các tấm ván lại dùng rơm dấp nước phủ
kín ở bên ngoài, cho quân lính vác đi trước làm lá chắn che đạn. Sách này viết:
“Vua Quang Trung lại truyền cho lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép ba ván thành một
bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là 20 bức. Đoạn kén 10 lính khỏe
mạnh, cứ 10 người khiêng một bức, lưng dắt dao ngắn. hai mươi người khác đều
cầm binh khí theo sau, dàn thành trận chữ nhất; vua Quang Trung cưỡi voi đốc
thúc, mờ sang ngày mồng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh nổ súng bắn ra,
chẳng trúng người nào cả. Nhân có gió Bắc, quân Thanh liền dùng ống phun khói
lửa ra, khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì, hòng làm cho quân Nam
rối loạn. Không ngờ trong chốc lát, trời bỗng trở gió Nam , thành ra quân Thanh lại tự hại
mình. Vua Quang Trung liền gấp rút sai đội khiêng ván vừa che vừa xông thẳng
lên trước. Khi gươm giáo của hai bên đã chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai
nấy cầm giáo ngắn chém bừa; những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông
tới mà đánh. Quân Thanh chống không nổi ,bỏ chạy toán loạn, giày xéo lên nhau
mà chết” ( Hoàng Lê nhất thống chí. NXB Văn học. 2005 tr359, 360).
Đại Việt sử ký tục biên cũng chép tương tự như thế: “ Đến ngày mồng 5, khi trời
chưa sáng, Nguyễn Huệ tự thân đốc chiến đem hơn trăm voi khỏe đi trước, quân mạnh
đi theo sau, đánh nhau rất lâu. Kỵ binh của quân Thanh cưỡi ngựa, chợt thấy bầy
voi, ngựa đều hí lên quay đầu chạy. Bộ binh bị voi dẫm đạp lên, bèn chạy vào
trong lũy, cố thủ, bắn sung ra. Quân Nguyễn Huệ đem những tấm bia đỡ, đạp lũy
mà vào” ( Đại Việt sử ký tục biên, NXB Khoa học xã hội- H 1991 tr .483 ). Đại
Việt sử ký không nói cụ thể như Hoàng Lê nhất thống chí, nhưng “ bia đỡ” thì
cũng có nghĩa là những “ tấm ván” chứ không thể là bó rơm.
Như
vậy , theo Hoàng Lê nhất thống chí và Đại Việt sử ký tục biên thì để tránh tên
đạn của địch, Quang Trung đã cho lam 20 tấm ván, lấy rơm dấp nước phủ ngoài
ván, cho người vác lên che chắn phía trước, người đi sau cứ nương theo tấm ván
mà xông lên, cho đến khi giáp nhau với địch thì quẳng ván đi mà đánh giáp lá
cà. Ta đã hạ đồn Ngọc Hồi bằng chiến thuật như thế.
Tuy nhiên, cũng có tài liệu ghi khác. Khâm định Việt sử thông giám cương
mục ( Quốc sử quán triều Nguyễn ) thì cho rằng không phải dùng ván mà dùng
những bó rơm to, lăn lên phía trước để đỡ tên đạn. Sách này chép: “ Bốn
mặt đồn lũy, quân Thanh đều cắm chông sắt. Súng và tên bắn ra như mưa. Giặc
dùng những bó rơm to để che đỡ mà lăn xả vào , rồi quân tinh nhuệ tiến theo
sau. Kẻ trước ngã, người sau nối, thảy đều trổ sức liều chết mà chiến đấu. Các
lũy quân Thanh đồng thời tan vỡ và quân Thanh đều chạy. Giặc đuổi đến đồn Nam
Đồng, thừa thắng ập lại giết chết. Quân Thanh bị chết và bị thương quá nửa. Thế
Hanh, Tiên phong Trương Sĩ Long, Tả dực Thượng Duy Thắng đều chết” ( S đ d,
q.47 tờ 42 ).
Thanh thông giám cũng chép
tương tự như thế “ Vào canh 5 ngày này (mồng 5 ) Nguyễn Huệ đem đại binh
tiến đánh, thân tự đốc chiến, dùng 100 thớt voi khỏe làm tiên phong. Rạng
sáng quân Thanh cho kỵ binh nghênh địch , ngựa bị voi quần kinh hãi bỏ chạy, quân
rút lui vào trại cố thủ. Phía ngoài trại, lũy đầy chông sắt, bên trong bắn súng
ra cự địch. . Vào giờ ngọ quân Nguyễn bắn hỏa châu, hỏa tiễn tới tấp; lại dùng
rạ bó to lăn mà tiến đều, khinh binh theo sau, trước ngã, sau tiến lên, một
lòng quyết chiến, tại các trại, quân Thanh đồng thời tan vỡ, quân Nguyễn thừa
thắng chém,giết, quân Thanh bị tử thương quá nửa.” (Thanh thực lục.
Bản dịch của Hồ Bạch Thảo, Nxb Hà Nội 2007, tr. 74)
Như vậy ,cho đến nay có hai thuyết nói về chiến thuật công phá đồn Ngọc Hồi của
Quang Trung. Thuyết của Hoàng Lê nhất thống chí và Đại Việt sử ký tục biên cho
rằng Quang Trung ghép ván ,dùng rơm tẩm nước rồi phủ ra bên ngoài để che đỡ.
Còn Thanh thông giám và Khâm định Việt sử thong giám cương mục thì lại cho rằng
Quang Trung dùng rơm rạ bó to, rồi cho lăn tròn ở phía trước để chắn đạn cho
đoàn quân ở phía sau tiến lên.
2- Bó rơm hay tấm vánVậy ở đây, sách nào chép đúng. Hay nói cách khác, là ta nên tin vào tài liệu nào. Tấm ván hay bó rơm?
Dịch giả Hồ Bạch Thảo khi dịch cuốn Thanh thực lục cũng đặt nghi vấn về chi
tiết dị biệt này giữa các tài liệu. Ông nghiêng về việc dùng bó rơm. Trong lời
bàn của người dịch, ông viết : “ Việc dùng rạ bó thành bó lớn như bánh xe khổng
lồ, bó nọ nối liền bó kia cùng lăn đều tạo thành bức tường di động giúp quân
lính núp đằng sau tương đối an toàn, vừa tiến lên vừa bắn, để đánh chiếm đồn
giặc, là một sang kiến tuyệt diệu”. Cuối cùng ông kết luận : “ Rất tiếc
những bộ sử ngày nay như Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, và Đại cương lịch
sử Việt Nam của NXB Giáo dục Hà Nội vẫn dùng sử liệu “ Ghép ván có phủ rơm” của
bộ tiểu thuyết Hoàng Lê nhất thống chí mà không đề cập đến bó rạ lăn tròn được
chép trong sử Thanh và sử Triều Nguyễn” ( Thanh thực lục Tr 79- 80 ). Gần đây
trên tạp chí Xưa và Nay số 336 ra tháng 7- 2009, tác giả Hồ Bạch Thảo
cũng nhận định tương tự.
Chúng tôi cho rằng, trong việc tấn công đồn Ngọc Hồi, việc dùng “ tấm ván phủ
rơm” như Hoàng Lê nhất thống chí là hoàn toàn hợp lý. Trong trường hợp này,
người ta không thể dung bó rơm ( hay rạ ) bởi vì:
– Rơm rạ là chất dễ cháy, dễ bén lửa. Trong lúc đó , hỏa lực trong đồn địch bắn
ra rất mạnh. Không ai lại dung rơm để tự thiêu cháy quân mình.
– Muốn khỏi cháy, cách duy nhất là phải dấp ướt các bó rơm, lúc ấy sẽ bị xẹp
lại, bết vào nhau. Rơm phải đủ ướt ( ướt sũng ) thì mới không thể cháy được khi
tên lửa và sung phun lửa bắn vào. Nhưng nếu ướt như thế, nó sẽ thành một mớ
bùng nhùng, không thể lăn tròn được, nhất là với một bó rơm to như cái bánh xe
khổng lồ , đường kính ít nhất phải 1,5 m mới che được cho người thì làm
sao mà lăn được .Dù buộc bằng cách nào, đối với một bó rạ to như thế, khi lăn
sẽ bị xộc xệch, chỉ độ chục mét là bung ra ngay. Không lẽ lúc ấy phải dừng lại
mà bó để hứng đạn của địch? Không ai lại đùa với mạng sống của binh lính khi
dùng những vật dễ bung, dễ hỏng như vậy.
Vậy thì dù dung rơm khô hay rơm ướt đều không khả thi. Trong khi đó, dùng ván
phủ một lớp rơm ướt ở bên ngoài, việc khiêng vác sẽ rất nhẹ nhàng, thuận tiện.
Dịch giả Hồ Bạch Thảo nêu nghi vấn: Nếu khiêng ván thì mép dưới ván ít nhất
cũng phải cách mặt đất 0,2 mét để khỏi vấp khi địa hình mấp mô, tên đạn của
địch cứ nhằm vào vào phía dưới chân mà bắn, như vậy không tránh khỏi bị thương
vong. Xin thưa rằng, không ai khiêng ván dựng đứng cả ( tức mặt phẳng ván vuông
góc với mặt đất ). Mà người ta khiêng ván nghiêng 60-70 độ so với mặt đất. Lúc
đó mép dưới của ván cách xa chân người , dù mép ván cách mặt đất 0,2m (
để khỏi vấp khi địa hình mấp mô) thì đạn cũng không thể chạm tới chân người
được.
Chúng tôi cho rằng, trong trận tấn công đồn Ngọc Hồi, quân ta đã dùng tấm ván
phủ rơm ướt bên ngoài che đỡ cho đoàn quân tiến lên là hoàn toàn chính xác.Đối
với quân đội của Quang Trung, các chiến thuật công đồn là rất sáng tạo. Chúng
ta không loại trừ có những đơn vị sử dụng “ Thuyền cáng” làm khiên che khi tấn
công, như có lần chúng tôi đã đề cập. Tuy nhiên, không thể dùng bó rơm lăn tròn
như sử nhà Thanh hay sử nhà Nguyễn mô tả. Ngay sử nhà Nguyễn trong Khâm định Viẹt
sử thông giám cương mục ghi là dùng bó rơm lăn tròn thì trong Đại Nam liệt
truyện lại cho rằng Quang Trung dung những tấm ván .Sách này viết: “Mờ sang
mồng 5, tiến sát đến luỹ Ngọc Hồi, trên luỹ đạn bắn , Huệ sai chiến sĩ đội ván
gỗ để xông vào trận mà tự thúc voi đốc đằng sau” (Sđ d. q.30). Như vậy thì
thuyết cho rằng Quang Trung dung tấm ván phủ rơm ướt bên ngoài để che đỡ cho
quân lính là chính xác. / .
*
KỲ CÔNG NGOẠI GIAO
SAU ĐẠI THẮNG MÙA XUÂN KỶ DẬU 1789
Chiến
công lừng lẫy của cuộc đại thắng mùa xuân Kỷ Dậu là một trong những mốc son
chói lọi trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Bên cạnh
chiến công ấy, có một chiến thắng cũng không kém phần quan trọng, đó là những
thắng lợi về mặt ngoại giao. Chiến thắng này đã đưa hai nước, hai triều đại
đang đối đầu trên chiến trường trở thành những người bạn láng giềng hiểu biết
lẫn nhau, mang về cho hai nước Việt – Trung món quà quý giá nhất mà ai cũng
trông mong: hòa bình và hữu nghị.Những sách lược ngoại giao đúng đắn
Ngày 30 tháng chạp Mậu Thân (1788) khi đang ở Tam Điệp (Ninh Bình), trước lúc chuẩn bị cho chiến dịch giải phóng Thăng Long, Quang Trung đã nói với tướng sĩ: “Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được người Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp 10 nước ta, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân. (Ta) Nỡ lòng nào mà làm như vậy!” (Hoàng Lê nhất thống chí – HLNTC). Như vậy là trong khi đang lo đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, Quang Trung đã nhìn thấy trước, đã tính đến nước cờ: làm sao để kết thúc chiến tranh thật gọn, thật dứt điểm, không để dây dưa về sau, di hại cho dân. Muốn thế thì không còn cách nào khác là phải tranh thủ thiết lập quan hệ ngoại giao với chính đối thủ của mình.
Công việc chữa thẹn đầu tiên là tập trung tất cả quân Thanh ra đầu thú lại, đối xử tử tế, chu cấp cho họ cơm ăn áo mặc, rồi đưa hết lên cửa ải, chờ trao trả lại cho nhà Thanh, rồi “xin lỗi” nhà Thanh. Đó là việc làm hợp đạo lý, hợp với truyền thống nhân đạo của dân tộc ta và được nhà Thanh nể phục. Công việc thứ hai là viết biểu trần tình, thanh minh về sự việc xảy ra vừa rồi, cho người tin cẩn lên cửa ải đợi mệnh. Phái bộ Nguyễn Quang Hiển, cháu ruột của Quang Trung nhận nhiệm vụ này. Trong biểu trần tình (do Ngô Thì Nhậm soạn) có viết: “Tôi không tránh lời dèm ném chuột, liền đem năm ba dân đinh trong ấp đi theo. Ngày 5-1 năm nay, tiến ra Thăng Long, vốn còn mong Sĩ Nghị nghĩ lại, may ra lấy ngọc lụa thay can qua, chuyển binh giáp làm hội áo xiêm, tôi khẩn khoản xin yết kiến, nhưng không được Nghị trả lời”. Sau khi vạch tội Sĩ Nghị, tờ biểu tỏ lòng quy thuận: “Kính xin Đại Hoàng đế thể theo lòng trời làm trị, tươi héo tốt xấu thuận theo lẽ tự nhiên, tha thứ cho cái tội tạm thời không đừng được mà phải dùng binh đối phó, lượng xét cho cái lòng thành ba lần đến cửa quan tâu bày, đặt chức tư mục, dựng bức bình phong, ban cáo mệnh, phong cho tôi làm An Nam Quốc vương, giữ chức một phương, giữ thống lĩnh. Tôi sẽ sai sứ giả, theo lệ chư hầu dâng lễ cống và phụng nội số nhân khẩu hiện còn ở bản quốc để giữ lòng thành” (Biểu trần tình – Tổng tập văn học Việt
Đối với các quan lại nhà Thanh trực tiếp có quan hệ với nước ta thì triều đình “dùng lời nói khéo, đem lợi để nhử” (Lịch triều tạp kỷ – LTTK) cốt để tranh thủ họ, lấy lòng họ. Ví dụ, đối với hai viên tri phủ Thái Bình và Nam Ninh (hai phủ sát biên giới nước ta) hay với viên Tả giang đạo Thanh Hùng Nghiệp, Tổng lý biên vụ (tức tổng quản các vấn đề biên giới), triều đình Quang Trung đều tỏ thái độ hết sức nhún nhường, đề cao họ, luôn tranh thủ sự đồng tình của họ để họ sẵn sàng giúp đỡ trong những việc cần đến. Từ những người này mà móc nối với Phúc Khang An – Tổng đốc Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây), từ Phúc Khang An mà đặt mối liên hệ với Các thần Hòa Khôn (có sách ghi là Hòa Thân), viên cận thần của Càn Long. Có như thế thì những nhã ý của Quang Trung mới thấu đến vua Càn Long được.
Hòa Khôn là người được Càn Long tin cậy và sủng ái. Biết ông ta là một viên quan tham nhũng có tầm cỡ, Quang Trung sẵn sàng “lễ hậu”. Chính Hòa Khôn đã nói với Càn Long một câu rất chính xác, nhưng không phải ai cũng dám nói: “Từ xưa đến nay, Trung Hoa chưa có đời nào làm nên công trạng ở cõi
Phúc Khang An là một viên quan mới được thay thế Tôn Sĩ Nghị làm Tổng đốc Lưỡng Quảng. Được thấy cảnh Sĩ Nghị một mình ôm đầu chạy về, lại được nhìn thấy cảnh suốt 200 dặm nội địa (đất Trung Hoa) dân bỏ chạy tứ tán, tất ông ta đã biết được sức mạnh của quân đội Quang Trung. Bản thân không muốn gây chiến tranh nhưng nhận lệnh triều đình, ông ta phải chấp hành, nên đã tập hợp binh mã 9 tỉnh để chuẩn bị báo thù. Nhưng trong thâm tâm, Phúc Khang An chỉ mong biên giới ổn thỏa, chính vì vậy mà ông ủng hộ cái thiện chí của ta, bởi mục tiêu hòa bình và ổn định biên giới của ta cũng chính là nguyện vọng của Phúc Khang An.
Nhún nhường không có nghĩa là hạ mình
Tất nhiên, sự mềm dẻo, nhún nhường không có nghĩa là đối phương đưa ra yêu sách gì là Quang Trung đáp ứng ngay. Khi Phúc Khang An muốn Quang Trung lên cửa ải để tiếp kiến, ông đã từ chối thẳng, viện cớ là: “Nước vừa xây dựng, không được một phút rảnh tay, hiện nay chưa thể rời khỏi đô thành” (thư gửi Thang Hùng Nghiệp) và “trèo đèo lội suối, phí tổn rất nhiều của cải, sức lực của dân, trong lòng có chỗ rất áy náy, không yên” (thư gửi Phúc Khang An, 28 – 4 Kỷ Dậu). Phúc Khang An yêu cầu trong lễ cống cần có 2 – 4 con voi, Quang Trung cũng nêu khó khăn và xin miễn, vì voi chiến thì “đang xua vào biên thùy phương Nam để khống chế các Man”, voi thuần dưỡng thì các bộ lạc người Man “đang đánh lẫn nhau nên chưa thể mua được” (LTTK). Nếu ta nhớ rằng trước đó 3 – 4 tháng trong chiến dịch mùa xuân Kỷ Dậu, Quang Trung đưa một đội tượng binh hàng trăm thớt voi đánh vào Ngọc Hồi, Đầm Mực thì sẽ thấy 2 – 3 con voi chẳng có ý nghĩa gì. Tuy nhiên, Quang Trung vẫn từ chối để chứng tỏ rằng không phải thiên triều yêu sách gì, ta cũng chấp nhận. Vả lại, những con voi lập nên chiến công như thế, ông “không nỡ” đem tặng kẻ thù!
Trong quá trình chuẩn bị cho lễ phong vương, Quang Trung cũng không hành động như Phúc Khang An nghĩ. “Quốc vương họ (chỉ Quang Trung) từ khi nộp khoản đầu hàng tới nay, đối với mọi nghi văn lễ tiết phụng sự thiên triều đều rất cung kính thận trọng. Vì vậy, được hưởng ân sủng đặc biệt của Thánh chúa, cả nước vẻ vang, quốc vương của họ cũng phải vô vàn cảm khích, vô vàn kính phục, hẹn trước để chờ đợi đón tiếp ở dọc đường” (trát của Phúc Khang An gửi cho Chánh đường phủ Thái Bình họ Lâm – LTTK). Sự thật không phải như tưởng tượng của Phúc Khang An: Quang Trung không “vô vàn cảm khích mà đứng chờ đợi dọc đường” để đón tiếp sứ Thanh! Khi sứ nhà Thanh lên đường sang ta, hẹn với Quang Trung ngày 24 – 9 cùng có mặt ở Thăng Long để làm lễ sắc phong. Ngày 13 – 9 nhận được công văn của nhà Thanh, ông hẹn rằng trung tuần tháng 9 sẽ có mặt (thư gửi Phúc Khang An). Nhưng sau đó, Quang Trung lại thay đổi kế hoạch. Lý do ông đưa ra với Phúc Khang An là: có một đoàn thuyền tuần tiễu 100 chiến tiến vào vùng biển Biện Sơn (Thanh Hóa) rồi kéo vào Nhật Lệ, Tư Khánh (Thuận Hóa), cờ xí, khí giới đều là hình mẫu của nội địa (tức nhà Thanh), đề nghị Phúc Khang An giải thích rõ những tàu thuyền ấy là của ai, để có cách xử trí. Thế nhưng, khi gửi thư cho Chánh đường phủ họ Lâm và 2 vị sứ thần thì Quang Trung lại nêu lý do là bị ốm: “Nào ngờ khi mới bị cảm, tiểu phiên không được nghỉ ngơi mà cứ phải miễn cưỡng làm việc, lại hành trình vất vả nhiều, bệnh cũ phát ra, khi đến đất Đông Thành (Nghệ An) bị cảm nặng, cơ thể rất mệt mỏi, rất khó mang bệnh mà đi, đành phải tạm cấp tốc chạy chữa”. Rồi Quang Trung hẹn đầu tháng 10 sẽ ra tới Thăng Long.
Ngày 22 – 9 – 1789, đoàn sức bộ nhà Thanh đến Gia Quất (Gia Lâm – nơi đón tiếp sứ bộ) ở bên kia sông Hồng thì ngày 3 – 10, Quang Trung mới khởi hành từ Nghệ An. Ngày 15, Quang Trung cho dàn nghi lễ, cờ xí đón rước sứ đoàn vượt sông Hồng sang Thăng Long để làm lễ cầu phong. Nghe lễ hoàn tất, sứ giả lại vượt sông Hồng sang Gia Quất để 17 – 10 trở về Trung Hoa. Như vậy, Quang Trung và các cộng sự của ông đã biến thù thành bạn mà không hề hạ mình và uy tín của dân tộc, của triều đại vẫn được đề cao đến tột cùng. Đó là một điều kỳ diệu, một kỳ công trong nền ngoại giao Việt
GIẢI MÃ BÍ ẨN SỰ KIỆN QUANG TRUNG GIẢ THỜI
TÂY SƠN
Sự tồn tại của
triều đại Tây Sơn quá ngắn ngủi, do đó mà nhiều sự kiện lịch sử, nhiều nhân vật
lịch sử không kịp ghi vào sử sách. Chưa có một bộ sử chính thống của triều
đình, đại loại như Đại Việt sử ký tục biên (của triều Lê trước đây) hay
ĐạiNamthực lục (của triều Nguyễn sau này). Muốn tìm hiểu thời kỳ Tây Sơn, triều
đại Tây Sơn, chúng ta chỉ con cách tìm trong những ghi chép cá nhân (dã sử) hay
nhặt nhạnh những ghi chép có liên quan đến triều đại Tây Sơn của các sử gia nhà
Nguyễn (như Đại Nam thực luc, Đại Nam liệt truyện) hay những tư liệu, thư từ
ngoại giao còn lưu lại. Chính vì vậy mà nhiều sự kiện lịch sử, nhiều nhân vật
lịch sử còn chìm trong bí ẩn. . Để làm sáng tỏ những bí ẩn đó, không phải ngày
một ngày hai. Xung quanh sự kiện Quang Trung (giả) sang chầu vua nhà Thanh năm
1790, một sự kiện ngoại giao “lạ lùng và vẻ vang” (lời người đương thời) trong
lịch sử ngoại giao của dân tộc ta, vẫn còn nhiều điều chưa sáng tỏ. Những câu
hỏi đại loại như:
– Tại sao vua Thanh Càn Long chỉ yêu cầu một
mình vua Quang Trung sang triều kiến mà cả hai cha con nhà vua cùng đi?– Tại sao giữa đường Nguyễn Quang Thùy cáo ốm rồi trở về nước?
– Tại sao Phạm
Công Trị là cháu vua, được chọn đóng vai Quang Trung giả, lại còn có Phạm Công
Trị hộ tống Nguyễn Quang Thùy trở về nước, ngay khi vừa mới đi hết đất Lưỡng
Quảng?
Bài viết này hi
vọng làm sáng tỏ những bí ẩn về sự kiện ngoại giao “lạ lùng và vẻ vang” có một
không hai đó.
1. Lý do cần phải có Quang Trung giả.
Năm 1789, sau đại
thắng mùa xuân Kỷ Dậu, uy thế của triều đại Tây Sơn lên cao chưa từng thấy. Tuy
nhiên, như vua Quang Trung từng nhận định: “Chúng là nước lớn gấp mười nước ta,
sau khi bị nhục một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo báo thù. Như thế thì việc binh
đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân” (Hoàng Lê nhất thống chí).
Để tránh một cuộc binh đao “không bao giờ dứt” đó, đường lối ngoại giao của nhà
Tây Sơn là khôn khéo, mềm dẻo, nhún nhường, linh hoạt. Nguyên tắc đặt ra là
tránh những căng thẳng ngoại giao không cần thiết, có thể thỏa mãn những tiểu
tiết, nếu điều đó không ảnh hưởng đến chủ quyền dân tộc, lợi ích quốc gia.
Về phía nhà Thanh,
sau trận thua đau mùa xuân Kỷ Dậu, không khỏi hổ thẹn, nuôi chí phục thù. Tuy
nhiên, đối với các quan lại địa phương sát biên giới nước ta (như Phúc Khang
An, Thang Hùng Nghiệp. . .) họ đã thấy rõ sức mạnh của Tây Sơn, rất “ngán” một
cuộc đụng độ tiếp theo mà bài học Tôn Sĩ Nghị còn đang nhãn tiền. Một cuộc đối
thoại hòa bình dù sao cũng còn tốt hơn nhiều một cuộc đối đầu trực tiếp. Đó là
điều mà hai bên có thể đi đến tiếng nói chung. Tuy nhiên, điều mà vua Càn Long
nhà Thanh đặt ra là vua Quang Trung phải sang triều cận vua Thanh để tỏ ý “thần
phục”. Đây thực chất là nhằm chữa thẹn cho vua Càn Long và triều đình nhà Thanh
trước bàn dân thiên hạ của họ mà thôi. Trong thư của Phúc Khang An, viết theo
lệnh của Càn Long, cũng thường nhắc tới yêu cầu này, coi như điều kiện tiên
quyết để bình thường hóa quan hệ hai nước : “Chú ngươi (tức vua Quang Trung-
PDK chú) đều có thiên lương và cũng là người hiểu biết. Phải nên muôn phần cảm
kích, vui mừng, nếu không tự mình tới kinh để chiêm ngưỡng thiên nhan, khấu đầu
cảm tạ ơn lớn thì lấy gì bày tỏ lòng sợ trời thờ nước lớn, thành kính cung
thuận?” (Trích thư của Phúc Khang An gửi Nguyễn Quang Hiển tháng 5-1789) (Lịch
triều tạp kỷ). Và “ Mùa xuân sang năm , bản đường ở trong cửa quan đợi Quốc
trưởng để cùng vào triều cận, cúi đầu lạy chỗ cung khuyết nhà vua , giãi bày
lòng thành thực” ( Đại Việt quốc thư)
Thế nhưng, đối với
vua Quang Trung thì điều đó là không thể được. Bởi vì, từ xưa chưa có một vị
vua nào của nước ta lại chịu sang chầu vua một nước khác. Từ Đinh, Lý, Trần, Lê
đến bây giờ đều thế. Đây là nguyên tắc ngoại giao, là thể diện quốc gia. Vì vậy
cần phải có một “vua giả” sang chầu là điều mà các nhà thương thuyết của cả hai
bên sớm đi đến thống nhất. Tuy nhiên, thực hiện giải pháp này là một sự mạo
hiểm chết người. Bởi nếu lộ ra thì quan hệ giữa hai nước được xây dựng, được
vun vén hàng năm trời nay có nguy cơ bị đổ bể. Kéo theo đó là một số quan lại
nhà Thanh dính líu trong vụ này sẽ chịu tội rất nặng với triều đình nhà Thanh,
có thể đến mức tử hình (vì mang tội khi quân). Chính vì vậy mà việc bố trí một
đoàn sứ bộ hộ tống “vua giả” phải cực kỳ thận trọng, phải tính đến từng chi
tiết nhỏ. Một vở kịch phải đóng không phải ngày một ngày hai mà là hàng năm
trời (thời gian đi sứ, cả đi và về thường hơn 1 năm!)
2. Tại sao đoàn sứ bộ lại phải có hai
cha con: Vua Quang Trung và Hoàng tử Nguyễn Quang Thùy
Trong đoàn sứ bộ
Tây Sơn sang triều cận vua Thanh nhân bát tuần đại khánh (mừng thọ 80 tuổi) của
vua Thanh ta thấy có “vua giả” do Phạm Công Trị đóng. (Theo Quốc sử quán triều
Nguyễn thì vào tháng 10 Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung cũng cho Phạm Công Trị
đóng vai Quang Trung giả ra Thăng Long nhận sắc phong của vua Thanh. Như vậy
đây là lần thứ hai, Phạm Công Trị đóng vai Quang Trung giả). Đoàn còn có Hoàng
tử Nguyễn Quang Thùy (thật). Võ thần có Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân, văn thần có
Phan Huy Ích, Võ Huy Tấn, Đoàn Nguyễn Tuấn. . . Tổng số thành viên trong đoàn
có 159 người. Tuy nhiên , khi mới đi hết địa phận Lưỡng Quảng thì Nguyễn Quang
Thùy bị ốm, không đi tiếp được phải về nước dưỡng bệnh. Trong số những người
tháp tùng Hoàng tử về nước dưỡng bệnh có Phạm Công Trị. Điều này sứ đoàn ngoại
giao của ta đã có tâu báo với vua Càn Long, và đích thân Càn Long đã ra chỉ dụ,
trong đó viết: “Nguyễn Quang Thùy ít tuổi, người yếu, đi xa muôn dặm lại thêm
phần khó nhọc , lũ Phúc Khang An cho phái bồi thần nước ấy là Đặng Văn Chân
cùng cháu gọi vua nước ấy bằng cậu là Phạm Công Trị đi kèm để ra khỏi cửa quan,
dặn phải điều trị cho khéo, điều đó là rất phải” (Đại Việt Quốc Thư, tr.271 ). Đây chính là diều làm nhiều nhà
nghiên cứu thắc mắc, cho rằng Phạm Công Trị đã về nước theo Nguyễn Quang Thùy
rồi, đâu còn ở lại trong đoàn mà đóng vai “vua giả”. Tác giả Nguyễn Thế Long
trong cuốn Bang giao Đại Việt triều Tây Sơn (Nxb VHTT,2005, tr.69) sau ghi sự kiện này, cũng đi đến kết
luận: “Trong tờ dụ này có nói đến cháu vua là Phạm Công Trị cùng đi trong đoàn
và khi Nguyễn Quang Thùy ốm thì cùng với Đặng Văn Chân đưa về, vì vậy , từ xưa
đến nay đều nói người đóng giả vua Quang Trung là Phạm Công Trị có lẽ
không đúng”. Tác giả Tạ Chí Đại Trường trong cuốn Việt Nam thời Tây Sơn, Lịch sử nội chiến
(Nxb CAND, 2007) cũng đặt vấn đề nghi vấn: “Theo Liệt truyện thì vua giả là
Phạm Công Trị , người có mặt ở Gia Định năm 1783. Rắc rối là trong sứ bộ năm
1790 lại có tên Phạm Công Trị đã đến Quảng Tây mà vì Nguyễn Quang Thùy bị bệnh,
phải hộ tống trở về” . Vậy thì tại sao lại có sự lạ lùng như thế. Muốn hiểu
điều này, chúng ta lại phải trả lời câu hỏi: -Tại sao vua Càn Long chỉ yêu cầu
có một mình vua Quang Trung sang chầu mà Quang Trung lại “thật thà” và “quá sốt
sắng” đi cả hai cha con?”. Trả lời câu hỏi này cũng chính là làm rõ vì sao có
Phạm Công Trị về nước theo Nguyễn Quang Thùy.
Chúng ta biết,
việc cử “vua giả” sang chầu Càn Long là một điều bắt buộc, một sự vạn bất đắc
dĩ bởi nó là sự mạo hiểm chết người đối với các nhà ngoại giao của cả hai bên,
và ảnh hưởng rất lớn đến thành quả ngoại giao mà hai bên đã gặt hái được trong
quá trình phấn đấu hàng năm trời. Vì vậy, việc tính toán kỹ lưỡng , chi tiết
cho cho chuyến đi này là vấn đề sống còn của cả hai bên. Có ai dám chắc rằng ,
trong cả quá trình đi hàng mấy tháng trời qua rất nhiều địa điểm đón tiếp,
không phạm phải những sơ suất mà chân tướng vua giả sẽ lộ ra? Ai dám đảm bảo
rằng , trong số rất nhiều vong thần nhà Lê, những kẻ tử thù của Tây Sơn hiện
đang nhan nhản ở vùng sát biên giới (bên phía Trung Quốc) nhận diện ra Quang
Trung giả rồi lu loa lên để phá hoại công cuộc bang giao? Chính vì vậy mà
Nguyễn Quang Thùy chính là nhân vật chính của phương án 2, nếu phương án 1 là
Quang Trung giả bị bại lộ. Ở đây ta thấy cái tài khôn khéo của các nhà ngoại
giao Tây Sơn, đó là trong giả có thật, trong thật có giả. Quang Trung là giả,
nhưng con Quang Trung là Quang Thùy lại là thật. . Và khi giả (phương án 1) bị
bại lộ thì thực (phương án 2) sẽ thay thế, quyết không để cho công cuộc bang
giao bị đổ bể. Tình huống cụ thể ở đây là, trong đoàn ngoại giao có ghi tên
Phạm Công Trị (người có thực đang đóng vai Quang Trung) nhưng người mang tên
Phạm Công Trị lại là một người khác (có thể chỉ là một nhân vật vô danh, một
người lính chẳng hạn) . Đặt trường hợp Quang Trung giả bị phát hiện là Phạm
Công Trị , thì tất nhiên ông phải nhận mình là Phạm Công Trị, tên tuổi ông đã
được ghi rõ ràng trong danh sách ngoại giao đoàn. Lúc đó thì “Quang Trung” đành
phải cáo ốm mà trở về nước, ủy thác lại cho Nguyễn Quang Thùy tiếp tục công
việc. Các nhà ngoại giao Tây Sơn sẽ thác lời Quang Trung mà làm một tờ biểu
trần tình lên Càn Long, đại khái nói : Tiểu phiên (Quang Trung thường tự xưng
với Càn Long như thế-PDK chú) vì không quen thủy thổ, bị ốm dọc đường, tình thế
rất khẩn thiết, nay ủy cho con trai tôi là Nguyễn Quang Thùy thay mặt Tiểu
phiên đến chầu hầu Đại Hoàng đế. Tiểu phiên lòng xiết bao sợ hãi, xin được xá
tội. . .” Đại loại là như thế. Lúc ấy Quang Trung “giả” sẽ về nước. Người tháp
tùng Quang Trung “giả” sẽ là Phạm Công Trị, lúc này sẽ lấy tên thật. Còn ai sẽ
là Quang Trung “giả” trong vai vua ốm? Đó chính là người vô danh đội tên Phạm
Công Trị lúc ra đi. “Người vô danh” này không cần phải giống Quang Trung, bởi
vì dọc đường về, do “vua” bị ốm nên sẽ ở trong xe (hoặc kiệu) được buông rèm
kín không lộ diện để “tránh nắng gió”, đó là lý do hợp lý không ai phản bác
được. Tuy nhiên, điều chẳng may bị lật tẩy đó đã không hề xẩy ra. Đoàn vượt
biên giới Lạng Sơn vào ngày 13-4 Canh Tuất (1790). Đầu tháng 5 thì đi hết địa
phận Lưỡng Quảng. Sự việc diễn ra êm đẹp. Từ đây, khi đã vào sâu trong nội địa
Trung Quốc thì mối lo bị lộ tẩy do các vong thần nhà Lê hay các thế lực thù
địch với Tây Sơn không còn nữa. Có nghĩa là phương án 2 không cần đến. Lúc này,
Nguyễn Quang Thùy phải trở về nước. Nguyễn Quang Thùy được phong tước Khang
Công, đang lĩnh chức Tiết chế thủy bộ ở Bắc Thành (tức chỉ huy toàn bộ quân đội
ở phía Bắc) ông còn nhiều việc phải làm. Phạm Công Trị trong vai Quang Trung
giả cũng không có gì sơ suất, cần phải “quên” cái tên Phạm Công Trị đi. Vì vậy,
“người vô danh” mang tên Phạm Công Trị trong dịp này cũng trở về với Nguyễn
Quang Thùy. Như vậy, dù thực hiện phương án 1 (Quang Trung giả) hay phương án 2
(Hoàng Tử thật) thì cái tên Phạm Công Trị cũng phải được xóa bỏ trong danh sách
Đoàn ngoại giao trước khi triều kiến vua Càn Long. Đó là lý do vì sao chúng ta
thấy trong số những người tháp tùng Nguyễn Quang Thùy về nước lại có tên Phạm
Công Trị.
3. Chưa có lần nào lạ lùng và vẻ vang
như thế.
Đây là nhận xét
của Đoàn Nguyễn Tuấn, một thành viên trong sứ đoàn ngoại giao 1790. “Lạ lùng”
là như chúng tôi đã phân tích ở trên. Thực mà hư, hư mà thực, trong thực có hư,
trong hư có thực. Những nhà thiết kế chuyến đi này không chỉ bố trí người đóng
vai Quang Trung giả mà cả người đội tên của người đóng vai Quang Trung giả, tức
là phải hai lần giả: Quang Trung giả và Phạm Công Trị giả. Và, nếu vạn bất đắc
dĩ bị lộ tẩy thì Phạm Công Trị (thật) sẽ đứng ra nhận tên mình để khỏi bị đổ
bể. Đó chính là sự bố trí thần tình của chuyến đi ngoại giao đầy bí ẩn này !
Thế rồi Quang
Trung “giả” đã không bị bại lộ. Phái đoàn sứ bộ của ta đã thành công mỹ mãn.
Vua Càn Long đã tỏ ra rất trân trọng , rất chu đáo với “Quang Trung”. Trên đất
Trung Quốc phái đoàn đi đến đâu cũng được đón tiếp long trọng như là đón vua
thật. Thậm chí khi Càn Long nhận được quà biếu là quả vải tươi, đã cho chạy
ngựa trạm vượt hàng ngàn dặm, đem đến biếu Quang Trung lúc ấy đang trên đường
đi. Xem số quả vải tươi được biếu (5 quả) , trong đó vua Quang Trung được 2
quả, Phúc Khang An được 2 quả và Ngô Văn Sở được 1 quả, đủ thấy nhà Thanh quý
quả vải tươi như thế nào, và tầm cỡ của người được biếu vải.
Khi phái đoàn của
Quang Trung (giả) đến Nhiệt Hà để ra mắt Càn Long, vua Thanh đã tặng An Nam
Quốc vương một viên ngọc Như ý, một tòa Ngọc phật , tặng cả đoàn một vạn lạng
bạc, tặng Ngô Văn Sở một cái mũ san hô tam phẩm (tức công nhận Ngô Văn Sở ngang
hàng quan tam phẩm nhà Thanh) .Ngày 20 tháng 8 Canh Tuất (1790) vua Thanh đặt
tiệc tiễn Quang Trung về nước. Khi “Quang Trung” vào bệ kiến để từ biệt, Càn
Long đã mời vào bên giường ngự, vỗ vai thân mật , sai họa sĩ cung đình vẽ một
bức chân dung Quang Trung để tặng . Càn Long lại tự tay viết 4 chữ đại tự “Củng
cực quy thành” ( Chầu về sao Bắc đẩu với tất cả lòng trung thuận, thành thực).
Sách Hoàng Lê nhất thống chí ghi chép lại: “Khi Quốc vương tới Yên Kinh, vua
Thanh mừng lắm, không hề biết là Quang Trung giả. Lúc Quốc vương vào yết kiến,
vua Thanh cho ăn yến với các vị thân vương, lại ban ơn đặc biệt cho làm lễ ôm
gối, hệt như tình cha con trong nhà. Lúc Quốc vương lạy tạ về nước, vua Thanh
sai thợ vẽ bức truyền thần mà ban cho, ân lễ rất trọng hậu, thực là một cách
đối đãi khác thường từ ngàn xưa hiếm có.”
Theo Đại thanh
thực lục thì số tiền nhà Thanh bỏ ra để chi tiêu vào việc đón tiếp Quang Trung
trong suốt đợt đi sứ hết 80 vạn lạng bạc (con số này có thể bị khai khống lên
để các quan lại địa phương có dịp bớt xén. Nhưng việc gửi quà, việc đón tiếp
của Càn Long đối với Quốc vương An Nam là hết sức ân cần, chu đáo, điều đó
không phải bàn cãi). Nhận xét về chuyến đi sứ này, nhà thơ Đoàn Nguyễn Tuấn ,
một thành viên của sứ bộ viết: “Từ trước đến nay, người mình đi sứ Trung Quốc
chưa có lần nào lạ lùng và vẻ vang như thế”
Như vậy là từ mùa
xuân 1789 đang là kẻ thù không đội trời chung (ta đã tiêu diệt 29 vạn quân
Thanh, đuổi chúng chạy dài về nước), hơn một năm sau, năm 1790 hai nước đã trở
lại quan hệ hữu hảo với nhau, coi nhau là đồng minh tin cậy, đó chính là thành
tựu ngoại giao mà triều đại Tây Sơn đã đạt được. Trong một năm rưỡi ngắn ngủi
đó, từ thù thành bạn, đó không phải là điều lạ lùng sao? Mà điều lạ lùng nhất ,
chính là sự kiện ngoại giao năm 1790, sự kiện Quang Trung giả, đỉnh cao của
thành tựu ngoại giao thời Tây Sơn.
*
PHONG CÁCH XỬ SỰ ĐỜI THƯỜNG CỦA HOÀNG ĐẾ
QUANG TRUNG
Nhắc dến Quang
Trung Nguyễn Huệ, chúng ta thường hình dung đó là một con người quyết đoán,
cứng rắn, với tài cầm quân xuất quỷ nhập thần, bách chiến, bách thắng . Một
người như thế chắc tính tình phải khắc kỷ, khô khan, cứng nhắc… Thế nhưng,
trong cuộc sống đời thường, ông lại rất vui vẻ, dí dỏm, có tài pha trò với
những lời đối đáp rất thông minh, sắc sảo, chứng tỏ một trí tuệ mẫn tiệp xuất
chúng. Ngay cả khi không vừa lòng thuộc cấp , ông vẫn chọn được cách nhắc nhở
tế nhị nhất, thấm thía nhất, mà không hề “ đao to búa lớn”.
Sử chép, sau khi
chiếm được Phú Xuân, Nguyễn Hữu Chỉnh vì nóng lòng muốn Nguyễn Huệ đánh ra Bắc
Hà để Chỉnh được cơ hội báo thù riêng, nên có nói : “ Người tài Bắc Hà chỉ có
một Chỉnh này thôi. Nay tôi đã đi rồi, ấy là cái nước rỗng không,xin ngài chớ
nghi ngại”. Nguyễn Huệ mới đùa rằng: “ Không nghi ngại người nào khác, chảng
hóa ra chỉ có ông là đáng nghi ngại thôi ư?” ( Hoàng Lê nhất thống chí- HLNTC).
Lời nói của Chỉnh quả là sái. Nguyễn Huệ nói đùa bẻ lại rất nhẹ nhàng, nhưng
thực chất là “ nhắc khéo” Chỉnh, “uốn nắn” Chỉnh chớ nên kiêu căng “ mục
hạ vô nhân”, đến nỗi một kẻ vốn gian hùng như Nguyễn Hữu Chỉnh cũng phải “ tái
mặt” và cố sức thanh minh vì sự lỡ lời của mình.
Lại chuyện
khác. Nguyễn Hữu Chỉnh vì muốn lấy lòng Nguyễn Huệ, nên đã “ bịa” ra việc vua
Lê muốn gả một nàng công chúa cho Nguyễn Huệ. Một việc vốn rất nghiêm túc và
cũng “ đúng ý” Nguyễn Huệ , nên ông mới đùa rằng: “ Vì dẹp loạn mà ra, để rồi
lấy vợ mà về, bọn trẻ nó cười cho thì sao ( năm ấy Nguyễn Huệ đã 33 tuổi). Tuy
nhiên ta mới quen gái Nam Hà chứ chưa biết gái Bắc Hà, nay cũng nên thử một
chuyến xem có tốt không” ( HLNTC ). Mọi người xung quanh đều cười ầm .
Một lời nói đùa mà chủ tướng và quân sỹ dưới quyền xích lại gần nhau, tưởng
chừng như không còn khoảng cách!
Thực ra, không
phải Nguyễn Huệ có ý “thử xem con gái Bắc Hà có tốt không”, mà thực chất cuộc
hôn nhân này lúc đầu cả hai bên đều có ý đồ chính trị. Nguyễn Huệ nói đùa để
che giấu ý đồ mà thôi. Vua Lê muốn thông qua cuộc hôn nhân để ràng buộc Nguyễn
Huệ trong vai trò chàng rể, để ông càng cố công giúp rập triều đình vốn đang
rất rối ren. Ngược lại , Nguyễn Huệ cũng muốn thông qua việc làm rể để
tìm hiểu nội bộ Hoàng tộc nhà Lê. Tất nhiên , sau này, khi đã thành vợ thành
chồng, anh hùng và giai nhân ý hợp tâm đầu, mối tình Nguyễn Huệ- Ngọc Hân mới
trở thành mối tình tuyệt đẹp trong sử sách. Vì vậy, sáu ngày sau hôn lễ, vua Lê
Hiển Tông chết, hoàng tộc đưa Lê Duy Kỳ ( tức Chiêu Thống) lên nối ngôi, Nguyễn
Huệ kiên quyết không chấp nhận, vì ông biết được nhân cách Lê Chiêu Thống qua
vợ mình. Sau này, khi Chiêu Thống bán nước, rước hơn 20 vạn quân Thanh
vào nước ta, càng thấy Nguyễn Huệ – Ngọc Hân thật là sáng suốt.
Ngay như
việc phê đơn ( ngự phê) Nguyễn Huệ cũng có cách xử sự rất độc đáo. Giai thoại
Thăng Long kể: năm 1786, Nguyễn Huệ ra Bắc đánh họ Trịnh. Khi quân đánh vào Văn
Miếu, có làm đổ một số bia tiến sĩ. Đến năm 1789 sau đại thắng quân Thanh, khi
Nguyễn Huệ đã lên làm vua, nhân dân quanh Văn Miếu có làm đơn lên ông, đề đạt
nguyện vọng khôi phục lại các di tích bị đổ nát. Trong đơn mà các nhà nho làm
hộ nhân dân, dám gọi nhà vua băng Ngài. Quang Trung đã phê:
Ta không trách các nông phuTa chỉ gớm các thầy nho
Cả gan to mật, dám kêu vua bằng ngài”
( Thời ấy thần dân phải gọi vua bằng bệ hạ. Gọi vua bằng ngài là khi quân, trong trường hợp khác có thể quy tội rất nặng)
Sau đó ông viết tiếp:
“ Mai sau dọn lại nước nhà
Bia nghè lại dựng trên tòa muôn gian”
Qua sự kiện này,
giữa nhà vua và dân chúng hầu như không còn khoảng cách. Đó là nhờ sự giản dị,
phục thiện , tính cách bình dân ở ông mà rất hiếm vị vua chúa có được.
Là một người quyền
uy tối thượng nhưng Nguyễn Huệ không bao giờ cậy quyền mà luôn biết kiềm chế
mình, biết dừng đúng chỗ. Giai thoại Thăng Long còn kể lại sự kiện sau khi đánh
tan họ Trịnh, Nguyễn Huệ vào yết kiến vua Lê Hiển Tông ở điện Vạn Thọ. Sân điện
vắng teo. Nguyễn Huệ mặc võ phục, đeo bảo kiếm dẫn đầu đoàn võ tướng Tây Sơn,
bước lên điện. Bỗng một người bước ra cản đường ông:
Dám thưa tướng
quân, theo phép nước, khi lên chầu vua, không được mang gươm, xin tướng quân
cởi gươm cho.
Lời yêu cầu rất lễ
phép nhưng rất cứng cỏi, kiên quyết. Đây là lệ từ xưa của triều đình nhà Lê. Có
thể Nguyễn Huệ không biết đến lệ này. Ông trừng mắt nhìn người vừa nói. Các
tướng lĩnh Tây sơn dấn bước lên, tay sờ vào đốc gươm. Tưởng chừng như Nguyễn
Huệ chỉ cần đưa mắt là kẻ bướng bỉnh dám cản đường kia sẽ rơi đầu trong giây lát.
Thế nhưng Nguyễn Huệ đã từ từ cởi gươm ra, để lại. Người dám cản đường Nguyễn
Huệ là Phương Đình Pháp, một trong số ít ỏi các viên quan còn ở lại bên vua Lê.
Sau này, người đời đều khen cả hai ông. Người ta khen Nguyễn Huệ biết kiềm chế
đúng mực, biết xử sự hợp lý và cũng khen Phương Đình Pháp can đảm, dám đứng ra
duy trì bảo vệ nghi lễ tôn nghiêm của triều đình. Sau này chính Nguyễn Huệ cũng
coi trọng Phương Đình Pháp.
Trong xử sự đời
thường, Nguyễn huệ cũng rất cẩn trọng. Khi vua Lê Hiển Tông bệnh nặng sắp mất,
Ngọc Hân muốn mời ông vào thăm vua cha lần cuối, nhưng Nguyễn Huệ giữ ý, nói :
“Hoàng thượng với tôi, nghĩa như cha con. Song tôi mới từ xa tới đây, người
trong nước chưa chắc đã tin hết cả. Nếu như tôi vào thăm, chẳng may đúng lúc
người chầu trời, há chẳng khiến tôi mang tiếng muôn đời với thiên hạ ư? Chi
bằng nàng cứ về thăm hoàng thượng và nói rõ với các anh chị em như thế, đẻ ai
nấy đều hiểu cho lòng tôi” ( HLNTC) . Sự cẩn trọng giữ ý của ông như thế thật
đúng mực.
Nguyễn Huệ cũng là
người rất bao dung độ lượng. Trong cuốn thơ văn Phan Huy Ích có kể lại câu
chuyện sau: khi người em ruột Phan Huy Ích chống lại Tây Sơn, bị mang trọng
tội, Phan Huy Ích rất sợ hãi, vội viết biểu về triều tạ tội. Nhưng rồi ông rất
vui mừng nhận được chiếu của vua Quang Trung: “Tính người ta thiện ác
khác nhau, cha còn không vừa được lòng con ,huống chi anh đối với em. Việc đã
không dính líu đến thì còn có hiềm nghi gì”. Phan Huy Ích lúc đó mới yên tâm
phục vụ triều Tây Sơn và trở thành một cộng sự đắc lực của Nguyễn Huệ.
Chúng ta đều biết
việc Nguyễn Huệ ba lần viết thư mời La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp ra giúp nước.
Lời thư ân cần , thiết tha, trân trọng hiếm có xưa nay: “ Mong Phu Tử nghĩ đến
chúng dân thiên hạ, vụt dậy đi ra, để cho quả đức có thầy mà thờ, cho đời này
có người mà cậy. Như thế mới ngõ hầu khỏi phụ ý trời sinh ra người giỏi” ( thư
viết lần hai) và “ Mong Phu Tử xét tấm lòng thành, vụt dậy mà đổi bụng, lấy
lòng vì Nghiêu Thuấn quân dân ra mà dạy bảo, khiến cho quả đức được thỏa lòng
mong ước tìm thầy và đời này được nhờ khuôn phép của tiên giáo. Thế thì may lắm
lắm” ( thư viết lần ba – Tổng tập văn học việtNam).
Đây không còn là
những bức thư mang nội dung công văn hành chính nữa mà là thể hiện một tấm
lòng. Nếu không có tấm lòng thực tâm tôn sư, cầu hiền, làm sao có thể viết được
những lời tỏ bày gan ruột, thiết tha , cảm động đến như thế . / .
PHƯỢNG HOÀNG TRUNG ĐÔ VÀ KHÁT VỌNG DANG DỞ
CỦA QUANG TRUNG
Những kinh đô trong lịch sử dân tộc
Trong lịch sử dựng
nước lâu dài của dân tộc ta, có những vùng đất do đặc điểm đặc biệt của nó đã
vinh dự được các triều đại chọn làm kinh đô. Đầu tiên, vào thời kỳ đất nước
Việt Thường, kinh đô đóng ở vùng Ngàn Hống (nay thuộc huyện Can Lộc , Hà Tĩnh)
mà chúng tôi đã có lần giới thiệu. Đến thời đất nước Văn Lang, kinh đô đóng ở
Văn Lang, còn gọi là Phong Châu (nay là thành phố Việt Trì, Phú Thọ). Thời An
Dương Vương, kinh đô đóng ở Cổ Loa (nay thuộc Đông Anh, Hà Nội). Thời Hai Bà
Trưng, đóng đô ở Mê Linh (nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc). Ngô Quyền dành lại độc lập
tự chủ cho dân tộc, trở lại đóng đô ở Cổ Loa, kinh đô cũ của An Dương Vương.
Hai triều đại Đinh – Lê chọn đóng đô ở Hoa Lư (nay là Trường Yên, Ninh Bình).
Các triều đại Lý – Trần – Lê – Mạc đều đóng đô ở Thăng Long (nay là Hà Nội) .
Nhà Hồ đóng đô ở Tây Đô (nay là Vĩnh Lộc, Thanh Hóa). Nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn
đóng đô ở Phú Xuân (nay là Thành phố Huế). Năm 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) chọn đóng đô ở Hà Nội,
tức kinh đô Thăng Long của các triều đại Lý- Trần – Lê xưa. Như vậy, kinh đô
Thăng Long- Hà Nội đã có trên một ngàn năm tuổi.
Phượng Hoàng Trung đô và khát vọng
của Quang Trung.
Ngay từ năm 1788,
khi chưa lên ngôi, Quang Trung đã để ý dến việc tìm đất xây dựng kinh đô ở Nghệ
An. Trong chiếu gửi La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp về việc chọn đất xây dựng kinh
đô, Quang Trung đã viết: “Chiếu truyền cho La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp được
biết: Ngày trước ủy thác cho Phu tử về Nghệ An xem đất đóng đô cho kịp kỳ này
ngự giá ở Bắc về trú. Sao ta về tới đây thấy chưa được việc gì? Nay ta hãy hồi
giá về Phú Xuân cho sĩ tốt nghỉ ngơi. Vậy ban chiếu xuống cho Phu tử nên sớm
cùng ông Trấn thủ Thận tính toán và làm việc xem đất đóng đô tại Phù Thạch”
Tờ chiếu đề ngày 1 tháng 6 năm Mậu Thân
(1788), như vậy việc giao trách nhiệm chọn đất đóng đô phải diễn ra trước đó.
Người ta cho rằng,
sở dĩ Quang Trung chọn đất đóng đô ở Nghệ An là do Nghệ An là quê hương, gốc
gác của ông. Điều đó chỉ đúng một phần. Bởi nếu thế thì sao ông không chọn Tây
Sơn (Bình Định) là nơi sinh ra và trưởng thành của ông, lại là nơi ông phất cờ
khởi nghĩa ?
Chúng tôi cho
rằng, sở dĩ Nguyễn Huệ chọn Nghệ An để dóng đô bởi hai lẽ. Một là, nơi đây đất
rộng người đông, là đất căn bản của nước nhà. Ngay từ thời Trần, khi quân
Nguyên sang xâm lược nước ta lần thứ hai ( 1285), chúng chiếm được Kinh thành
Thăng Long và hầu hết miền Bắc, triều đình nhà Trần đã phải lui về Thiên
Trường ( Nam Hà) rồi lại phải chạy vào Thanh Hóa, Trần Nhân Tông vẫn tin tưởng
vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, bởi vẫn còn đất căn bản Nghệ An: “ Hoan Diễn
do tồn thập vạn binh” ( ở châu Hoan Diễn ta còn 10 vạn quân). Thực tế, nhà Trần
đã giải phóng đất nước sau đó không lâu. Thời Lê , đất Nghệ An được coi là đất
thang mộc của triều đình, lính bảo vệ kinh thành đều lấy ở Thanh Nghệ. Ta nhớ rằng
khi ra Bắc diệt quân Thanh, Quang Trung đã dừng lại ở đây để tuyển quân. Nhân
dân Nghệ An ( bao gồm Nghệ An – Hà Tĩnh bây giờ) đã nô nức lên đường tòng
quân , đóng góp vào chiến thắng thần tốc của Quang Trung .
Hai là, về địa lý,
Nghệ An cách Thăng Long 300Km, cách Phú Xuân trên 300km, nằm vào khoảng giữa
rất cân đường ra vào (lúc bấy giờ vùng đất từ Quảng Ngãi trở vào thuộc quyền
kiểm soát của Nguyễn Nhạc). Trong chiếu gửi Nguyễn Thiếp, Nguyễn Huệ cũng
viết: “ Nay kinh đô ở Phú Xuân thì hình thế cách trở, ở xa trị Bắc Hà địa thế
khó khăn. Theo đình thần nghị rằng chỉ đóng đô ở Nghệ An là đường vừa cân, vừa
khống chế được trong Nam ngoài Bắc và sẽ làm cho người tứ phương đến kêu
kiện tiện việc đi về” ( chiếu đề ngày 3 tháng 9 năm Thái Đức 11, tức năm 1788).
Cũng trong tờ chiếu đó, Nguyễn Huệ còn ghi nhận ở đây “ hình thế rộng rãi, khí
tượng tươi sáng, có thể chọn để xây dựng kinh đô mới. Thật là chỗ đất đẹp để
đóng đô vậy!”. Cũng vì nóng lòng muốn dời đô ra Nghệ An mà Nguyễn Huệ đã đích
thân ra tận nơi để đốc thúc công viêc (7-1789).
Tuy nhiên, Nguyễn
Thiếp lại là người không muốn Nguyễn Huệ đóng đô ở Nghệ An, có lẽ ông sợ việc
xây dựng kinh đô sẽ làm khổ nhân dân địa phương. Chính vì vậy mà trong một tờ
tấu gửi Quang Trung, ông đã nại ra rằng, ở chỗ đó đất chật hẹp, kề núi kề sông,
bờ sông lại hay bị sạt lở, việc đóng đô là không thuận lợi. Quang Trung đã trả
lời rằng: “Nếu bảo rằng những chỗ như Phượng Hoàng, Khánh Sơn không được đô hội
thì sao chẳng tìm chỗ tốt khác cho thỏa ý quả cung trông mong? . . . Nhớ buổi
hồi loan kỳ trước lúc qua Hoành Sơn, quả cung đã từng mở xem địa đồ, thấy ở
huyện Chân Lộc, xã Yên Trường hình thế rộng rãi, khí tượng tươi sáng, có thể
chọn để xây kinh đô mới. Thật là chỗ đất đẹp để đóng đô vậy” ( Trích
chiếu của Quang Trung đề ngày 3 tháng 9 năm Mậu Thân (1788) . Đọc nội dung tờ
chiếu, ta có thể thấy được khát vọng của Quang Trung trong việc đóng đô ở Nghệ
An. Ta có thể thấy rõ ý của ông, muốn nói rằng, không chỗ này thì chỗ khac,
không lẽ đất Nghệ An rộng lớn như thế mà không chọn được chỗ đất đẹp để đóng đô
hay sao? Từ những tờ chiếu của Quang Trung, ta thấy ông quyết tâm và tha thiết
chọn đất đóng đô ở Nghệ An như thế nào!
Lựa chọn, trao đổi
mãi, cuối cùng Nguyễn Thiếp cũng chọn được địa điểm để xây dựng kinh đô. Đó là
vùng đất nằm giữa Núi Quyết và núi Kỳ Lân , tên dân gian là Rú Mèo, thuộc làng
Dũng Quyết, xã Yên Trường, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An (nay thuộc phường Trung
Đô, thành phố Vinh)
Một kinh đô dở dang như chính sự
nghiệp nhà Tây Sơn
Theo Hoàng Lê nhất
thống chí thì ở đây triều đình Tây Sơn đã xây dựng được một số công trình như :
Đắp thành đất xung quanh, xây dựng Lầu Rồng ba tầng, điện Thái Hòa và hai dãy
hành lang : “ Quang Trung liền sai trưng dụng rất nhiều thợ thuyền , chuyên chở
gỗ đá, gạch ngói để xây dựng cung phủ, lâu đài. Đắp thành đất xung quanh, và
sai các quân lính đào đá ong ở địa phương để xây thành trong. Dựng tòa lầu ba
tầng cùng hai dãy hành lang, để phòng dùng đến khi có lễ triều hạ” (Trích Hoàng
Lê nhất thống chí) .Việc xây dựng Phượng Hoàng trung đô đang xúc tiến thì Quang
Trung đột ngột qua đời ( 1792).Ngay trước khi mất, Quang Trung còn di chúc lại
cho triều đình sớm dời đô ra Nghệ An: “Trước khi mất, Nguyễn Huệ cho triệu viên
Trấn thủ Nghệ An là Trần Quang Diệu về kinh và dặn rằng: “Sau khi ta mất, nên
trong một tháng táng cho xong .Việc tang làm qua loa mà thôi. Chúng ngươi nên
giúp rập Thái tử sớm dời đô ra Nghệ An để khống chế thiên hạ. Nếu không thế thì
quân Gia Định sẽ tới, chúng ngươi không có chỗ chôn thân” (trích Đại Nam
chính biên liệt truyện).
Thế nhưng, sau khi
Quang Trung mất, việc xây dựng Phượng Hoàng Trung đô bị gác lại. Triều đình
Quang Toản không hề nhắc đến việc dời đô ra Nghệ An như ý nguyện của Quang
Trung trước khi mất. Vào năm 1801, sau khi Phú Xuân mất, triều đình Quang Toản
kéo nhau ra Bắc Hà, đóng đô ở Thăng Long. Mùa hè năm đó, Lầu Rồng ba tầng tự
nhiên đổ sụp, như điềm báo trước về sự sụp đổ không thể tránh khỏi của
triều đại Tây Sơn: “Tháng 6 mùa hè năm ấy (tức 1801), thình lình viên trấn thủ
Nghệ An là Nguyễn Thận sai người báo tin là Lầu Rồng ba tầng ở đây tự dưng đổ
sụp, người nghe biết là điềm chẳng lành” (Trích Hoàng Lê nhất thống chí)
Trải qua mưa nắng
thời gian và sự phá hoại của con người ( nhất là dưới triều Nguyễn), Phượng
Hoàng trung đô chỉ còn dấu tích mờ nhạt ở phía Nam thành phố Vinh (Nghệ An). Trong
khoảng những năm 1940, học giả Hoàng Xuân Hãn đã từng đến khảo sát toà thành
này và mô tả: “Ngày nay khoảng giữa núi Quyết và núi Mèo còn thấy dấu tích một
toà thành cũ hình gần tam giac. Dấu thành và đường hào đang còn rõ. Cửa Tiền ở
phía Nam .
Núi Mèo (Kỳ Lân ) làm nền cho đồn gác, thành phía Nam chắp vào núi ấy. Mặt đông bắc
lấy núi Quyết (Phượng Hoàng) làm thành . Địa thế thành rất dễ giữ. Phía trước
có sông Cồn Mộc và sông Lam, phía bên có núi Quyết đều là hào và thành thiên
nhiên. Ở giữa thành còn dấu thành trong và nền nhà. Nhất là có nền cao ba bậc ở
phía Bắc mà ngày sau, đời Nguyễn dùng làm nền Xã Tắc, đó là chỗ Quang Trung ngự
triều trong khi tạm nghỉ ở Nghệ An” ( Trích La Sơn Yên Hồ
Hoàng Xuân Hãn, Tập 2, tr .1050). Quy mô thành không lớn, chưa xứng tầm
với một kinh đô, như Hoàng Xuân Hãn đã nhận xét : “Thành Phượng Hoàng nhỏ,
thành nam chỉ dài 300 mét, bức thành tây dài 450 mét, và các nền cao thì ngang
dọc cũng chỉ chừng 20 mét mà thôi” ( Sđ d, tr. 1050)
Khảo tả của Hoàng
Xuân Hãn là tương đối chính xác nhưng chưa cụ thể. May thay, chúng ta còn được
thấy bức ảnh hàng không (ảnh chụp từ trên máy bay- không ảnh) thành Phượng
Hoàng Trung Đô chụp từ những năm 1930. Bức ảnh này được đưa vào tác phẩm An
Tĩnh cổ lục ( Ảnh mang số hiệu XCIII) của Le Breton một học giả người
Pháp. Trong cuốn sách trên, Le Breton gọi thành này là thành Rú Mèo và không
nói rõ nguồn gốc. Nhờ bức ảnh này, chúng ta hình dung được cụ thể quy mô vị trí
của thành Phượng Hoàng vì các bức tường thành còn thể hiện rất rõ. Thành
phía đông bắc chạy sát theo chân núi Quyết ( Phượng Hoàng) .Phía nam thành cắt
ngang qua núi Mèo ( Kỳ Lân ) , có lẽ lợi dụng núi Mèo làm đồn gác, như Hoàng
Xuân Hãn phỏng đoán, cũng có thể đặt cột cờ trên núi này (vì nó ở phía nam) .
Thành phía tây cắt qua cánh đồng bằng phẳng, kẻ thành một đường thẳng tắp lên
sát núi Mũi Rồng (một nhánh của núi Quyết) .Bên ngoài tường thành là hào. Hào
phía tây và phía nam còn thể hiện rất rõ. Tòa thành gần như hình tam giác. Đỉnh
phía bắc có đền Rồng, phía nam Đền Rồng là thành Nội. Giữa thành nội là Lầu
Rồng ba tầng (xem bản đồ). Khu vực này nay là Lâm viên núi Quyết, thuộc địa
phận phường Trung Đô, thành phố Vinh.
Phượng Hoàng Trung đô dang dở một cách đáng
tiếc, như chính sự dang dở của triều đại Tây Sơn vậy !
ĐI TÌM VÓC DÁNG NGOẠI HÌNH VUA QUANG TRUNG
Quang Trung Nguyễn
Huệ là vị anh hùng lập nên những chiến công hiển hách trong lịch sử dân tộc:
Đánh tan 5 vạn quân xâm lược Xiêm trong trận Rạch Gầm –Xoài Mút (1785); đánh đổ
hai tập đoàn phong kiến Trịnh –Nguyễn chia cắt đất nước ta suốt hơn hai thế kỷ,
đưa non sông quy về một mối (1785-1786); tiêu diệt 29 vạn quân xâm lược Mãn
Thanh, giải phóng đất nước thoát khỏi nạn ngoại xâm (1789). Chỉ mấy năm ngắn
ngủi, chiến công nối tiếp chiến công, đã đưa ông lên hàng thiên tài quân sự tầm
cỡ thế giới. Hình ảnh của ông mãi mãi tượng trưng cho tinh thần bất khuất, ý
chí quật cường của dân tộc ta. Việc tìm hiểu ngoại hình cũng như chân dung của
ông góp phần làm thỏa mãn tấm lòng ngưỡng vọng của chúng ta đối với người anh
hùng dân tộc.
Hình ảnh Quang Trung qua ghi
chép
Sử sách xưa ghi
chép về ngoại hình của nhân vật lịch sử rất sơ sài. Theo Hoàng Lê nhất thống
chí thì vẻ mặt của Quang Trung “rực rỡ, nghiêm nghị”: “Vua Lê sai các quan lần
lượt đến yết kiến. Thấy thần sắc của Bắc Bình Vương rực rỡ, nghiêm nghị, ai
cũng hãi hùng”. Rực rỡ, đó là hào quang rạng rỡ của người chiến thắng. Nghiêm
nghị, đó là cái uy vũ của Quang Trung, khiến cho kẻ thù phải run sợ. Sử gia nhà
Nguyễn mô tả: “Huệ tiếng nói như chuông, mắt lập lòe ánh điện, là người thông
minh, giảo hoạt, giỏi chiến đấu, người người đều kinh sợ” (Đại Nam chính biên
liệt truyện). Một sử gia khác mô tả: “Huệ ban đêm ngồi không có ánh đèn, ánh
sáng từ mắt soi sáng cả chiếu, lúc lâm trận thì anh hùng lẫm liệt, cho nên mới
bình định được phương Nam, tiến đến đâu thì không ai hơn được” (Tây Sơn thuật
lược). Có lẽ tác giả của cuốn sách trên thấy Nguyễn Huệ ban đêm làm việc không
cần đèn mà nói quá lên như thế chăng? Nhưng dù sao thì qua hai cách mô tả trên
ta có thể thấy Nguyễn Huệ có đôi mắt rất sáng, đó là cặp mắt thông minh sắc sảo
(mà sử gia nhà Nguyễn do ác cảm mà dùng từ “giảo hoạt”). Cặp mắt đó soi thấu
tận tim gan người đối thoại , khiến cho kẻ dưới quyền thì không dám dối trá,
còn kẻ thù thì run sợ.
Tác giả Minh đô sử
lại cho chúng ta hình ảnh một Nguyễn Huệ rất đĩnh đạc với nhung phục chỉnh tề,
dung mạo hùng vĩ, trong một cảnh tượng rất đẹp: “Văn Huệ tiến quân đến bến Tây
Long, ngồi đĩnh đạc trên tấm ván cao đặt trong thuyền, dung mạo hùng vĩ, nhung
phục chỉnh tề, các tướng sĩ đứng vòng hai bên tả hữu. Trông thấy ai cũng
nói: “Bắc Bình Vương là vị thần sống vậy. Rồi cùng nhau tấm tắc ngợi khen mãi
không thôi” .Đấy là cảnh Nguyễn Huệ trong lần tiến quân ra bắc diệt Trịnh
(1786). Còn đây là cảnh được tả lại trong trận tấn công tiêu diệt quân Thanh: “
Ông liền bỏ voi dùng ngựa. Theo lời đồn, ông đeo hai thanh kiếm, chạy ngang
dọc, đã chém rơi đầu nhiều tướng tá và binh lính Trung Hoa, ông luôn miệng hô
xung phong và lúc nào cũng có mặt ở tuyến đầu của trận chiến” ( Nhật ký của Hội
truyền giáo Bắc Kỳ)
Chân dung Quang Trung.
Các họa sĩ nhà
Thanh đã để lại bức họa về Quang Trung rất đẹp. Trong bức họa này, Quang Trung
cưỡi trên mình ngựa, đầu đội mũ trụ, mình khoác nhung phục, trong tư thế của
một võ tướng oai phong. Như chúng ta đã biết năm 1790, vua Càn Long nhà
Thanh tổ chức mừng thọ “ bát tuần vạn thọ” ( sinh nhật 80 tuổi), có yêu
cầu đích thân quốc vương An Nam đến Yên Kinh triều kiến để tăng thêm phần trọng
thể. Tất nhiên, Quang Trung không thể thỏa mãn đòi hỏi đó, bởi vì:
Một là, nước ta
vừa trải qua một cuộc chiến tranh tàn khốc ở phía Bắc. Trong Nam , mấy lần
Nguyễn Ánh lăm le trở lại đứng chân ở Gia Định. Người đứng đầu nhà nước có bao
nhiêu công việc cần kíp phải giải quyết, làm sao có thì giờ để đi sang Trung
Hoa, mà nhanh nhất cũng mất 7-8 tháng ( trong thực tế, đoàn của quốc vương giả
xuất phát từ Phú Xuân ngày 29-3, đến Yên Kinh, khi trở về tới biên giới Việt
Trung đã là 29-11, tức đúng 8 tháng).
Hai là, năm trước(
1789) Quang Trung vừa tiêu diệt hơn 20 vạn quân Thanh. Ai có thể lường trước
được những mưu mô xảo quyệt, những hiểm họa bất ngờ từ phía vua nhà Thanh hay
thân nhân của những tướng sỹ vừa chết trận một khi Quang Trung lưu lại lâu trên
đất Trung Hoa? Chính vì vậy mà Quang Trung nhất quyết không đi; còn Càn Long
thì đòi cho bằng được. Việc đó đặt các viên quan lại thừa hành vào tình thế rất
nan giải. Để giải quyết bế tắc, Phúc Khang An, tổng đốc Lưỡng Quảng ( mới được
thay Tôn Sỹ Nghị) bèn gợi ý với ta là cần phải có một Quang Trung giả. Đây là
một giải pháp tình thế, không kém phần mạo hiểm nhưng không còn cách nào khác.
Bởi vì chỉ cần một sơ suất nhỏ làm công việc bị bại lộ thì sẽ ảnh hưởng khôn
lường đến quan hệ bang giao giữa hai nước, đến tính mạng của cả đoàn sứ bộ của
ta, cũng như ngay mạng sống của Phúc Khang An.Chính
vì vậy mà đoàn sứ bộ phải được chuẩn bị rất kỹ lưỡng, các thành viên
trong đoàn sẽ phải là những tay đóng kịch giỏi. Những vai kịch đó không
phải chỉ diễn mấy giờ trên sân khấu mà là cả mấy tháng trời trên đất Trung Hoa,
mà vai kịch khó khăn nhất sẽ là Quang Trung giả, bởi vì tất cả mọi sự chú ý đều
hướng vao ông. Ngoài việc đóng kịch giỏi thì ông còn phải là người thông minh,
nhạy bén, ứng đối nhanh và nhất là phải có ngoại hình giống Quang Trung, không
giống được 100% thì cũng phải đến 80-90% rồi hóa trang thêm. Bởi vì Quang Trung
là một người nổi tiếng,sẽ có rất nhiều người biết ông. Đây lại là một sự kiện
ngoại giao quan trọng nên rất nhiều người chú ý đến, trong đó có không ít sự tò
mò, thóc mách ( không loại trừ có cả điệp viên dò la tình hình trong vai
những người phục dịch). Thế nhưng, sứ đoàn của ta đã hoàn thành xuất sắc chuyến
đi, vở kịch được đóng khéo đến mức cả triều đình nhà Thanh và Càn Long không
mảy may nghi ngờ. Trước khi đoàn ta ra về, Càn Long đã cho mời họa sỹ đến để vẽ
chân dung cho Quang Trung. Bức vẽ đó được lưu giử trong kho tàng cổ họa Trun
Hoa, sau đó được in trong sách Mãn Châu cổ họa, các sách báo của ta đã in lại
từ sách này. Đây là chân dung Quang Trung giả, nhưng như chúng tôi đã phân tích
ở trên, ít nhất thì cũng có đến 80-90% giống Quang Trung thật. Nó là một bức
họa quý giúp chúng ta hình dung được diện mạo của Quang Trung.
Tượng Quang Trung
Pho tượng này được
thờ trong chùa Bộc( Đống Đa, Hà Nội) mà chúng tôi đã có dịp mô tả . Chùa Bộc
nằm cách gò Đống Đa khoảng 300m. Mùa đông năm Mậu Thân ( 1788), khi quân Thanh
sang xâm lược nước ta, chua Bộc nằm trong phạm vi đóng quân của tướng giặc Sầm
Nghi Đống. Khi Đô đốc Long đem quân tiêu diệt cứ điểm này, chùa bị cháy trụi
vì trận “ Rồng lửa” của quân ta. Sau khi giải phóng Thăng Long, Quang
Trung đã cho xây dựng lại chua Bộc. Ở đây còn lại nhiều di tích của triều đại
Tây Sơn như tấm bia đá tạc năm Quang Trung thứ tư ( 1792) và quả chuông đồng
đúc thời Cảnh Thịnh (1797). Nhân dân khu vực Khương Thượng nói chung và các vị
sư sãi nói riêng chịu ơn của Quang Trung và triều đại Tây Sơn. Năm 1802, khi
triều đại này sụp đổ, một số quân tướng Tây Sơn để tránh sự trả thù của triều
Nguyễn đã vào gửi thân tại chùa này và được các vị sư sãi chùa Bộc che chở.
Trong số đó có ông Nguyễn Kiên, trước là chỉ huy một đội tượng binh của Tây Sơn
(Sau đại thắng mùa xuân Kỷ Dậu 1789, chùa Bộc là địa điểm tập kết tượng binh
của Tây Sơn, hiện nay ở đây còn di tích hồ Tắm Tượng. Có thể Nguyễn Kiên đã
quen biết các vị sư sãi chùa Bộc trong thời gian này). Nguyễn Kiên vào ẩn trong
chùa, tu hành, sau này trở thành vị sư trụ trì chùa. Năm 1846, vào thời vua
Thiệu Trị, khi sự trả thù của nhà Nguyễn không còn gắt gao như trước, ông đã
cho tạc bức tượng Quang Trung (dưới dạng tượng Đức Ông ) để thờ. Nguyễn Kiên là
tướng của Tây Sơn, vì vậy hình ảnh Quang Trung trong tâm khảm ông không bao giờ
phai mờ. Các nghệ nhân đã tạc pho tượng Quang Trung theo ký ức mà Nguyễn Kiên
đã mô tả. Hai bên Quang Trung con hai pho tượng hai vị đại thần , một văn quan
và một võ tướng (nhiều người cho rằng đó là tượng Ngô Thì Nhậm và Ngô Văn Sở),
tuy nhiên hai pho tượng này được tạc sơ sài, không có cá tính. Tất cả sự chú ý,
công phu, tài khéo léo của nghệ nhân đều tập trung khắc họa nhân vật chủ chốt
là Quang Trung. Vì vậy ta có thể coi pho tượng này như là hình ảnh của Quang
Trung. Tuy nhiên, để tránh sự soi mói của vua quan nhà Nguyễn, các nghệ nhân
xưa đã không thể tạc hoàn toàn chính xác như hình ảnh thật của Quang Trung mà
phải khôn khéo che mắt kẻ thù. Sự che mắt đó thể hiện ở đôi tai và bộ râu của
pho tượng được tạc theo khuôn mẫu ước lệ, truyền thống. Nếu chúng ta bỏ qua
những chi tiết ước lệ này thì giữa chân dung vua Quang Trung do họa sĩ nhà
Thanh vẽ và pho tượng Quang Trung ở chùa Bộc sẽ có sự tương đồng.
Tìm lại vóc dáng
ngoại hình cũng như chân dung vua Quang Trung là thể hiện lòng ngưỡng mộ của
chúng ta đối với vị Hoàng đế anh hùng. Mặt khác, việc đó sẽ giúp ích cho các
nhà điêu khắc, các nhà điện ảnh, sân khấu thể hiện hình tượng Quang Trung trong
các tác phẩm của mình được chân thực hơn, chính xác hơn . / .
PDKẢnh: 1.Chân dung vua Quang Trung (giả) do Họa sĩ cung đình nhà Thanh vẽ năm 1790.
2.Tượng Quang Trung tại chùa Bộc, Đống Đa, Hà Nội.
*
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét