PHAN DUY KHA
CẢM NHẬN VÀ
LẮNG ĐỌNG
(Viết về những người mà tôi từng biết và quý trọng)
PHAN
DUY KHA
*
TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN :
-
Nhìn lại Lịch sử (In chung ba tác giả, Nxb Văn hóa- Thông tin, 2003)
-
Lịch sử và sự Ngộ nhận (Nxb Từ điển Bách khoa, 2008)
-
Nhìn về thời đại Hùng Vương (Nxb Lao Động, 2009)
-
Trải nghiệm đời người (Nxb Lao Động , 2009)
-
Từ điện Kính Thiên triều Lê đến Tổng Hành dinh thời đại Hồ Chí Minh (Nxb Dân
trí, 2010)
.
*
SÁCH IN CHUNG :
-
Hoàng Sa- Trường Sa , máu thịt Việt Nam (Nxb Thông tin và Truyền thông,
2014)
-
Hiền tài đất Việt (Nxb Lao Động, 2005)
-
Lễ Nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ và thảm án Lệ Chi Viên (Nxb Văn hóa – Thông tin,
2004)
-
Họ Phùng Việt Nam
(Nxb Lao Động, 2011)
-
Thế giới trong ta, những bài hay nhất (Nxb Văn hóa- Thông tin, 2004)
-
Danh nhân Phan Kính (Nxb Khoa học Xã hội, 1999)
-
Cội nguồn 6 (Nxb Văn hóa – Thông tin, 2004)
-
Họ Phan trong cộng đồng dân tộc Việt Nam (Nxb Văn hóa –Thông tin, 1997)
.
*
CÁC TRANG MẠNG :
1. phanduykha.wordpress.com
2. phanduykha.blogspot.com
3. duykhaphan.blogtiengviet.net .
HỌA SĨ NAM SƠN, NGƯỜI ĐẶT
NỀN MÓNG ĐẦU TIÊN CHO NỀN MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM
Trọn đời cho nền nghệ thuật hội họa
Trọn đời cho nền nghệ thuật hội họa
Họa
sĩ Nam Sơn tên thật là Nguyễn Vạn Thọ (1890 – 1973) . Trong truyền thống tên
đệm Việt Nam
thường phổ biến tên đệm là Văn, vì vậy nhiều tài liệu ghi tên ông là Nguyễn Văn
Thọ là không chính xác. Ông quê gốc ở huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc (nay là thị
trấn Thanh Lãng huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc) nhưng sinh ra trong một gia đình
dòng dõi gia thế ở Hà Nội. Cha ông nguyên là Thư ký Phủ Thống sứ Bắc Kỳ, mất
sớm khi ông mới lên 4 tuổi. Mẹ ông một mình ở vậy tảo tần nuôi con, được vua
Bảo Đại ngự ban kim khánh khắc 4 chữ “Tiết hạnh khả phong” để biểu dương. Thuở
ấy được vua ngự ban kim khánh như thế là một vinh dự tột bậc, rất hiếm người có
được
Họa sĩ Nam Sơn có năng khiếu
hội họa bẩm sinh và ham mê hội họa từ nhỏ. Ông được các nhà nho Phạm Như Bình
và Nguyễn Sĩ Đức dạy chữ Nho và dạy vẽ. Ông sớm tiếp xúc với nền nghệ thuật hội
họa cổ Phương Đông: Việt Nam ,
Trung Quốc, Nhật Bản. . . Sau khi tốt nghiệp Trường Bưởi (trường Bảo hộ), ông
vào làm việc cho Sở Tài chính Đông Dương. Tuy làm công tác tài chính bận rộn
nhưng ông vẫn tranh thủ ngoài giờ (nay ta gọi là nghề tay trái) vẽ tranh minh
họa cho các báo và sách giáo khoa. Ngày nay, những người ở độ tuổi 70- 80 trở
lên không thể không nhớ đến những bức tranh minh họa nho nhỏ nhưng rất sinh động,
rất có hồn trong bộ sách Quốc văn giáo khoa thư. Năm 1923, ông tham gia đấu xảo
(nay ta gọi là triển lãm) đầu tiên tại Hà Nội với 4 bức tranh: Nhà nho xứ Bắc,
Ông già Kim Liên, Cô gái Bắc Kỳ và Tĩnh vật là những bức tranh sơn dầu đầu tiên
của Việt Nam (tranh sơn dầu là kỹ thuật vẽ tranh của phương Tây, cho đến lúc
đó ở ta chưa hề có ai vẽ tranh sơn dầu). Năm 1925, ông cùng Họa sĩ tên
tuổi người Pháp V. Tac đi ơ ( V. Tardieu) đồng sáng lập trường Cao đẳng Mỹ
thuật Đông Dương . Năm 1930, ông tham gia Triển lãm Hội họa Pa ri với bức tranh
“ Chợ gạo bên sông Hồng”, là tác phẩm Việt Nam đầu tiên (và duy nhất) được Nhà
nước Pháp mua và trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Quốc gia Pháp.Năm 1946, Bộ
Quốc gia giáo dục của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mời ông làm cố vấn của
Viện Phương Đông Bác cổ. Năm 1957, thành lập Hội Mỹ thuật Việt Nam ,
ông được bầu vào Ban chấp hành, va giữ chức danh này cho đến khi mất .
Đồng sáng lập trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông
Dương
Về việc ông là người đồng sáng lập Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, có lẽ còn nhiều người chưa biết. Ngay từ năm 1923 ông đã có bản thảo Đề cương Mỹ thuật Việt Nam, trong đó lần đầu tiên ông đề cập đến việc xây dựng một nền mỹ thuật Việt Nam vừa dân tộc vừa hiện đai. Ông viết: “Lập nên một trường Đại học để đào tạo lấy nghệ sĩ có tài duy trì lấy nền tảng Mỹ thuật của tổ tiên để lại, ngõ hầu cải tạo, sáng tác lấy một nền Mỹ thuật Đông Phương có cá tính Việt Nam” . Cách nói của ông cách đây gần 80 năm nhưng cũng rất gần với cách nói của chúng ta ngày nay là “hiện đại nhưng đậm đà bản sắc dân tộc” đó sao?
Về nội dung giảng dạy hay là cơ cấu của Trường Mỹ thuật, ông đã hình dung rất cụ thể. Trường gồm có 7 Ban (như ngày nay ta gọi là Khoa hay Bộ môn) : Ban Hội họa, ban Kiến trúc, ban Điêu khắc, ban Sơn Việt Nam, ban Trang hoàng, ban Khắc, ban Bồi tranh lụa tranh giấy. Trong từng ban đó, ông cũng mô tả rất cụ thể. Ví dụ, Ban Hội họa có ba tiểu ban : 1.Họa theo lối Châu Âu, tả thực bằng than, chì, mực tàu, thuốc nước, sơn dầu.
Về việc ông là người đồng sáng lập Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, có lẽ còn nhiều người chưa biết. Ngay từ năm 1923 ông đã có bản thảo Đề cương Mỹ thuật Việt Nam, trong đó lần đầu tiên ông đề cập đến việc xây dựng một nền mỹ thuật Việt Nam vừa dân tộc vừa hiện đai. Ông viết: “Lập nên một trường Đại học để đào tạo lấy nghệ sĩ có tài duy trì lấy nền tảng Mỹ thuật của tổ tiên để lại, ngõ hầu cải tạo, sáng tác lấy một nền Mỹ thuật Đông Phương có cá tính Việt Nam” . Cách nói của ông cách đây gần 80 năm nhưng cũng rất gần với cách nói của chúng ta ngày nay là “hiện đại nhưng đậm đà bản sắc dân tộc” đó sao?
Về nội dung giảng dạy hay là cơ cấu của Trường Mỹ thuật, ông đã hình dung rất cụ thể. Trường gồm có 7 Ban (như ngày nay ta gọi là Khoa hay Bộ môn) : Ban Hội họa, ban Kiến trúc, ban Điêu khắc, ban Sơn Việt Nam, ban Trang hoàng, ban Khắc, ban Bồi tranh lụa tranh giấy. Trong từng ban đó, ông cũng mô tả rất cụ thể. Ví dụ, Ban Hội họa có ba tiểu ban : 1.Họa theo lối Châu Âu, tả thực bằng than, chì, mực tàu, thuốc nước, sơn dầu.
2.a/Họa theo lối Đông
Phương, tả thực và tưởng tượng, vẽ dùng trí nhớ bằng bút nho, mực ta, sơn,
thuốc nước, vẽ vào giấy , lụa.
b/ Viết chữ, học đủ các lối
chân phương, triện, lệ, thảo, học đủ các nét, các cách cầm bút, dùng mực, thuốc
(ngày nay ta gọi là thư họa)
c/Thuộc giấy, lụa phỏng theo cổ nhân v.v. . .
c/Thuộc giấy, lụa phỏng theo cổ nhân v.v. . .
Các Ban
kia ( như Kiến trúc, Điêu khắc. . .) ông cũng chỉ dẫn cụ thể, tỷ mỉ như thế.
Cũng từ Bản đề cương này mà ông thuyết phục được Họa sĩ danh tiếng người Pháp V. Tac đi ơ để ông này đề nghị lên nhà nước Bảo hộ đi đến thành lập Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương vào năm 1925. Về sự kiện thành lập trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương, nhiều người ngay cả những sinh viên trường Đại học Mỹ Thuật ngày nay cũng không hề biết rằng, họa sĩ Nam Sơn là người đồng sáng lập. Ngay sách báo của ta trước đây cũng không hề đề cập đến vấn đề này. Chính những người Pháp là những người đầu tiên ghi nhận công lao đóng góp của Họa sĩ Nam Sơn: Ông là một trong hai người đồng sáng lập và là Giáo sư chuyên ngành bậc 2, phụ trách môn Đồ họa và trang trí. Cuốn sách “Pa ri- Hà Nội- Sài gòn cuộc phiêu lưu của hội họa hiện đại Việt Nam” do các nhà bảo tàng Pa ri xuất bản năm 1998 xác nhận: “” Qua những cuộc trao đổi giữa họ (tức V.Tac đi ơ và Nam Sơn) nảy ra ý kiến thành lập một trường Mỹ thuật ở Hà Nội. Nam Sơn thuyết phục V. Tac đi ơ tiến hành vận động cần thiết để có thể tiến hành khai giảng và điều hành nhà trường. Chính thức được thành lập do một nghị định của Toàn quyền Merlin, trường này nói cho đúng là kết quả tình bạn kỳ lạ giữa hai người. Vị trí và vai trò của Nam Sơn được Toàn quyền Đông Dương xác nhận rất rõ ràng trong cuốn “ Các trường Mỹ thuật Đông Dương” xuất bản ở Hà Nội năm 1937: Ông Nam Sơn, Giáo sư chuyên ngành bậc 2 là một trong hai người sáng lập trường Mỹ thuật Đông Dương, dạy Hình họa và trang trí” ( sách đã dẫn).
Cũng từ Bản đề cương này mà ông thuyết phục được Họa sĩ danh tiếng người Pháp V. Tac đi ơ để ông này đề nghị lên nhà nước Bảo hộ đi đến thành lập Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương vào năm 1925. Về sự kiện thành lập trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương, nhiều người ngay cả những sinh viên trường Đại học Mỹ Thuật ngày nay cũng không hề biết rằng, họa sĩ Nam Sơn là người đồng sáng lập. Ngay sách báo của ta trước đây cũng không hề đề cập đến vấn đề này. Chính những người Pháp là những người đầu tiên ghi nhận công lao đóng góp của Họa sĩ Nam Sơn: Ông là một trong hai người đồng sáng lập và là Giáo sư chuyên ngành bậc 2, phụ trách môn Đồ họa và trang trí. Cuốn sách “Pa ri- Hà Nội- Sài gòn cuộc phiêu lưu của hội họa hiện đại Việt Nam” do các nhà bảo tàng Pa ri xuất bản năm 1998 xác nhận: “” Qua những cuộc trao đổi giữa họ (tức V.Tac đi ơ và Nam Sơn) nảy ra ý kiến thành lập một trường Mỹ thuật ở Hà Nội. Nam Sơn thuyết phục V. Tac đi ơ tiến hành vận động cần thiết để có thể tiến hành khai giảng và điều hành nhà trường. Chính thức được thành lập do một nghị định của Toàn quyền Merlin, trường này nói cho đúng là kết quả tình bạn kỳ lạ giữa hai người. Vị trí và vai trò của Nam Sơn được Toàn quyền Đông Dương xác nhận rất rõ ràng trong cuốn “ Các trường Mỹ thuật Đông Dương” xuất bản ở Hà Nội năm 1937: Ông Nam Sơn, Giáo sư chuyên ngành bậc 2 là một trong hai người sáng lập trường Mỹ thuật Đông Dương, dạy Hình họa và trang trí” ( sách đã dẫn).
Người thầy của những bậc danh họa
Là Giáo sư giảng dạy tại
Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương trong vòng 20 năm (1925 – 1945), Họa sĩ Nam
Sơn đã góp phần đào tạo được một thế hệ họa sĩ nổi tiếng của nền hội họa đương
đại Việt Nam. Chúng ta có thể kể đến những tên tuổi những họa sĩ danh tiếng như
: Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Công Văn Trung, Nguyễn Phan Chánh, Tô Ngọc Vân, Nguyễn
Cao Luyện, Nguyễn Đỗ Cung, Trần Văn Cẩn, Lương Xuân Nhị, Hoàng Lập Ngôn, Sĩ
Ngọc, Trần Đình Thọ, Diệp Minh Châu, Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tư
Nghiêm, Dương Bích Liên, Tạ Thúc Bình, Phan Kế An. . . Và nhiều người nữa mà
tên tuổi của họ đã làm rạng danh nền hội họa đương đại Việt Nam . Thật là vinh dự cho Giáo sư –
Họa sĩ Nam Sơn khi ông đã góp phần đào tạo nên những họa sĩ danh tiếng như thế.
Sau ngày Nhật đảo chính
Pháp, những người Pháp hoặc bị bắt, hoặc bỏ về nước, Họa sĩ Nam Sơn trở thành
Hiệu trưởng trường Mỹ thuật Đông Dương cho đến tháng 8-1945. Sau ngày ta giành
được chính quyền (9- 1945), trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương bị giải thể,
Họa sĩ Nam Sơn được chính quyền cách mạng mời tham gia làm Cố vấn cho Viện
Phương Đông Bác cổ. Danh sách Ban cố vấn do Bộ trưởng Vũ Đình Hòe ký bổ nhiệm,
ta thấy có các tên tuổi sau: Vĩnh Thụy (tức vua Bảo Đại), Đào Duy Anh, Ngô Đình
Nhu, và Nguyễn Vạn Thọ tức Nam Sơn.
Năm 1957, Hội Mỹ thuật Việt
Nam được thành lập, họa sĩ Nam Sơn được bầu vào Ban chấp hành, và ông giữ
chức danh đó cho đến khi qua đời, vào năm 1973.
Có thể nói, họa sĩ Nam Sơn là người đặt nền móng đầu tiên cho nền Mỹ thuật đương đại ViệtNam .
Có thể nói, họa sĩ Nam Sơn là người đặt nền móng đầu tiên cho nền Mỹ thuật đương đại Việt
*
Thư của ông
Nguyễn An Kiều , con trai nhà Danh họa Nam Sơn gửi Tác giả, sau khi đọc bài
viết trên :
Kính gưi nhà Nghiên cứu Phan Duy Kha ,
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn ông Kha đã có bài viết về họa sĩ Nam Sơn Nguyễn Vạn Thọ ( 1890-1973), người cha chúng tôi, với
bức ảnh chân dung do nhà nhiếp ảnh Nguyệt Diệu thực hiện,cùng rất nhiều chi tiết lịch sử chính xác về cuộc đời, tác phẩm của họa sĩ ,đặc biệt việc cùng họa sĩ Victor Tardieu ( 1870-1937) thành lập Trường Mỹ thuật Đông Dương năm1925 ,mà các sách báo ở Việt Nam và nước ngoài đã nói nhiều từ hơn 80 năm nay ,nhưng có họa sĩ đã học ,làm việc ở trường đó vẫn chưa biết !
Bài viết của ông ,trình bày các tư liệu lịch sử hội họa theo bố cục riêng, phương pháp luận chặt chẽ ,sẽ đem lại nhiều kiến thức lịch sử hội họa cho lớp họa sĩ trẻ , để sau này họ không phải mất công đi hỏi người nước ngoài về lịch sử hội họa hiện đại Việt Nam của ông cha từ đầu thế kỷ XX ,và biết tự hào thêm về một nền hội họa vừa hiện đại vừa có tính chất dân tộc ,đã có truyền thống lâu đời từ bao thế kỷ nay ,từ khi nhiều nơi trên thế giới còn có những vua chúa chưa biết … chữ viết !
Đây không phải ý kiến mới của chúng tôi ! Từ 80 năm nay, một nhà nghiên cứu người Pháp ,đến Việt Nam , cũng như nhiều nhà nghiên cứu khác ,đã có suy nghĩ như vậy năm 1930 ,khi nói về sự khó khăn trong việc thực thi giáo dục ở Việt Nam., “nơi đã tiếp xúc từ xa xưa với các nền văn minh lâu đời ” !.
(Xin tham khảo tư liệu : Tạp chí ” Les collections de l’histoire ”, số 23, tháng 4 năm 2004, đã xuất bản tại Paris , mà chúng tôi đã có
dịp trao đổi cùng nhiều giáo sư lịch sử Việt nam và ngoại quốc ).
Chúng tôi cũng xin trân trọng cảm ơn ông đã có bài viết rất đặc biệt ,rất chính xác về cụ Tổ chúng tôi, Hoàng giáp Chánh sứ Nguyễn Duy Hiểu ( 1602- 1639) , người trưởng nam của Thái Tể Nguyễn Duy Thì ( 1572-1651), trả lại những trang lịch sử oai hùng đầy tự hào của dân tộc ta từ hơn 3 thế kỷ nay !
Một lần nữa ,xin cảm ơn nhà nghiên cứu Phan Duy Kha và hy vọng được đọc thêm nhiều bài viết giá trị của ông trên các sách báo.
Trân trong !
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn ông Kha đã có bài viết về họa sĩ Nam Sơn Nguyễn Vạn Thọ ( 1890-1973), người cha chúng tôi, với
bức ảnh chân dung do nhà nhiếp ảnh Nguyệt Diệu thực hiện,cùng rất nhiều chi tiết lịch sử chính xác về cuộc đời, tác phẩm của họa sĩ ,đặc biệt việc cùng họa sĩ Victor Tardieu ( 1870-1937) thành lập Trường Mỹ thuật Đông Dương năm1925 ,mà các sách báo ở Việt Nam và nước ngoài đã nói nhiều từ hơn 80 năm nay ,nhưng có họa sĩ đã học ,làm việc ở trường đó vẫn chưa biết !
Bài viết của ông ,trình bày các tư liệu lịch sử hội họa theo bố cục riêng, phương pháp luận chặt chẽ ,sẽ đem lại nhiều kiến thức lịch sử hội họa cho lớp họa sĩ trẻ , để sau này họ không phải mất công đi hỏi người nước ngoài về lịch sử hội họa hiện đại Việt Nam của ông cha từ đầu thế kỷ XX ,và biết tự hào thêm về một nền hội họa vừa hiện đại vừa có tính chất dân tộc ,đã có truyền thống lâu đời từ bao thế kỷ nay ,từ khi nhiều nơi trên thế giới còn có những vua chúa chưa biết … chữ viết !
Đây không phải ý kiến mới của chúng tôi ! Từ 80 năm nay, một nhà nghiên cứu người Pháp ,đến Việt Nam , cũng như nhiều nhà nghiên cứu khác ,đã có suy nghĩ như vậy năm 1930 ,khi nói về sự khó khăn trong việc thực thi giáo dục ở Việt Nam., “nơi đã tiếp xúc từ xa xưa với các nền văn minh lâu đời ” !.
(Xin tham khảo tư liệu : Tạp chí ” Les collections de l’histoire ”, số 23, tháng 4 năm 2004, đã xuất bản tại Paris , mà chúng tôi đã có
dịp trao đổi cùng nhiều giáo sư lịch sử Việt nam và ngoại quốc ).
Chúng tôi cũng xin trân trọng cảm ơn ông đã có bài viết rất đặc biệt ,rất chính xác về cụ Tổ chúng tôi, Hoàng giáp Chánh sứ Nguyễn Duy Hiểu ( 1602- 1639) , người trưởng nam của Thái Tể Nguyễn Duy Thì ( 1572-1651), trả lại những trang lịch sử oai hùng đầy tự hào của dân tộc ta từ hơn 3 thế kỷ nay !
Một lần nữa ,xin cảm ơn nhà nghiên cứu Phan Duy Kha và hy vọng được đọc thêm nhiều bài viết giá trị của ông trên các sách báo.
Trân trong !
Nguyễn An Kiều, con trai Nhà
Họa sĩ Nam Sơn, 68 Nguyễn Du, Hà Nội.
GIÁO SƯ NGUYỄN ĐÌNH TỨ : KHOA HỌC VÀ ĐỜI THƯỜNG
Tuổi
trẻ thông minh và sáng tạo.
Ngày 1.10.2012, tại hội trường Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ban Tuyên giáo Trung ương và Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm lần thứ 80 ngày sinh của cố Giáo sư Nguyễn Đình Tứ (1932 – 1996), nhà hoạt động chính trị xuất sắc, nhà khoa học lỗi lạc của thời đại chúng ta.
Giáo sư Nguyễn Đình Tứ sinh ngày 1.10.1932 trong một gia đình trí thức yêu nước, giàu truyền thống cách mạng. Ông quê ở làng Nguyễn Xá, xã Song Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh. Như tên làng đã chỉ rõ, làng Nguyễn Xá có nghĩa là làng của những người họ Nguyễn. Hầu hết dân cư ở đây mang họ Nguyễn. Cùng là họ Nguyễn, nhưng có ba họ lớn: Họ Nguyễn Huy, họ Nguyễn Xuân và họ Nguyễn Văn. Ông thuộc dòng họ Nguyễn Xuân, dòng họ lớn và đông nhất trong làng
Ngày 1.10.2012, tại hội trường Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ban Tuyên giáo Trung ương và Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm lần thứ 80 ngày sinh của cố Giáo sư Nguyễn Đình Tứ (1932 – 1996), nhà hoạt động chính trị xuất sắc, nhà khoa học lỗi lạc của thời đại chúng ta.
Giáo sư Nguyễn Đình Tứ sinh ngày 1.10.1932 trong một gia đình trí thức yêu nước, giàu truyền thống cách mạng. Ông quê ở làng Nguyễn Xá, xã Song Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh. Như tên làng đã chỉ rõ, làng Nguyễn Xá có nghĩa là làng của những người họ Nguyễn. Hầu hết dân cư ở đây mang họ Nguyễn. Cùng là họ Nguyễn, nhưng có ba họ lớn: Họ Nguyễn Huy, họ Nguyễn Xuân và họ Nguyễn Văn. Ông thuộc dòng họ Nguyễn Xuân, dòng họ lớn và đông nhất trong làng
Nguyễn
Đình Tứ lớn lên vào buổi giao thời của đất nước, khi cách mạng mới thành công, chính
thể Dân chủ cộng hòa mới ra đời, nhưng rồi thực dân Pháp trở lại gây hấn, cuộc
kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Vì thế mà tuổi học sinh của anh đã phải theo cha
(là một nhà giáo), theo trường, đi hết nơi này đến nơi khác. Trước năm 1944,
anh theo học Trường Tiểu học An Lương, Bình Định, nơi người cha đang làm hiệu
trưởng trường này. Năm 1945, anh học trường Quốc học Quy Nhơn, sau đổi thành
Trường Trung học Võ Tánh; năm 1946, anh trở về Hà Tĩnh; Năm 1946- 1947 học
trường Quốc học Vinh, đệ tam niên; Năm 1947- 1948 học đệ tứ niên trường Phan
Đình Phùng, Đức Thọ; Năm 1948- 1949 trường Trung học chuyên khoa năm thứ nhất
trường Huỳnh Thúc Kháng (tiền thân là Trường Quốc học Huế), Châu Phong, Đức
Thọ, Hà Tĩnh . Như vậy là trong mấy năm trời, anh đi hết từ Bình Định, rồi lại
về Nghệ An, Hà Tĩnh. Ngay tại Nghệ An, Hà Tĩnh, nhà trường cũng phải sơ tán,
chuyển địa điểm nhiều nơi. Tuy phải di chuyển nhiều nơi, nhưng đến đâu, anh
cũng học rất giỏi, thường đứng đầu lớp. Vừa học năm thứ nhất chuyên khoa, anh
đã tự tìm hiểu, tự học chương trình năm thứ hai, và cuối năm, anh xin thi vượt
lớp, lên năm thứ ba, và đã đỗ đầu. Có thể nói, ở trong lớp, anh không hề có đối
thủ. Thầy dạy toán mỗi khi chữa bài tập trên bảng rồi, lúc nào cũng hỏi anh,
còn cách giải nào khác không. Lúc đó anh thường lên bảng trình bày cách giải
khác của anh, thường là độc đáo hơn, dễ hiểu hơn. Chỉ khi anh không có cách
giải nào khác thầy mới cho qua.
Khi chúng tôi lớn lên được ngồi trên ghế nhà trường, thì tên tuổi của anh đã lẫy lừng, ít nhất là trong phạm vi 12 nước Xã hội chủ nghĩa hồi đó. Những câu chuyện về anh được những người đi trước kể lại với tấm lòng thán phục pha chút tự hào. Chúng tôi coi anh là thần tượng. Chúng tôi nghe kể về tấm gương học tập của anh. Chuyện anh sáng chế ra chiếc kính Thiên văn như thế nào, chuyện anh dùng sợi dây mà làm sao tính được hàm số lượng giác.
Các bạn học lớp 12 bây giờ (trước đây là lớp 10) đều đã học qua về Quang học, đã biết thế nào là thấu kính lồi, lõm, thế nào là sự hội tụ, phân kỳ của tia sáng. Kính thiên văn hay kính hiển vi chẳng qua là sự bố trí sắp xếp các hệ thống thấu kính lồi, lõm sao cho góc kẹp của vật thể đến mắt là lớn nhất. Bây giờ bạn có thể ra thị trường mua đủ các loại thấu kính nhưng ngày xưa không hề có. Chính Nguyễn Đình Tứ đã xin các loại kính cận, kính viễn, thấu kính máy ảnh bị hỏng mà người ta thải ra để về lắp kính Thiên văn. Không đủ kính, anh tìm cách cưa đáy các chai rượu, để làm kính. Chúng ta biết, các chai rượu có đáy chai hình thấu kính lồi, hoặc lõm. Tuy nhiên, không phải đáy chai nào cũng dùng được. Chọn hàng chục chai, may ra được một chiếc là cùng. Lại phải cưa, rồi mài thế nào cho khéo mới dùng được. Ống kính thì anh dùng ống nứa. Rồi chiếc kính Thiên văn của anh cũng hoàn thành. Anh đem ra ngoài sân cho mọi người ngắm trăng, ngắm sao. Các bạn ai cũng trầm trồ, chưa ai từng thấy mặt trăng to và gồ ghề như thế. Chuyện dùng ống kính ngắm sao đồn ra xa, công an địa phương đã đến nhắc nhở và yêu cầu anh không được sử dụng kính Thiên văn nữa vì cho rằng đó là “khí cụ quân sự” ! Không được dùng kính thiên văn, anh lại cải tạo thành chiếc kính hiển vi để quan sát các con vi trùng trong nước.
Còn chuyện anh lập biểu đồ để tính hàm số lượng giác cũng đặc biệt. Chúng ta ai đã học qua cũng biết, vòng tròn lượng giác là vòng tròn có bán kính bằng 1 đơn vị. Giá trị của hình chiếu của bán kính này lên trục ngang (x) và trục đứng (y) chính là hàm số lượng giác sin và cos của góc mà bán kính quay đó tạo thành. Để biết giá trị này, ta phải có bảng tra (bây giờ thì trong máy tính có đủ cả). Nhưng hồi xưa, trong kháng chiến làm gì có sẵn bảng tra. Nguyễn Đình Tứ dùng một sợi dây, quy thành 1 đơn vị (ví dụ 1 mét chẳng hạn). Anh quay sợi dây quanh một tâm điểm, rồi đo hình chiếu của sợi dây lên trục ngang, trục dọc mà biết được hàm số lượng giác của một góc. Sau đó từ một số số liệu cơ bản mà anh lập thành biểu đồ. Tất nhiên, độ chính xác hoàn toàn dựa vào việc đo độ của góc quay và xác định hình chiếu lên các trục.
Là những người đồng hương ở thế hệ sau, những câu chuyện trên, chúng tôi được nghe các thầy kể lại cuối mỗi tiết học hay trong các giờ ngoại khóa. Bằng các câu chuyện này,các thầy không chỉ truyền đạt kiến thức cho chúng tôi mà còn qua đó giáo dục lòng đam mê khoa học, khơi gợi tính sáng tạo, cũng như những tấm gương vượt khó khăn, phấn đấu học tập vươn lên của các thế hệ đi trước. Mà tấm gương sáng chói nhất đó chính là Nguyễn Đình Tứ.
Nhà khoa học hàng đầu về vật lý hạt nhân
Năm 1957, sau khi tốt ngiệp Trường Đại học Thủy lợi Vũ Hán, Nguyễn Đình Tứ được nhà nước ta chọn sang Liên Xô, làm cộng tác viên khoa học tại Trung tâm Liên hiệp nguyên tử Đupna. Lúc này, anh mới 25 tuổi. Trung tâm Liên hiệp nguyên tử Đupna nằm tại thị trấn Đupna, trên bờ sông Vôn ga, ngoại ô thủ đô Mat cơ va. Đây là trung tâm nghiên cứu hiện đại nhất, tập trung các nhà khoa học đầu ngành về lĩnh vực nguyên tử hạt nhân của cả 12 nước Xã hội chủ nghĩa anh em thời bấy giờ trong sứ mệnh nghiên cứu các hạt cơ bản. ViệtNam ta lúc đó cử tới ba nhà khoa
học hàng đầu là Nguyễn Đình Tứ, Nguyễn Đình Công (tức Nguyễn Hoàng Phương) và
Dương Trọng Bái. Cũng phải nói thêm rằng, trước khi sang Đupna thì Nguyễn Đình
Tứ đang là kỹ sư Thủy lợi, ngành Thủy công, mới tốt nghiệp. Từ chuyên môn về
tính toán thủy điện, đê đập, Nguyễn Đình Tứ chuyển hẳn sang một lĩnh vực khác
hoàn toàn, không liên quan gì đến ngành học của mình, thế nhưng anh vẫn bắt
nhịp được với công việc của mình trên một lĩnh vực nghiên cứu mới mẻ. Đó là nhờ
trí thông minh siêu việt của anh, nhờ cái “nền” kiến thức khoa học đại cương mà
anh nắm rất vững, nhờ trình độ tiếng Nga mà anh đã mày mò tự học thêm từ khi
còn học đại học. Sau 4 năm làm việc ở Trung tâm nghiên cứu Đupna, nhóm công tác
của Nguyễn Đình Tứ hoàn thành một số công trình khoa học trong lĩnh vực vật lý
hạt nhân năng lượng cao, hay còn gọi là vật lý hạt cơ bản.
Trong hàng loạt công trình nêu trên, công trình phát hiện ra phản hạt sigma âm hyperôn là công trình có ý nghĩa quan trọng nhất. Trong các hạt cơ bản được phát hiện trước năm 1959, có một loại hạt mang tên sigma âm (hạt sigma mang điện âm). Đến năm 1960, nhóm công tác của Nguyễn Đình Tứ phát hiện ra phản hạt sigma âm. Thông báo của Trung tâm Đupna cho biết: “Đã phát hiện bằng thực nghiệm hiện tượng chưa biết trước đây, sự tạo thành phản hạt của hạt sigma âm với khối lượng 2.340 lần lớn hơn khối lương electron; tích điện dương; thời gian sống bằng một phần mười tỷ giây. Hạt mới này rất giống hạt sigma âm đã biết, chỉ khác là điện tích trái dấu, nó được gọi là phản hạt của hạt sigma âm hay gọi tắt là phản hạt sigma âm. Phát minh phản hạt sigma âm một lần nữa khẳng định luận thuyết về phản hạt đã được nhà vật lý lý thuyết lỗi lạc Dirac đề xuất năm 1928 và cùng với những phản hạt tìm thấy trước đó minh chứng thêm cho sự tồn tại phản vật chất. Phát minh về phản hạt sigma âm là một thành quả đặc sắc, một giai điệu đẹp nhất trong bản giao hưởng “tương tác của các hạt cơ bản và hạt nhân ở năng lượng cao” của Giáo sư Nguyễn Đình Tứ và tập thể khoa học mà anh đã gắn bó mật thiết” (Trích Nhà khoa học Nguyễn Đình Tứ, tài năng và phẩm cách, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2012) . Năm 1961, ngay sau khi công bố công trình, Nguyễn Đình Tứ đã nhận được giải thưởng của Hội đồng khoa học của Viện Liên hợp nghiên cứu nguyên tử Đupna. Năm 1968 chính phủ Liên Xô cấp bằng phát minh cho nhóm tác giả quốc tế, trong đó có “công dân nước ViệtNam
dân chủ cộng hòa- Nguyễn Đình Tứ”. Vào năm 2000, nhân kỷ niệm 55 năm
thành lập Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cố GS Nguyễn Đình Tứ đã
được nhà nước ta truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho công trình phát hiện
này.
Nguyễn Đình Tứ công tác tại Viện Liên hợp Nghiên cứu hạt nhân Đupna trong hai nhiêm kỳ từ tháng 8.1957 đến tháng 6.1963 và nhiệm kỳ hai từ tháng 6.1966 đến tháng 6.1971. Cả hai nhiệm kỳ đó ông đều đảm nhận trọng trách phụ trách đoàn cán bộ ViệtNam
công tác tại Đupna.
Vị Bộ trưởng ở nhà . . . chung cư
Năm 1971, về ViệtNam ,
đầu tiên, ông được giao làm Phó Hiệu trưởng trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Đầu
năm 1976 làm Thứ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (tức Bộ Giáo dục
và Đào tạo ngày nay). Từ tháng 7.1976, ông là Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học
chuyên nghiệp. Ông là vị Bộ trưởng đầu tiên sau khi nước nhà thống nhất. Ông
giữ trọng trách này cho đến năm 1986. “ Dưới cương vị lãnh đạo của mình,
GS và các cộng sự đã đưa ngành giáo dục đào tạo đi những bước táo bạo như sắp
xếp các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên ngiệp miền Nam theo mô hình
nhà trường xã hội chủ nghĩa thống nhất cả nước; mở ba trường dự bị đại học để
tạo nguồn cán bộ có trình độ cao cho các đối tượng chính sách, dân tộc miền
núi; thành lập tại các tỉnh trong cả nước năm trường trung học chuyên ngiệp
(nông nghiệp, công nghiệp, sư phạm, văn hóa) để đào tạo lực lượng lao động tại
chỗ cho địa phương; hệ thống đào tạo tại chức – tiền thân của các trung tâm
giáo dục thường xuyên ra đời” (Trích Nhà khoa học Nguyễn Đình Tứ, tài năng và
phẩm cách).
Tháng 2.1987, GS Nguyễn Đình Tứ được cử làm Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Quốc gia, Chủ nhiệm công nghệ sản xuất nguyên nhiên vật liệu hạt nhân. Từ tháng 9.1993 GS Nguyễn Đình Tứ được giao đảm nhận trọng trách Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện năng lượng nguyên tử ViệtNam . Ông được coi là người “tìm
đường mở lối” cho ngành năng lượng nguyên tử ở Việt Nam .
GS Nguyễn Đình Tứ dù ở cương vị công tác nào cũng luôn là người giản dị, chân thành, khiêm nhường, nói năng nhỏ nhẹ , điềm đạm. Đặc biệt, ông luôn trân trọng và lắng nghe ý kiến của cấp dưới. Dù cấp dưới nói những điều trái với suy nghĩ của mình, ông vẫn không ngắt lời, mà cố gắng lắng nghe hết ý kiến của họ, sau đó mới ôn tồn đáp lại. Thời kỳ bao cấp tình hình kinh tế rất khó khăn. Cán bộ công nhân viên đi làm thường mang theo cặp lồng cơm để ăn trưa. Bộ trưởng đi làm hằng ngày cũng mang theo cặp lồng cơm, với thức ăn là rau dưa như mọi người. Là bộ trưởng nhưng ông vẫn ở nhà tập thể. Hồi bấy giờ, ông được phân căn hộ hai buồng trên tầng 4, nhà B18, khu tập thể Kim Liên (quận Đống Đa).Thỉnh thoảng có khách ở xa đến, hay khách ở quê ra, lại phải trải chiếu nằm giữa sàn nhà. Năm 1978 có người thân của ông từ miềnNam ra chơi, đã vô cùng ngạc nhiên,
không ngờ một vị bộ trưởng mà lại ở nhà chung cư như thế. Nhà nước phân nhà cho
ông để xứng với cương vị bộ trưởng của ông, ông từ chối, cho rằng mình chưa
cống hiến được gì cho đất nước. Theo ông, còn có những vị lão thành cách mạng,
cống hiến nhiều mà vẫn phải ở nhà chật chội. Những người ấy còn cần hơn ông.
Mãi 5 năm sau, ông mới nhận căn biệt thự A2 Trung Tự và ở đấy cho đến khi mất.
Người ta xét nâng lương cho ông, ông xin để lại năm sau, vì một bậc lương của
ông bằng hai ba bậc lương của nhân viên khác. Để “suất” nâng lương đó cho nhân
viên dưới quyền thì được hai ,ba người, như thế là tốt hơn. GS Nguyễn Đình Tứ
là con người như thế. Chừng như trong tâm khảm của ông, ông luôn luôn tâm niệm
một điều: Mình đã làm gì cho Tổ quốc mà đòi hỏi Tổ quốc phải đãi ngộ này nọ.
Ông là mẫu mực một con người chân chính, với lối sống chân thành, giản
dị, đức độ, khiêm nhường, hết mình vì công việc; một nhà khoa học say mê nghiên
cứu tìm tòi, khám phá, sáng tạo không ngừng.
Ông từng là Bộ trưởng, là Ủy viên Trung ương, rồi Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng. Những chức vụ đó, chức trách đó, có thể nhiều người làm được. Nhưng, một nhà khoa học như Nguyễn Đình Tứ thì rất hiếm. Có khi vài ba thế hệ, thậm chí hàng trăm năm mới có một người !
GS Nguyễn Đình Tứ mất đột ngột vào ngày 28.6.1996 khi đang diễn ra Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 8. Giá như, ông chỉ chuyên tâm làm công tác khoa học mà không lấn sân sang địa hạt chính trị. Tiếc thay !
*
Khi chúng tôi lớn lên được ngồi trên ghế nhà trường, thì tên tuổi của anh đã lẫy lừng, ít nhất là trong phạm vi 12 nước Xã hội chủ nghĩa hồi đó. Những câu chuyện về anh được những người đi trước kể lại với tấm lòng thán phục pha chút tự hào. Chúng tôi coi anh là thần tượng. Chúng tôi nghe kể về tấm gương học tập của anh. Chuyện anh sáng chế ra chiếc kính Thiên văn như thế nào, chuyện anh dùng sợi dây mà làm sao tính được hàm số lượng giác.
Các bạn học lớp 12 bây giờ (trước đây là lớp 10) đều đã học qua về Quang học, đã biết thế nào là thấu kính lồi, lõm, thế nào là sự hội tụ, phân kỳ của tia sáng. Kính thiên văn hay kính hiển vi chẳng qua là sự bố trí sắp xếp các hệ thống thấu kính lồi, lõm sao cho góc kẹp của vật thể đến mắt là lớn nhất. Bây giờ bạn có thể ra thị trường mua đủ các loại thấu kính nhưng ngày xưa không hề có. Chính Nguyễn Đình Tứ đã xin các loại kính cận, kính viễn, thấu kính máy ảnh bị hỏng mà người ta thải ra để về lắp kính Thiên văn. Không đủ kính, anh tìm cách cưa đáy các chai rượu, để làm kính. Chúng ta biết, các chai rượu có đáy chai hình thấu kính lồi, hoặc lõm. Tuy nhiên, không phải đáy chai nào cũng dùng được. Chọn hàng chục chai, may ra được một chiếc là cùng. Lại phải cưa, rồi mài thế nào cho khéo mới dùng được. Ống kính thì anh dùng ống nứa. Rồi chiếc kính Thiên văn của anh cũng hoàn thành. Anh đem ra ngoài sân cho mọi người ngắm trăng, ngắm sao. Các bạn ai cũng trầm trồ, chưa ai từng thấy mặt trăng to và gồ ghề như thế. Chuyện dùng ống kính ngắm sao đồn ra xa, công an địa phương đã đến nhắc nhở và yêu cầu anh không được sử dụng kính Thiên văn nữa vì cho rằng đó là “khí cụ quân sự” ! Không được dùng kính thiên văn, anh lại cải tạo thành chiếc kính hiển vi để quan sát các con vi trùng trong nước.
Còn chuyện anh lập biểu đồ để tính hàm số lượng giác cũng đặc biệt. Chúng ta ai đã học qua cũng biết, vòng tròn lượng giác là vòng tròn có bán kính bằng 1 đơn vị. Giá trị của hình chiếu của bán kính này lên trục ngang (x) và trục đứng (y) chính là hàm số lượng giác sin và cos của góc mà bán kính quay đó tạo thành. Để biết giá trị này, ta phải có bảng tra (bây giờ thì trong máy tính có đủ cả). Nhưng hồi xưa, trong kháng chiến làm gì có sẵn bảng tra. Nguyễn Đình Tứ dùng một sợi dây, quy thành 1 đơn vị (ví dụ 1 mét chẳng hạn). Anh quay sợi dây quanh một tâm điểm, rồi đo hình chiếu của sợi dây lên trục ngang, trục dọc mà biết được hàm số lượng giác của một góc. Sau đó từ một số số liệu cơ bản mà anh lập thành biểu đồ. Tất nhiên, độ chính xác hoàn toàn dựa vào việc đo độ của góc quay và xác định hình chiếu lên các trục.
Là những người đồng hương ở thế hệ sau, những câu chuyện trên, chúng tôi được nghe các thầy kể lại cuối mỗi tiết học hay trong các giờ ngoại khóa. Bằng các câu chuyện này,các thầy không chỉ truyền đạt kiến thức cho chúng tôi mà còn qua đó giáo dục lòng đam mê khoa học, khơi gợi tính sáng tạo, cũng như những tấm gương vượt khó khăn, phấn đấu học tập vươn lên của các thế hệ đi trước. Mà tấm gương sáng chói nhất đó chính là Nguyễn Đình Tứ.
Nhà khoa học hàng đầu về vật lý hạt nhân
Năm 1957, sau khi tốt ngiệp Trường Đại học Thủy lợi Vũ Hán, Nguyễn Đình Tứ được nhà nước ta chọn sang Liên Xô, làm cộng tác viên khoa học tại Trung tâm Liên hiệp nguyên tử Đupna. Lúc này, anh mới 25 tuổi. Trung tâm Liên hiệp nguyên tử Đupna nằm tại thị trấn Đupna, trên bờ sông Vôn ga, ngoại ô thủ đô Mat cơ va. Đây là trung tâm nghiên cứu hiện đại nhất, tập trung các nhà khoa học đầu ngành về lĩnh vực nguyên tử hạt nhân của cả 12 nước Xã hội chủ nghĩa anh em thời bấy giờ trong sứ mệnh nghiên cứu các hạt cơ bản. Việt
Trong hàng loạt công trình nêu trên, công trình phát hiện ra phản hạt sigma âm hyperôn là công trình có ý nghĩa quan trọng nhất. Trong các hạt cơ bản được phát hiện trước năm 1959, có một loại hạt mang tên sigma âm (hạt sigma mang điện âm). Đến năm 1960, nhóm công tác của Nguyễn Đình Tứ phát hiện ra phản hạt sigma âm. Thông báo của Trung tâm Đupna cho biết: “Đã phát hiện bằng thực nghiệm hiện tượng chưa biết trước đây, sự tạo thành phản hạt của hạt sigma âm với khối lượng 2.340 lần lớn hơn khối lương electron; tích điện dương; thời gian sống bằng một phần mười tỷ giây. Hạt mới này rất giống hạt sigma âm đã biết, chỉ khác là điện tích trái dấu, nó được gọi là phản hạt của hạt sigma âm hay gọi tắt là phản hạt sigma âm. Phát minh phản hạt sigma âm một lần nữa khẳng định luận thuyết về phản hạt đã được nhà vật lý lý thuyết lỗi lạc Dirac đề xuất năm 1928 và cùng với những phản hạt tìm thấy trước đó minh chứng thêm cho sự tồn tại phản vật chất. Phát minh về phản hạt sigma âm là một thành quả đặc sắc, một giai điệu đẹp nhất trong bản giao hưởng “tương tác của các hạt cơ bản và hạt nhân ở năng lượng cao” của Giáo sư Nguyễn Đình Tứ và tập thể khoa học mà anh đã gắn bó mật thiết” (Trích Nhà khoa học Nguyễn Đình Tứ, tài năng và phẩm cách, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2012) . Năm 1961, ngay sau khi công bố công trình, Nguyễn Đình Tứ đã nhận được giải thưởng của Hội đồng khoa học của Viện Liên hợp nghiên cứu nguyên tử Đupna. Năm 1968 chính phủ Liên Xô cấp bằng phát minh cho nhóm tác giả quốc tế, trong đó có “công dân nước Việt
Nguyễn Đình Tứ công tác tại Viện Liên hợp Nghiên cứu hạt nhân Đupna trong hai nhiêm kỳ từ tháng 8.1957 đến tháng 6.1963 và nhiệm kỳ hai từ tháng 6.1966 đến tháng 6.1971. Cả hai nhiệm kỳ đó ông đều đảm nhận trọng trách phụ trách đoàn cán bộ Việt
Vị Bộ trưởng ở nhà . . . chung cư
Năm 1971, về Việt
Tháng 2.1987, GS Nguyễn Đình Tứ được cử làm Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Quốc gia, Chủ nhiệm công nghệ sản xuất nguyên nhiên vật liệu hạt nhân. Từ tháng 9.1993 GS Nguyễn Đình Tứ được giao đảm nhận trọng trách Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện năng lượng nguyên tử Việt
GS Nguyễn Đình Tứ dù ở cương vị công tác nào cũng luôn là người giản dị, chân thành, khiêm nhường, nói năng nhỏ nhẹ , điềm đạm. Đặc biệt, ông luôn trân trọng và lắng nghe ý kiến của cấp dưới. Dù cấp dưới nói những điều trái với suy nghĩ của mình, ông vẫn không ngắt lời, mà cố gắng lắng nghe hết ý kiến của họ, sau đó mới ôn tồn đáp lại. Thời kỳ bao cấp tình hình kinh tế rất khó khăn. Cán bộ công nhân viên đi làm thường mang theo cặp lồng cơm để ăn trưa. Bộ trưởng đi làm hằng ngày cũng mang theo cặp lồng cơm, với thức ăn là rau dưa như mọi người. Là bộ trưởng nhưng ông vẫn ở nhà tập thể. Hồi bấy giờ, ông được phân căn hộ hai buồng trên tầng 4, nhà B18, khu tập thể Kim Liên (quận Đống Đa).Thỉnh thoảng có khách ở xa đến, hay khách ở quê ra, lại phải trải chiếu nằm giữa sàn nhà. Năm 1978 có người thân của ông từ miền
Ông từng là Bộ trưởng, là Ủy viên Trung ương, rồi Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng. Những chức vụ đó, chức trách đó, có thể nhiều người làm được. Nhưng, một nhà khoa học như Nguyễn Đình Tứ thì rất hiếm. Có khi vài ba thế hệ, thậm chí hàng trăm năm mới có một người !
GS Nguyễn Đình Tứ mất đột ngột vào ngày 28.6.1996 khi đang diễn ra Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 8. Giá như, ông chỉ chuyên tâm làm công tác khoa học mà không lấn sân sang địa hạt chính trị. Tiếc thay !
*
VÀI CẢM NHẬN VỀ
GIÁO SƯ NGÔ ĐỨC THỌ
Giáo sư Ngô Đức
Thọ là chuyên gia Hán Nôm.
Ông là người đồng
hương với tôi. Đồng hương đến “cấp” huyện (cùng quê Can Lộc, Hà Tĩnh). Là đồng
hương, lại cùng nghiên cứu, viết sách báo về mảng đề tài Lịch sử nhưng tôi chỉ
mới biết ông qua các tác phẩm của ông, chứ chưa hề được gặp mặt.
Mãi đến lần chúng
tôi được ông Nguyễn An Kiều mời về dự lễ giỗ lần thứ 372 Hoàng giáp – Chánh sứ
Nguyễn Duy Hiểu (ngày 2.7.2011) tôi mới được gặp ông. Ngay lần ấy, tuy là đồng
hương, lại cùng trong một chuyến đi, nhưng tôi cũng không bắt chuyện làm quen
với ông. Tính tôi vốn thế. Rất ít khi “mở rộng quan hệ ngoại giao”. Chỉ biêt
việc mình mình làm. Trong công việc viết sách, viết báo về đề tài lịch sử,
không có gì quý bằng độc lập suy nghĩ, phát biểu quan điểm của mình, không bị
ảnh hưởng của ai cả
Sau chuyến đi đó,
tôi về mở mạng tìm hiểu tư liệu về Cụ Nguyễn Duy Hiểu, và tình cờ gặp được
trang mạng của ông trên 360plus.yahoo.com
. Bạn đọc cần biết một sự thật này: Trong khi các nhà thơ, nhà văn, hầu
như người nào cũng có trang Blog cá nhân của mình thì các nhà nghiên cứu lịch
sử không hề có. Họ rất ít khi dùng mạng, thậm chí có người không hề biết đến vi
tính. Cho đến hiện nay, tôi biết, có những vị GS, TS ngành Khoa học xã hội còn
dùng bút mực chép tay bài viết rồi mang đến Tòa soạn báo hoặc ở xa thì bỏ phong
bì, gửi bưu điện khi viết bài cộng tác. . . Chính vì vậy, khi bắt gặp trang
mạng của một nhà nghiên cứu như ông, tôi thấy thú vị biết chừng nào ! Ông lại
là chuyên gia rất sâu về Hán Nôm, vì vậy, bài của ông thường là bài “độc”, tức
là chỉ mình ông có. Tôi thường ghé thăm trang mạng của ông là vì thế.
Vừa rồi trên trang
mạng của ông xuất hiện một bài mới về “Cựu đô Ngàn Hống”, đây là loại đề tài mà
tôi tâm đắc. Không tâm đắc sao được, khi tìm ra/ phát hiện ra quê mình lại là
Quốc đô đầu tiên của người Việt , trước khi có Kinh đô Phong Châu của các vua
Hùng ! Trước đây, tôi đã hai lần viết về đề tài này. Lần đầu tiên, từ những năm
1990, tôi viết bài “Đâu là quốc đô đầu tiên của người Việt” đăng trên Tạp chí
Thế giới mới. Bài này sau đó tôi đưa vào cuốn Nhìn lại Lịch sử
(Nxb Văn hóa –Thông tin 2003) , rồi đưa vào cuốn Nhìn về thời đại Hùng
Vương (Nxb Lao động, 2009). Lần thứ hai tôi lại trở lại đề tài này với
bài Tiền thân của Kinh đô Phong Châu vốn ở Hà Tĩnh (đăng trên báo Khoa
học & Đời sống Online, lên mạng ngày 10.4.2011, sau đó được một số báo mạng
đưa lại. Ban đọc có thể vào mang google gõ tên bài báo hoặc gõ từ khóa
“phanduykha ” là sẽ thấyngay) . Bài này lên mạng của tôi ngày 6.4.2011 với tiêu
đề ” Cố đô Ngàn Hống mở đầu thời đại dựng nước” ( Bạn có thể tìm trên mạng của
tôi trong loạt bài Post vào tháng 4.2011) Vì vậy, thấy có người quan tâm
đến vấn đề mà mình quan tâm, tôi rất tâm đắc, liền truy cập vào ngay để đọc.
Nhưng lúc ấy mới chỉ có tiêu đề và hai bức ảnh. Tôi liền ghi vào mấy dòng
comment : “Chào Bác Ngô, tôi vào thăm trang của Bác luôn. Bác viết cho một bài
kỹ hơn về đề tài này được không? Kính chào Bác.
Phan Duy Kha”
(ngày9.12.2011)
Ngay sáng hôm sau,
mở lại trang mạng của ông, tôi đã gặp bản dịch dài về Ngọc phả Hùng Vương. Ngay
dưới bản dịch này là bức thư ngắn ông viết trả lời tôi. Nguyên văn như sau:
“ Thư ngắn
trả lời bác Phan Duy Kha
Cảm ơn bác đã ghé
xem trang mạng của tôi và có để lại một tin nhắn. Lời nhắn của bác gửi khích lệ
cho tôi cũng hơi bị . . .nhiều, bởi vì đúng lúc tôi mới dựng lên bài này bằng
việc dịch đoạn mở đầu Hùng Vương Ngọc phả. Thông thường người ta viết cho xong
hẳn rồi mới post lên mạng, nhưng tôi viết, dịch, trích ảnh v.v. . .luôn trên
máy, đành bấm nút cho “Đăng” luôn- đỡ lích kích hơn nếu để lưu vào
“nháp”. Vì thế, có lẽ bác quan tâm mà tôi gây phiền cho bác phải trở đi trở lại
nhiều lần. Mong bác thông cảm cho nhé. Tôi cũng đã xem bài của bác viết về Cựu
đô Ngàn Hống, đem so thấy bác và tôi cùng dùng một văn bản, nhưng có lẽ bản của
bác chụp ở Đền Hùng, bản tôi dùng là bản của Viện Hán Nôm, cũng chụp lại từ bản
ấy. Việc này người ta cũng quên bẵng đi rồi, chúng ta cùng xới lại vấn đề xem
sao ? Có thể có thêm được ý tứ gì mới không ?
Chúc bác vui mạnh
Ngô Đức Thọ”
(10.12.2011)
Phía dưới bức thư,
ông còn mở ngoặc ghi chú: “Tôi muốn đánh ngay vào chỗ trả lời ở comment của
bác, nhưng quên mất cách gửi, nên đành đánh thẳng vào đây !”
Nhận được thư trả
lời của ông, tôi rất mừng. Được biết là ông thường vào mạng, viết trực tiếp
(online) trên mạng, không như tôi, thường đánh máy, sưả chữa , lưu vào file rồi
mới post lên mạng (và cả gửi cho các báo). Ông cũng không dấu khả năng hạn chế
khi sử dụng máy tính, quên cả cách thao tác khi trả lời comment. Những chi tiết
nhỏ nhưng làm tôi thú vị. Người làm công tác khoa học thường chân thành đến
từng chi tiết nhỏ như thế. Tôi liền viết thư trả lời ông trên comment :
“Kính gửi
Bác Ngô,
Nghe danh của Bác,
đọc các tác phẩm của Bác từ lâu, nhưng mới được gặp Bác từ hôm chúng ta cùng
được ông Nguyễn An Kiều mời về dự lễ giỗ lần thứ 372 Cụ Hoàng giáp Chánh sứ
Nguyễn Duy Hiểu. Từ đó, tôi thường vào thăm trang mạng của Bác luôn. Tôi rất
thích những bài Bác viết có liên quan đến các tư liệu Hán Nôm. Hôm qua tôi chỉ
mới nhìn thấy tiêu đề bài viết và mấy bức ảnh, nên mạn phép ghi mấy dòng, không
ngờ lại được Bác trả lời ngay dưới bài viết, làm tôi cảm động lắm. Kính chúc
Bác mạnh khỏe và có nhiều bài nghiên cứu mới về đề tài lịch sử, nhất là các đề
tài liên quan đến tư liệu Hán Nôm mà không phải ai cũng có, không phải ai cũng
viết được.
Về bức không ảnh (ảnh
vệ tinh) chụp vùng Ngàn Hống, Bác đưa vào rất quý. Nhưng nếu Bác bớt chút thì
giờ, biên vẽ thành bản đồ ghi cụ thể thêm các địa danh rồi đăng bên cạnh bức
ảnh để đối sánh thì tốt hơn nhiều. (vì người xem sẽ biết cụ thể hơn, chứ nhìn
qua ảnh thì ít người biết) mong Bác lưu ý thêm.
Nếu lúc nào đó có
thì giờ, xin mời Bác vào thăm trang mạng của tôi theo đường Link sau. . .
Kính chào Bác
Phan Duy Kha”
(10.12.2011)
(Cả hai bức thư
đều có trên Blog của GS Ngô Đức Thọ )
Thư tôi viết hôm
trước thì ngay ngày hôm sau, (11.12.2011)vào trang mạng của ông, tôi đã thấy
tấm bản đồ vùng phía nam Ngàn Hống,tức là vùng được Ngọc phả Hùng Vương chỉ
định là Cố đô Ngàn Hống đã được ông đưa vào rồi.
Ông là người làm
việc nhanh nhạy, kịp thời như thế đấy.
GS Ngô Đức Thọ là
cháu nội Nhà chí sĩ yêu nước Ngô Đức Kế. / .
GS NGÔ ĐỨC
THỌ VÀ VIỆC DỊCH NGỌC PHẢ HÙNG VƯƠNG
Từ lâu tôi đã “săn tìm” NPHV nhưng
thực sự là chưa có ai dịch trọn vẹn.Tôi chỉ gặp được đôi đoạn rời rạc trong các
bài viết về thời Hùng Vương mà các tác giả trích dẫn.Thậm chí, vào khoảng những
năm 1968 – 1972, chúng ta có 4 cuộc hội thảo lớn về đề tài Thời đại Hung Vương,
sau đó, kỷ yếu của 4 cuộc hội thảo này đã được tập hợp in thành 4 cuốn sách
“Hùng Vương dựng nước” (tập I, II, III, IV) mà cũng chẳng có công trình dịch
thuật nào về NPHV cả. Đó là một điều hết sức lạ lùng. Nghiên cứu về Thời đại Hùng Vương sao không
nghiên cứu Ngọc phả? Đành rằng Ngọc phả không phải là lịch sử nhưng là bóng
dáng của lịch sử, nó phản ánh tâm tư, tình cảm, quan niệm của cha ông ta về cội
nguồn, ít nhất là vào thế kỷ 15 (thời điểm viết Ngọc phả) sao lại bỏ qua được?
Vì vậy, việc dịch trọn vẹn NPHV của GS Ngô Đức Thọ là một việc làm rất có ý
nghĩa.*
“Có một nhà nghiên cứu khá quen thạo đề tài này, tôi tuy chưa gặp mặt, nhưng đã có dịp có vài trao đổi ngắn với ông trên mạng. Tôi rất thú vị vì biết ông rât thú vị đối với việc tôi đang làm, đến mức bản dịch tôi thực hiện trên blog đựoc đoạn nào là ông tải ngay về trang của ông đoạn ấy.
Hôm qua trước Noel mấy tiếng tôi làm xong bản dịch HVNP, sáng nay vào thăm trang của ông đã thấy ông loát đủ kèm theo một Comment nguyên văn như sau: Ngọc phả Hùng Vương hiện lưu tại Bảo tàng Hùng Vương, Phú Thọ. Ngọc phả gồm 21 tờ, 42 trang chữ Hán. Tổng cộng gần một vạn chữ. Sau hơn nửa tháng (từ ngày 9 – 24. 12. 2011) miệt mài, cần mẫn, GS Ngô Đức Thọ đã dịch xong. Trong khoảng thời gian đó, cứ mỗi lúc ông dịch xong đoạn nào, tôi lại tải về đăng lên mạng của tôi đoạn ấy. Tôi đã từng nhiều lần sưu tầm nhưng chưa có một bản dịch Ngọc phả nào cho hoàn thiện. Thường thì người ta dịch từng đoạn , ai cần đoạn nào phục vụ cho công tác nghiên cứu của mình thì dịch đoạn ấy. Đây là bản dịch đầy đủ nhất cho đến hiện nay mà tôi biết được. Một lần nữa, xin ghi công và cảm ơn GS Ngô Đức Thọ (Phan Duy Kha- http://vn.360plus.yahoo.com/phan_duykha?l=f&id=1) Người nghiên cứu đối với nhau, gửi cho những nhận xét chân thành đúng lúc như thế quả thật như cho nhau một thang thuốc bổ. Đó là ông Phan Duy Kha xác minh cho tôi đựoc một điều: Bao nhiêu lâu rồi, thế mà chúng ta chưa có một công trình biên khảo nào về Ngọc phả Hùng Vương được công bố.
Trên đây là mấy dòng GS Ngô Đức Thọ viết về tôi, viết cho tôi trên trang mạng của ông trong bài LỜI NGƯỜI DỊCH, sau khi dịch xong Ngọc phả Hùng Vương (NPHV).Đây là một việc làm tự nguyện bởi không ai giao nhiệm vụ, cũng không ai trả công cho ông trong việc dịch thuật. Ngay ban đầu, ông cũng không có ý định dịch hết NPHV. Cái đầu đề từ ban đầu ông ghi trên bản dịch là “Cựu đô Ngàn Hống là đây” đã nói lên rằng, ông chỉ định dịch đời thứ nhất trong NPHV là dời vua Kinh Dương Vương, trong đó có phần vua chọn đất đóng đô ở Ngàn Hống. Bởi vì, NPHV tương đối dài, ngót một vạn chữ, gồm 42 trang chữ Hán (sau này, khi dịch xong tôi in ra được gần 40 trang giấy khổ A4). Rõ ràng là một công việc mệt nhọc so với cái tuổi gần 80 của ông.
Tôi là người có duyên may biết được công việc dịch thuật của ông ngay từ ngày đầu tiên (9.12.2011). Chính những lời động viên ban đầu kịp thời của tôi đã tiếp thêm sức cho ông mà như ông nói là “bằng cho nhau một thang thuốc bổ”. Từ đó, tôi luôn luôn theo dõi công việc của ông (trên mạng, dạo đó cả ông và tôi đều có trang mạng Yahoo.com). Hễ ông dịch xong đoạn nào, tôi lại tải về trang mạng của tôi đoạn ấy, thậm chí có khi ông còn chưa kịp sửa lỗi chính tả. Trong quá trình hơn nửa tháng đó, tôi và ông còn trao đổi với nhau nhiều lần qua comment
Đêm Nô en (25.12.2011), ông mới hoàn thành trọn vẹn bản dịch, và ngày hôm sau, tôi tải lên mạng của tôi văn bản hoàn chỉnh cuối cùng này.
Từ lâu tôi đã “săn tìm” NPHV nhưng thực sự là chưa có ai dịch trọn vẹn.Tôi chỉ gặp được đôi đoạn rời rạc trong các bài viết về thời Hùng Vương mà các tác giả trích dẫn.Thậm chí, vào khoảng những năm 1968 – 1972, chúng ta có 4 cuộc hội thảo lớn về đề tài Thời đại Hung Vương, sau đó, kỷ yếu của 4 cuộc hội thảo này đã được tập hợp in thành 4 cuốn sách “Hùng Vương dựng nước” (tập I, II, III, IV) mà cũng chẳng có công trình dịch thuật nào về NPHV cả. Đó là một điều hết sức lạ lùng. Nghiên cứu về Thời đại Hùng Vương sao không nghiên cứu Ngọc phả? Đành rằng Ngọc phả không phải là lịch sử nhưng là bóng dáng của lịch sử, nó phản ánh tâm tư, tình cảm, quan niệm của cha ông ta về cội nguồn, ít nhất là vào thế kỷ 15 (thời điểm viết Ngọc phả) sao lại bỏ qua được? Vì vậy, việc dịch trọn vẹn NPHV của GS Ngô Đức Thọ là một việc làm rất có ý nghĩa.
Theo tôi được biết, hiện nay còn ba văn bản NPHV. Một bản soạn năm Thiên Phúc nguyên niên đời Lê Đại Hành (986) được cho là bản xưa nhất, một bản soạn năm Hồng Đức nguyên niên, đời vua Lê Thánh Tông (1470), tức bản GS Ngô Đức Thọ đã dịch và một bản soạn năm Hồng Phúc nguyên niên đời vua Lê Anh Tông (1572). Gần đây, ông Phạm Thuận Thành có giới thiệu một bản Ngọc phả ở đền Bình Ngô (An Bình, Thuận Thành, Bắc Ninh) do Hoàng giáp Nguyễn Tá Chánh soạn từ thời Nguyễn, dài hơn 5 ngàn chữ, chắc là sao lại từ một trong ba bản trên.
Các cơ quan, địa phương hay cá nhân nào còn giữ được các văn bản trên, nếu dịch ra quốc ngữ rồi công bố như GS Ngô Đức Thọ đã làm thì hay biết mấy. Hoặc nếu không có điều kiện dịch thuật thì phô tô rồi gửi bản chụp cho GS Ngô Đức Thọ thì đó là điều tâm nguyện của ông .
Khi tôi đang Post
bài này lên mạng thì được tin GS Ngô Đức Thọ vừa được tặng giải thưởng Phan
Châu Trinh về dịch thuật. Xin chúc mừng ông.
*
HỒ SĨ HẬU VÀ TIỂU
THUYẾT DÒNG SÔNG MANG LỬA
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc,
bộ đội xăng dầu đã lập công xuất sắc, từ tháng 8.1968 đến tháng 12.1974 các
đồng chí đã xây dựng, bảo vệ, vận hành thông suốt tuyến đường ống xăng dầu dài
5.000 km và hệ thống kho xăng dầu gần 3 vạn tấn được lắp đặt từ biên giới phía
bắc Tổ quốc, xuyên dọc Trường Sơn vào đến Bù Gia Mập tỉnh Phước Long, miền Đông
Nam Bộ.
Trích lời của Đại
tướng Võ Nguyên Giáp
Hà Nội, ngày
20.12.2001
*
Ngày 15.11.2012,
ông bạn học của tôi hồi đại học là Thiếu tướng Hồ Sĩ Hậu, gọi điện cho tôi.
– Chào Kha, mình
vừa in một cuốn tiểu thuyết tên là Dòng sông mang lửa (1) trong đó mình có đưa
mấy câu thơ của Kha vào sách.
Tôi cảm thấy rất
bất ngờ, vội hỏi:
– Câu thơ nào?
– Câu thơ Kha làm
hồi chúng mình chia tay nhau trước lúc ra trường nhận công tác ấy mà.
– Thú thật là mình
không còn nhớ nữa. Hậu thử đọc xem nào.
Hậu đọc ngay,
chứng tỏ anh đã thuộc lòng:
Mấy năm qua
từng tên đất tên người,
Bỗng trở thành
những nhà ga ký ức,
Tiếp tiếp nối
nhau bằng đường tàu rạo rực,
Trên đó đi về
những kỷ niệm riêng chung.
(Đời sinh viên – Thơ Phan Duy Kha)
Cú điện thoại của
Hồ Sĩ Hậu mang lại hai bất ngờ thú vị đối với tôi. Bất ngờ thứ nhất là mấy câu
thơ của tôi, tôi vốn quên từ lâu ( không còn tý dấu vết gì trong bộ nhớ), nay
lại được bạn mình nhớ hộ, có lẽ nó đã theo anh trong suốt chặng đường dài chiến
tranh ác liệt. Nhưng bất ngờ thứ hai mới là bất ngờ lớn: Không ngờ ông bạn tôi
lại viết được một cuốn tiểu thuyết dày dặn như thế, đến 630 trang in. Hồi còn
học đại học , ở cùng phòng với nhau, có thấy anh viết văn, làm thơ bao giờ đâu.
Mấy hôm sau, nhân
có cuộc gặp mặt, anh đem Dòng sông mang lửa (DSML) tặng tôi. Tôi đã phải bỏ
những thói quen hàng ngày như xem báo, đọc sách, xem tivi, lướt nét, chỉ
để chú tâm vào Dòng sông mang lửa của anh, với tấm lòng trân trọng, coi thành
tựu của bạn cũng như thành tựu của bản thân mình.
Câu chuyện đưa ta
về những năm tháng xa xôi của cuộc đời sinh viên gian khổ và thiếu thốn. Tháng
8.1964, chúng tôi vào học trường Đại học Bách khoa thì xẩy ra chiến tranh
phá hoại, năm 1965, chúng tôi theo trường sơ tán lên Lạng Sơn, năm 1966 lại trở
về Hà Bắc (nay là Thuận Thành, Bắc Ninh). Ở đây , đến năm thứ 4 thì có sự kiện
lớn: Lớp Trắc địa của chúng tôi gồm 30 sinh viên thì có 4 người , trong đó có
Hồ Sĩ Hậu được chọn vào bộ đội. Lúc đó là tháng 5.1968. Sang tháng 6, 10 anh em
chúng tôi lại được chọn về Bộ Vật tư. Thế là một nửa lớp được ra trường trước
mà không phải làm đồ án tốt nghiệp, (năm sau, chúng tôi về trường nộp báo cáo
thực tế công tác và nhận bằng). Cả hai nhóm người, về Bộ Quốc phòng và Bộ Vật
tư đều nhận một nhiệm vụ đặc biệt là làm đường ống xăng dầu. Tất nhiên, mãi sau
này chúng tôi mới biết công việc của nhau, còn lúc ấy thì phải giữ bí mật,
người nào biết việc của người ấy.
Chúng tôi về Bộ
Vật tư, tham gia khảo sát thiết kế lắp đặt đường ống vĩnh cửu, nối cảng đầu mối
Bãi Cháy (nơi nhập đầu) tới Nhân Vực (Thường Tín, nay thuộc Hà Nội) gọi
là đường ống B12, rồi đi các tỉnh khác trên miền Bắc. Gọi là vĩnh cửu vì đường
ống “phi 150mm”, được hàn liền với nhau, rồi chôn sâu xuống đất hơn 1 mét. Độ
bền đường ống trên 50 năm. Còn các bạn về Bộ Quốc phòng thì lắp đặt đường ống
dã chiến “phi 100mm” nối khớp, vượt Trường Sơn, cung cấp xăng dầu cho chiến
trường . Gọi là đường ống dã chiến vì đường ống này gồm những đoạn ống 6 mét,
có ngoàm bắt ốc nối với nhau, có thể tháo lắp dễ dàng. Hai bên cùng làm xăng
dầu cả nhưng trên hai địa bàn khác nhau, mức độ khó khăn ác liệt khác nhau.
Cần biết rằng, từ
năm 1968 trở về trước, phương tiện vận chuyển xăng dầu trên miền Bắc nước ta là
ô tô stec, hoặc đóng vào thùng phuy rồi chở bằng ô tô vận tải. Việc chuyên chở
bằng xe stec hoặc chở bằng thùng phuy khối lượng được ít, hao hụt nhiều. Nhất
là những năm chiến tranh phá hoại, xe ô tô là mục tiêu đánh phá số 1 của máy
bay Mỹ. Vì vậy, việc dùng đường ống dẫn xăng dầu là yêu cầu bức thiết. Trên
chiến trường, việc chuyên chở xăng dầu qua các trọng điểm đánh phá càng đòi hỏi
bức thiết hơn. Đã có rất nhiều cách chở xăng dầu cung cấp cho chiến trường:
Dùng mảnh ni lông lót trong ba lô, buộc túm lại để đựng xăng, rồi cõng trên
lưng ; lại có khi dùng bốn người khiêng một thùng phuy 100 lít gọi là “kiệu
xăng”, lại có nơi sáng kiến dùng đường ống tự tạo: “Mọi thứ ống: ống cao su,
ống nhựa, ống tôn, chân nhà bạt, ống phóng rốc két Mỹ, . . .tóm lại, mọi thứ
được gọi là ống. Chỗ nối giữa chúng nếu không phải là khớp nối kỹ thuật thì
được quấn bằng săm ô tô. . . Đoạn dốc 50 mét cuối cùng thì không còn kiếm đâu
ra mét ống nào nữa, nên ống được nối tiếp bằng những cây lồ ô đục thủng các
mắt.” (trích DSML).Tất cả những cách chuyển tải đó đều không đảm bảo an toàn,
hao hụt nhiều, dễ cháy nổ mà khối lượng lại không được bao nhiêu. Vì vậy, việc
dùng đường ống dã chiến là một yêu cầu bức thiết. Các bạn lớp tôi, các kỹ
sư của các ngành Mỏ -Địa chất, Thủy lợi, Bách khoa, Cơ khí mới ra
trường hoặc được ra trường sớm để phục vụ cho nhu cầu công tác này.
Hồ Sỹ Hậu là kỹ
sư Trắc địa, trường Đại học Mỏ Địa chất, được ra trường trong dịp ấy. Anh
đã tham gia khảo sát, thiết kế, lắp đặt và vận hành tuyến đường ống xăng dầu từ
năm 1968 cho đến khi hết chiến tranh. Trong quá trình lao đông và chiến đấu,
anh đã cố gắng ghi chép lại, để đến khi trở thành “tướng về hưu” (Hồ Sỹ Hậu về
hưu với hàm Thiếu tướng), anh mới có thời gian hoàn thành “Dòng sông mang lửa”
(DSML, Nxb Hội Nhà văn, 2012). “Đó là một Dòng sông mang lửa, vì nó sẽ bất chợt
bùng cháy khi gặp một tia lửa nhỏ. Vậy mà nó đã vượt qua đỉnh Trường Sơn, qua
núi cao, sông sâu, vượt qua mưa bom bão đạn đánh phá hủy diệt của không lực Hoa
Kỳ. Dẫu bao người đã ngã xuống, nhưng tuyến đường ống vẫn kiên cường đứng vững
, đảm bảo xăng cho vận tải cơ giới và các hoạt động chiến đấu trên đường Hồ Chí
Minh, không ngừng vươn sâu vào các chiến trường, đến tận Nam Bộ. Câu chuyện đó
khó tin như một huyền thoại” (trích DSML, tr.6)
Đoạn đường ống đầu
tiên được lắp đặt là đoạn X42, dài 42 km, vượt “tam giác lửa “Nam Đàn –
Linh Cảm – Vinh, trong đó đoạn vượt sông Lam là khó khăn, ác liệt nhất.
“Tiếng dô ta dô huầy của đoàn người át cả tiếng máy ô tô đang ì ạch nhích
từng chút, từng chút. Đoàn người gò lưng kéo theo nhịp. Chẳng mấy chốc đoạn ống
như con rắn bò dần ra giữa sông. Bờ nam cứ kéo, bờ bắc cứ đẩy, còn dòng nước
càng ra giữa sông càng xiết nên “con rắn” cứ oằn mình về phía hạ lưu”
(trích DSML). Một không khí lao động khẩn trương, cướp thời gian, bởi “hàng
trăm người làm việc ngay sát trọng điểm đánh phá của địch thế này, không thể
nói trước được điều gì” (trích DSML). Thế rồi, đường ống cũng vượt được qua
sông. Không thể tả được niềm vui khi dòng xăng đầu tiên, vượt qua 42 km trọng
điểm đánh phá ác liệt của địch, từ kho N1 (Nam
Thanh , Nam Đàn) chảy đến kho N2 (Nga Lộc,
Can Lộc) ! Từ đây, một phương tiện chuyên chở xăng dầu mới hình thành. Mặc cho
trên đầu máy bay giặc quần đảo, thì bên dưới mặt đất, dòng xăng dầu vẫn lặng
lẽ, âm thầm chảy, cung cấp cho nhu cầu của chiến trường.
Sau thành công của
X42, hệ thống đường ống xăng dầu bắt đầu tiến dần về phía nam, và tiến sang
phía Tây Trường Sơn (sang đất bạn Lào). Càng vào sâu, càng gian khổ ác liệt.
Những người làm công tác khảo sát xây dựng đường ống trong điều kiện hòa bình
đã vất vả, thì trong điều kiện thời chiến càng khó khăn, gian khổ gấp bội. Trèo
đèo, lội suối, băng rừng mà đi “theo phương vị” (tức cắt rừng theo hướng địa
bàn), trên đầu thì máy bay địch nhòm ngó, trong rừng thì thám báo, biệt kích,
mỗi bước đi của các anh đầy rẫy bất trắc: bom từ trường, mìn cài lại chưa nổ. .
. Rồi thì những vụ nổ xăng, cháy xăng, nhiều khi chỉ vì một sự sơ suất
nhỏ mà phải đổi mấy mạng người. Rồi thì những trọng điểm ác liệt mà đường ống
bắt buộc phải vượt qua : “Mặc dù ở tuyến cũ, khi thi công, đường được sửa sang
để người vác ống có thể đi được nhưng sau hàng chục trận B52, bổ nhào, không
còn có thể nhận ra lối đi nữa. Đá bị cày xới, đập vỡ , tả tơi thành lớp bụi
dày. Cây bị băm, bị chặt ngổn ngang khiến người đi không đã khó, huống chi vác
chiếc ống dài sáu mét để chuyển lên tuyến tránh” (trích DSML). Trước sự
ác liệt của chiến tranh, không phải không có những kẻ sợ hãi, dao động, “ – Nơi
khác tao không biết, chứ ở đây ngày nào cũng có người chết: lính công binh, lái
xe, thanh niên xung phong, cao xạ và cả đường ống nữa. Có những ngày bom bứng
đi cả tiểu đội thanh niên xung phong. Ghê quá” (trích DSML). Cũng có những vị
chỉ huy như Lê Khôi, khi bị máy bay B52 ném bom vào đơn vị thì trốn biệt tăm,
khi mọi việc xong xuôi mới xuất hiện. Tuy nhiên, những kẻ khiếp nhược như thế
chỉ là thiểu số.
Giữa chiến trường
ác liệt càng sáng ngời những phẩm chất tốt đẹp. Đó là những vị chỉ huy dày dạn
kinh nghiệm, hết mực thương yêu, đồng cảm với lính như Lê Trọng, Đặng Văn Thế,
Trung đoàn trưởng Đông, . . .đến những kỹ sư mới ra trường, đã sớm trưởng thành
để đảm nhận những công việc quan trọng như Ngọc, Quang, Danh, Thục. . .
họ là những đại diện xứng đáng cho một thế hệ thanh niên trí thức, mới
được đào tạo từ nhà trường và đã trưởng thành nhanh chóng trong chiến tranh.
Ở chiến trường máu
lửa, mới thấm thía nghĩa tình đồng đội. Có chia sẻ nào cao cả hơn là chia sẻ
cái chết. Biết bạn là con một, sẵn sàng xông ra nơi nguy hiểm thay cho bạn, vì
“mày là con một, chết là hết, chúng tao còn có anh, có em, có chết cũng còn
người nối dõi tông đường”. Đó là tình cảm sẻ chia của người chỉ huy với người
lính, như Trung đoàn trưởng Lê Trọng, sẵn sàng đem mấy lọ sâm, suất bồi dưỡng
riêng của mình ( cán bộ từ Trung đoàn trưởng trở lên mới có tiêu chuẩn) đem cho
mấy anh em đi khảo sát tuyến, vì “mấy cậu làm việc vất vả”. Hay như Trung đoàn
trưởng Đông, có cái kèn Ac mô ni ca là niềm vui duy nhất cũng đem cho
lính vì thấy các cậu cứ lủi thủi trong rừng cả ngày mà chẳng có gì giải trí.
DSML phê phán sự
nhìn nhận đánh giá con người chỉ thông qua lý lịch. Đó là sự đánh giá phiến
diện, cứng nhắc, đem lại không ít đau xót phiền lụy cho người trong cuộc. Như
trường hợp của trung úy Tường. Anh là một chỉ huy kiên cường, gan dạ. Chỉ vì
một chi tiết không đâu trong lý lịch, đã phải xóa đảng tịch. Ở trên chiến
trường, đó là một điều đau khổ còn hơn bị kỷ luật, bởi vì đó là sinh mạng chính
trị. Cho đến khi hi sinh, anh vẫn còn day dứt : “Tại sao người ta không đánh
giá tôi qua sự chiến đấu dũng cảm quên mình ở Cồn Cỏ ? Tại sao người ta lại
loại bỏ ra khỏi đội ngũ một người sẵn sàng hi sinh tính mạng vì Tổ quốc , chỉ
vì trong lý lịch của tôi có những người mà tôi chưa bao giờ biết họ” (trích
DSML).
DSML cũng cho ta
cái nhìn chân thực hơn, khách quan hơn về chiến tranh. Hãy nghe Hồ Sỹ Hậu luận
về chiến tranh và thân phận con người: “Nhưng bất luận thế nào, những chàng
trai trẻ ngã xuống giữa trận tiền vẫn là sự ra đi kiêu hùng. Hàng ngàn hàng vạn
cái chết của họ là một phần viết nên lịch sử của cuộc chiến tranh. Còn ở hậu
phương, sau cái chết ấy là tiếng gào khóc của người vợ mất chồng, con mất cha.
Là nỗi đau tận cùng của người cha, người mẹ mất con. Là bắt đầu một cuộc vật
lộn với đời vì gia đình mất đi một trụ cột, hay một nhánh tương lai của gia
đình, của dòng họ bị cắt đứt” (trích DSML). Anh đã nhiều lần chứng kiến sự ra
đi của đồng đội. Không lần nào anh không rơi nước mắt. Chính vì vậy mà anh thật
sự bất ngờ khi một vị lãnh đạo cao cấp khuyên giải người mẹ của liệt sĩ như thế
này: “ Tôi nói với bà ấy : Sao bà lại khóc. Bà phải vui lên chứ, phải phấn khởi
vì gia đình mình đã đóng góp một người con cho cách mạng” (trích DSML). Có con
hi sinh mà phải “phấn khởi” phải “vui” thì chỉ có ông cán bộ này mà thôi! Có lẽ
ông ta chưa có đứa con nào hi sinh ngoài mặt trận để thấm được nỗi đau tận cùng
của người làm cha, làm mẹ.
DSML cũng giành
rất nhiều trang nói về tình yêu. Giữa gian khổ, ác liệt, giữa mất mát đau
thương, tình yêu càng hiện lên chói ngời, rực rỡ. Đó là tình yêu của cặp Thục –
Khanh. Một mối tình làm cho ta xúc động đến trào nước mắt: “Từ lâu lắm rồi,
trong mắt anh, em là một bông hoa tinh khiết, tinh khiết đến mức không ai có
thể nỡ làm tổn thương. . . Vậy mà hôm nay anh đã làm em khó xử từ tận đáy
lòng. Anh có lỗi với em quá” (trích DSML). Cái “lỗi” đó, cái “làm cho người yêu
khó xử” đó, chỉ là lời thổ lộ tình yêu. Anh sợ sự thổ lộ tình yêu của anh cũng
làm tổn thương em ! Đó là nỗi nhớ đến cháy lòng: “Nỗi nhớ người yêu trong chiến
tranh nó kỳ lạ lắm. Nỗi nhớ theo anh vào tận đáy con tim, nó không chỉ cho anh
cảm thấy bồn chồn, mà nhiều khi anh cảm thấy như có gì đau thắt”. Hay như tình
yêu của cặp Đỉnh – Lan: “Anh ở đâu, dù cùng trời cuối đất, em cũng tìm được.
Không có bất kỳ ai, bất kỳ cái gì có thể ngăn được em đi tìm anh”. Có thể nói
không ngoa rằng, chỉ có chiến tranh, chỉ trong xa cách, tình yêu mới mang vẻ
đẹp trong sáng, cao thượng, thánh thiện như thế.
Trước khi đọc
DSML, tôi đã đọc qua mấy cuốn sách viết về bộ đội đường ống xăng dầu. Đó là các
cuốn : Xăng dầu một thời đáng nhớ (Nhiều tác giả, Nxb Lao động, 2001); Phan Tử
Quang với huyền thoại đường ống (Diệu Ân, Nxb Lao động, 2003); Một thời là lính
xăng dầu (Hồi ký của Trần Xanh, Nxb Quân đội nhân dân, 2008). Đối chiếu với các
sự kiện mà các cuốn sách trên đề cập, ta có thể thấy rằng, hầu hết các câu
chuyện các sự kiện trong DSML là có thật. Có lẽ đến 90% là những câu chuyện có
thật, được tác giả xâu chuỗi lại, điển hình hóa, nâng cao lên để thành hình
tượng văn học. Tất nhiên, những tên đất, tên người, tên đơn vị có thay đổi đi.
Tóm lại, DSML là câu chuyện có thật, phản ánh không khí hào hùng của một thời
đạn lửa, là câu chuyện của những người làm công tác khoa học kỹ thuật trên chiến
trường để tạo nên huyền thoại trong huyền thoại, như Trung tướng Đồng Sỹ
Nguyên, nguyên Tư lệnh Đoàn 559 từng phát biểu: “Nếu gọi đường Hồ Chí Minh là
một huyền thoại thì đường ống xăng dầu là huyền thoại trong huyền thoại đó”.
DSML là bản anh
hùng ca của bộ đội đường ống xăng dầu trong những năm chiến tranh ác liệt !
Xin chúc mừng
thành công của Hồ Sỹ Hậu và xin giới thiệu Dòng sông mang lửa với bạn đọc. / .
VÀI KỶ NIỆM VỚI
NGHỆ SĨ NHIẾP ẢNH ĐOÀN CÔNG TÍNH
Tết 1973 là
cái Tết Hoà bình đầu tiên sau Hiệp định Pa ri. Sau bao năm xa nhà vì bom đạn
địch đánh phá, tôi được về quê ăn Tết. Sáng ngày mồng 4, tôi lên đường ra Vinh
để mua vé tàu ra Hà Nội. Trên chuyến tàu năm đó, tôi tình cờ và may mắn được
gặp và làm quen với hai người bạn đường đặc biệt. Đó là hai nhà báo
quân đội: Đoàn Công Tính và Khương Thế Hưng.
Anh Khương Thế Hưng, người Quảng Nam là con trai đầu của nhà thơ Khương
Hữu Dụng. Anh người tầm thước, da bánh mật, khi nói miệng cười rất có
duyên. Năm đó anh đã gần 40 tuổi nhưng chưa xây dựng gia đình. Cuộc đời anh
Hưng là những trang huyền thoại. Anh rất đa tài. Trong kháng chiến chống Pháp,
anh chiến đấu ở chiến trường cực nam Trung Bộ (Ninh Thuận, Bình Thuận). Sau hoà
bình lập lại (1954) anh hoạt động trong đoàn văn công Liên khu 5, vừa sáng tác
nhạc, vừa biên đạo múa, vừa làm thơ, viết văn. Thế nhưng, trong kháng chiến
chống Mỹ, anh lại tham gia binh chủng đặc công, là chính trị viên một tiểu đoàn
đặc công nổi tiếng bám trụ kiên cường, chiến đấu ở chiến trường Quảng Ngãi.
Trong đợt Tổng tiến công Mùa Xuân Mậu Thân 1968, anh bị thương nặng, được ra
Bắc điều trị, sau đó được về báo Quân đội nhân dân, làm phóng viên chiến
trường.
Trái với vẻ ngoài
của Khương Thế Hưng, Đoàn Công Tính người dong dỏng cao, da trắng, thư sinh.
Năm ấy anh khoảng 30 tuổi, đã có vợ, mới có con. Đoàn Công Tính là phóng viên
nhiếp ảnh. Trước khi biết anh , tôi đã được xem rất nhiều bức ảnh anh chụp
về người lính, về chiến trường. Những bức ảnh đó thường được đăng trên các báo
Nhân Dân và Quân đội nhân dân.
Cả hai anh vừa từ
Đông Hà, Quảng Trị về , còn nóng hổi không khí chiến trường. Các anh về Hà Nội
để nhận công tác mới : Tham gia Phái đoàn quân sự bốn bên vừa được thành lập
sau hiệp định Pa ri. Tình cờ, tôi lại được ngồi cùng với các anh trong một toa
tàu, trên hai ghế đối diện nhau. Các anh kể chuyện chiến trường, còn tôi thì kể
chuyện hậu phương, chuyện cơ quan, chuyện sơ tán. Đến bữa ăn trưa, tôi bóc bánh
chưng, quà tết quê hương mời các anh , còn các anh thì bóc lương khô, tiêu
chuẩn lương thực của người lính đi công tác để chiêu đãi tôi. Ở trên tàu ,
người ta dễ thông cảm và dễ thân nhau lắm, nhất lại là những ngày hoà bình đầu
tiên, không khí còn bừng bừng sắc Xuân !
Hồi đó, tàu chạy
còn rất chậm . 8 giờ sáng khởi hành từ ga Vinh, nhưng 7 giờ tối mới đến ga
Phủ Lý. Đến đây, Đoàn Công Tính chia tay chúng tôi. Vợ anh, chị Vân Yến, bác sỹ
công tác ở bệnh viện Quân y tại Phủ Lý, đang chờ . Chị vừa mới sinh cháu
đầu. Còn lại tôi và Khương Thế Hưng cùng về Hà Nội. 9 giờ đêm chúng tôi xuống
ga Hàng Cỏ, tôi xin địa chỉ và số điện thoại cơ quan của anh, để liên hệ về
sau. Năm 1975, ngay sau ngày giải phóng Miền Nam, tôi nhớ có lần, tôi đã mời
anh tới nói chuyện về chiến dịch Hồ Chí Minh ở cơ quan tôi lúc bấy giờ còn ở
ngoài bãi Phúc Xá. Giọng anh sang sảng. Anh kể chuyện chiến trường rất hấp dẫn.
Cả hội trường chật nich người, ngồi nghe suốt 4 tiếng đồng hồ mà không có một
ai ra ngoài, mặc dù hôm ấy trời rất nóng.
Khương Thế Hưng
mất năm 1999 vì bạo bệnh, khi mới ở tuổi 65. Sau này, khi đọc sách báo, tôi mới
phát hiện thêm một điều thú vị về anh. Anh chính là anh M , người yêu của bác
sỹ Đặng Thuỳ Trâm. Trong nhật ký, bác sỹ Đặng Thuỳ Trâm thường nhắcđến
anh M, tức là viết tắt bút danh Đỗ Mộc, Nguyên Mộc của anh. Có lẽ anh xây dựng
gia đình muộn vì ám ảnh của mối tình đầu này chăng?
Còn Đoàn Công
Tính, sau chuyến tàu năm ấy, tôi không có dịp gặp anh. Trước khi anh xuống tàu,
vì rất vội nên tôi cũng không kịp hỏi địa chỉ. Thế nhưng, giữa anh và tôi
lại có cái duyên gặp gỡ rất lạ. Năm 1977- 78, tôi tìm hiểu người yêu công tác ở
một cơ quan nọ. Khi chúng tôi sắp tổ chức lễ thành hôn, tôi mới phát hiện ra
rằng, người vợ sắp cưới của tôi và chị Vân Yến vợ anh là hai chị em rất thân
nhau. Bác sỹ Vân Yến sau những ngày làm việc ở bệnh viện Phủ Lý đã xin về công
tác ở một cơ quan dân sự ở Hà Nội, phụ trách y tế cơ quan. Trong
ngày cưới của hai chúng tôi, chính Đoàn Công Tính đã tặng chúng tôi cả một cuộn
phim và chụp ảnh toàn bộ lễ cưới. Nếu biết rằng, thời buổi bao cấp ấy, phim ảnh
vô cùng hiếm, người đến chụp ảnh ở hiệu ảnh Quốc Tế Bờ Hồ còn phải đăng
ký trước để lấy tích kê, thì mới thấy rằng món quà của anh đối với chúng tôi
quý giá biết ngần nào !
Năm 1983, anh chị
chuyển cả gia đình vào sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Vợ chồng tôi cùng
anh Vương Trí Nhàn, nhà phê bình văn học, bạn anh, ra ga Hàng
Cỏ tiễn chân (và chuyển giúp hành lý lên tàu, vì anh chuyển cả gia đình nên rất
nhiêu đồ đạc cồng kềnh) . Tàu chuyển bánh rồi, chúng tôi trở về nhà, lòng bâng
khuâng nghĩ rằng, từ nay phải xa những người bạn quý.
Từ đó, mỗi khi có
dịp vào công tác tại Thành phố Hồ Chí Minh, tôi đều ghé thăm anh chị. Ngược
lại, hai anh chị mỗi khi có dịp ra Hà Nội công tác đều ghé gia đình tôi. Năm
2001, anh xuất bản tập ảnh phóng sự về chiến tranh Việt Nam , có tên là Khoảnh khắc.
Cuốn sách được Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết
lời đề tựa. Anh mang sách ra tặng tôi. Anh còn tìm gặp những cựu chiến binh năm
xưa, những người từng được anh chụp ảnh, để tặng. Thật là một việc làm tình
nghĩa. Nếu chúng ta biết rằng mỗi cuốn sách ảnh của anh có giá bìa là 250.000
đồng, giá hơn nửa chỉ vàng lúc ấy ! (năm 2001 giá vàng 4 số 9 là 475.000
đ/chỉ) . Nhưng giá trị cuốn sách không chỉ ở chỗ ấy. Nhiều Liệt sĩ của chúng ta
hi sinh khi chưa kịp để lại một bức hình, đối với người thân của họ thì tập
sách ảnh của anh là vô giá.
Năm 2007, tôi vào
Thành phố Vũng Tàu dự đám cưới đứa cháu ruột. Xong việc , tôi về Thành phố Hồ
Chí Minh thăm anh chị. Sau 17 năm trời, đây là lần đầu tiên tôi trở lại thành
phố đô hội này. Anh Tính tranh thủ đưa tôi đi thăm một số nơi, giữa đường phố
Sài Gòn chật như nêm. Ở Hà Nội tôi đã quen với cảnh đường chật
người đông nhưng Sài Gòn còn đông gấp bội. Tôi ngỏ ý, trước đây tôi đã mấy
lần đến tham quan dinh Độc Lập nhưng hồi ấy chưa mở cửa tầng hầm, lần này tôi
muốn được trở lại xem. Anh Tính đưa tôi tới đó nhưng không may lại gặp
phải hôm người ta không mở cửa tầng hầm cho khách tham quan. Anh dẫn tôi vào
gặp chị Bùi Thị Hằng, Phó Giám đốc Nhà bảo tàng. Chị Hằng người Đức Thọ, Hà
Tĩnh, là cháu ngoại nhà thơ yêu nước Phan Điện (Phan Điện là bố của hai vị bộ
trưởng Phan Anh, Phan Mỹ trước đây). Chị Hằng tặng mỗi người hai đĩa phim tư
liệu : “ Ngày 30- 4 ở dinh Độc Lập” và “ Chuyện về những người lính xe tăng
390” ( Sau này về Hà Nội, hai đĩa này được nhiều người mượn về xem và sao lại)
. Sau đó, khi biết nguyện vọng của hai anh em(thực chất là của riêng tôi) chị
gọi một cô hướng dẫn viên trẻ tên là Thu dẫn hai anh em đi thăm hầm ngầm dưới
dinh. Chị ưu ái hai vị khách đặc biệt như thế đấy. Thế mới biết, ở Sài
Gòn, anh Tính quan hệ rộng như thế nào. Khi hai anh em chia tay, chị Hằng còn
hát “Đi mô cũng nhớ về Hà Tĩnh”, tôi biết chị có ý tiễn riêng tôi (Vì chị và
tôi cùng đồng hương Hà Tĩnh) .
Rời dinh Độc Lập,
anh Tính đưa tôi đến trước tượng đài Bác Hồ ở vườn hoa trước cửa trụ sở Uỷ ban
nhân dân Thành phố để tranh thủ chụp một tấm ảnh kỷ niệm. Khi đi qua toà nhà
Quốc hội cũ (nay là Nhà hát Thành phố) anh Tính hỏi có dừng lại chụp ảnh không.
Lúc này đã là 11 giờ trưa, mà 13 giờ đã phải có mặt tại sân bay Tân Sơn Nhất ,
không thể dềnh dàng được nữa. Hai anh em đành đèo nhau về nhà ăn cơm. Ăn xong,
anh thuê một người lái xe ôm chở tôi ra sân bay. Vì cả buổi sáng đèo tôi đi
chơi,bây giờ anh đã mệt. 12 h45, tôi từ giã anh chị, lên xe ôm ra sân bay Tân
Sơn Nhất. Đến nơi, móc tiền ra giả anh xe ôm, anh cười bảo là anh Tính đã giả
trước rồi. Cảm ơn anh Tính, chị Yến đã quá chu đáo. Cảm ơn cả anh xe ôm Sầi
Thành nữa bởi tính chân thật của anh. 13h30, tôi lên máy bay về Hà Nội.
Mấy ngày sau, tôi
nhận được một chiếc phong bì dày gửi bảo đảm từ thành phố Hồ Chí Minh. Đó là
những bức ảnh anh chụp trong ngày anh đưa tôi đi chơi . Anh chu đáo như thế
đấy.
Đoàn Công Tính là
một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài danh. Anh đã nhận được Giải thưởng lớn kèm Huy chương
vàng của tổ chức Quốc tế các nhà báo OI J (cho bức ảnh Đánh chiếm căn cứ Đầu
Mầu) ; giải Nhất của Hội văn nghệ Hà Nội 1970 ( cho bức ảnh Trên đường hành
quân) ;giải nhất của Hội nhà báo Việt Nam 1973 (cho bức ảnh Trên đồi không tên)
; giải Nhất của Tổng cục chính trị 1970 (cho bức ảnh Tiến bước dưới Quân kỳ);
giải thưởng Hội nhà báo Thành phố Hồ Chí Minh (cho bức ảnh Người cửa sông) v.v.
. .Năm 2005, tập ảnh Khoảnh khắc vinh dự được nhận Giải
thưởng ảnh Châu Á Xa ga mi ha ra của Nhật Bản. Hiện nay anh
đang nung nấu ý định xây dựng một Bảo tàng tư nhân về chiến tranh Việt Nam .
Đi đâu anh cũng để ý sưu tầm, nhặt nhạnh các hiện vật từ quả mìn, “cây nhiệt
đới”, vỏ bom bi, bom B 52 v.v. . .Những vật bình thường không ai để ý đến,
nhiều khi đối với anh lại là quý giá. Chúc anh đạt được thành công như ý. / .
SỰ TÍCH VỀ CHIẾC
XE ĐẠP CỦA NHÀ VĂN PHÙNG QUÁN
Mấy hôm nay đọc
một số tác phẩm có nhắc đến nguồn gốc chiếc xe đạp của nhà văn Phùng Quán. Đó
là các tác phẩm Ký ức vụn và Chuyên đời vớ vẩn
của Nhà văn Nguyễn Quang Lập và Chuyện Phùng Quán đăng tải
trên trang mạng của nhà thơ Ngô Minh.
Đây là một đoạn
trong bài Sự tích chiếc xe trâu của Phùng Quán : “Đến chơi nhà Trần Dần, anh
thấy có tờ họa báo Phụ nữ Liên Xô, vừa lật được vài trang thấy thông báo về thể
lệ cuộc thi viết về Lê Nin. Ngó xuống phần giải thưởng , giải khuyến khích là
đồng hồ báo thức, bút máy và một vài thứ khác. Lập tức anh về nhà viết ngay,
quyết giành cho được cái giải khuyến khích. Chừng hai ngày anh viết xong cái
truyện Như con cò vàng trong cổ tích. Tất nhiên anh không lấy tên thật. Anh thư
vào Nghệ An cho chú em họ đang làm công nhân lâm trường gì đấy, xin phép được
lấy tên anh ấy. Sở dĩ anh lấy tên chú em họ , vì chuyện thi cử anh không dám
mượn tên mấy ông bạn nhà văn anh vẫn mượn tên, hơn nữa, lấy tên một người thuộc
giai cấp công nhân chắc người ta sẽ ưu tiên hơn” (Trích Chuyện đời vớ
vẩn, Tạp văn của Nguyễn Quang Lập). Còn theo nhà thơ Ngô Minh thì người mà
Phùng Quán mượn tên không phải em họ mà là em vợ Phùng Quán, có tên là Vũ Quang
Khải, công tác tại một Lâm trường ở Nghệ An.
Phùng Quán đã gửi
một truyện ngắn dự thi, chỉ mong được cái giải khuyến khích, được cái
đồng đồng hồ báo thức cho con ngủ dậy đúng giờ để đi học. Không ngờ, ông đã
được giải Nhất, giải thưởng là chiếc “xe trâu” – xe đạp thồ Liên Xô.
Là người có tham
gia dự thi năm ấy và có được giải, được mời vào Đại sứ quán Liên Xô nhận giải ,
tôi xin được bổ sung thêm một số chi tiết.
Cuộc thi này do
Hãng thông tấn Liên Xô Nô vôt xti tổ chức cho bạn đọc, bạn viết trong tất cả 12
nước Xã hội chủ nghĩa anh em lúc bấy giờ. Cuộc thi mang tên Sáng tác về đề tài
Lê Nin và đất nước Liên bang Xô viết nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh V. Lê nin
(1870- 1970) . Thông báo về cuộc thi được đăng tải trên Họa báo Liên Xô và báo
Phụ nữ Liên Xô (cũng là báo ảnh, mà trước đây ta thường gọi là họa báo).Đây là
2 ấn phẩm của Liên Xô được lưu hành ở Việt Nam, nhưng cũng không phổ biến lắm
(cán bộ cỡ như thế nào đó mới được đặt mua dài hạn, chứ không có bán ở thị
trường) . Gửi bài dự thi cũng gửi về Ban Biên tập của Họa báo Liên Xô hoặc báo
Phụ nữ Liên Xô.
Thể tài dự thi gồm
Văn (truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản sân khấu), thơ (kể cả trường ca), nhạc
(kể cả ca khúc và nhạc không lời), tranh và tượng, chủ yếu là ca ngợi Lê nin và
cuộc sống tươi đẹp ở đất nước Liên Xô. Cuộc thi được phát động vào đầu năm 1969
và kết thúc vào đầu năm 1970. Tổ chức tổng kết và trao giải vào ngày 17.4.1970.
Giấy báo trúng
giải và giấy mời nhận giải được gửi đến trước một tuần lễ.
Nhận được giấy mời
vào Đại sứ quán Liên Xô nhận giải thưởng, hồi hộp và lo lắng suốt cả tuần liền.
Lo nhất là kiếm đâu được bộ com lê . Vào Đai sứ quán của người ta cũng như sang
đất nước của người ta rồi, ăn mặc lùi xùi sao được. Hồi ấy cả cơ quan hầu như
chẳng ai có com lê (mỗi người một năm được phát 4 mét phiếu vải, đủ may một bộ
quần áo mặc thường ngày, lấy đâu mà may com lê). Những người có được đi nước
ngoài thì được đến kho của Bộ Tài chính mượn một bộ, khi về lại mang giả. Mượn
mãi không được. Cũng may, hôm trao giải thời tiết mát mẻ, chỉ mặc áo sơ mi bỏ trong
quần, chân diện đôi giày da, thế là lịch sự lắm rồi. Đến nơi, mới thấy mọi
người cũng như mình, nhiều người còn đi dép cao su nữa chứ. Thế là an tâm.
Lễ trao giải diễn
ra vào 19 h ngày 17.4.1970 tại Hội trường Câu lạc bộ của Đại sứ quán, có khỏang
vài trăm người tới dự. Có đại diện Bộ Văn hóa, một số nghệ sĩ (nghệ sĩ
ngâm thơ, ca sĩ, nhạc công để trình bày tác phẩm được giải), các tác giả được
giải, cùng cán bộ và nhân viên Đại sứ quán, có cả ông Đại sứ Sec ba
cốp, Đại sứ Liên Xô tại Việt Nam.
Hồi ấy không kể
văn thơ hay nhạc họa, tất cả các tác giả trúng giải được xếp vào 3 loại:
Loại A, có 3,4
người gì đó, (vì mỗi thể loại được một giải), giải thưởng là một chiêc xe đạp
thồ Liên Xô. Chiếc xe đạp này khung bằng sắt, gióng to, rất thô và nặng, vì vậy
mới gọi là “xe trâu”. Cỡ vành 680 hay 700 gì đấy nên rất cao (xe đạp Thống nhất
của ta cỡ vành là 650), giá khoảng 300 đ, (giá vàng khoảng 70, 80 đ/chỉ, nhớ
không chính xác lắm). Đối với thời điểm đó thì đây cũng là một tài sản có
giá trị.
Tôi được giải loại
B (có 4,5 người đồng hạng), giải thưởng là một chiếc đồng hồ đeo tay
Ra ket ta giá trị khoảng 50 – 60 đ gì đó (lương kỹ sư khởi điểm của tôi
là 63 đ). Tác phẩm dự thi của tôi là một bài thơ có tên là Tôi đã gặp Lê nin,
ca ngợi sự nghiệp của Lê nin. Bài thơ này được nghệ sĩ ngâm thơ Trần Thị
Tuyết (Đài Tiếng nói Việt Nam )
trình bày, sau đó có một phiên dịch người Nga dịch ra tiếng Nga. Còn sau này có
được người Nga in lại trên các sách báo của họ hay không thì tôi không được
biết.
Loại C, rất đông,
giải thưởng là một bộ đĩa hát , cũng có thể là đồng hồ để bàn hay bút máy, tùy
theo tác phẩm dự thi (đại khái giá trị vật chất chỉ khoảng 15 – 20đ). Ví dụ như
Nhạc sĩ Hoàng Đạm, dự thi một ca khúc về Lê nin và được giải thưởng là một bộ
đĩa hát. Sở dĩ nhớ trường hợp của Nhạc sĩ Hoàng Đạm vì hồi ấy ông đã nổi tiếng
với ca khúc Thanh Hóa anh hùng, được phát trên đài luôn. Nhạc sĩ Hoàng Đạm lại
là người duy nhất trong số những người được giải diện đủ bộ com lê ca vát đến
nhận giải.
Tất cả các giải
thưởng loại B và C đều không thấy có giấy chứng nhận được giải . Riêng
loại A cần phải có vì chiếc xe đạp phải đến cơ quan công an đăng ký xin biển số
mới sử dụng được (như đăng ký xe máy bây giờ). Mà muốn đăng ký được ở cơ quan
công an thì phải có giấy tờ, hồ sơ gốc.
Bây giờ nghĩ lại
thấy giải thưởng thật buồn cười. Nhưng hồi ấy những người được tặng cũng
lấy làm hãnh diện lắm, đi đâu cũng được bạn bè, người quen bắt tay chúc
mừng và đòi “khao”.
Các tác phẩm thơ
và ca khúc đoạt giải được chọn để trình bày tại chỗ. Các tác phẩm tranh tượng
thì trưng bày xung quanh tường và trên lối đi. Truyện ngắn và kịch bản thì chỉ
được đọc tên, chứ không có thời gian trình bày. Lễ phát thưởng và trình bày tác
phẩm diễn ra khoảng 3 giờ từ 19h đến hơn 22h. Tất nhiên, nhà văn Phùng Quán
phải chở người em vợ đến nhận giải hộ, còn bản thân mình thì phải đứng ngoài
vỉa hè chờ suốt hơn ba gio dong ho cha trach ong sot ruot la phai.
Chuyện xẩy ra đến
nay đã ngoài 40 năm, còn nhớ được gì thì ghi lại đây làm tư liệu. Chỉ tiếc rằng
ngày ấy không biết có Nhà văn Phùng Quán cũng dự thi. Càng thương cuộc
đời Phùng Quán, viết văn mà không được lấy tên mình, lại phải nhờ người này
người khác đứng tên. Thật đáng buồn cho một thời !
*
ĐỌC “NHÂN THẾ
TÌNH TANG” CỦA MAI HỒNG NIÊN
Nhà thơ Mai Hồng Niên
là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam ,
Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội. Anh và tôi vốn cùng quê huyện Can Lộc, Hà Tĩnh.
Nay do tách một số xã để lập huyện mới mà xã Tân Lộc quê anh sáp nhập với
một số xã khác thành huyện mới Lộc Hà. Thế nhưng, với Mai Hồng Niên, vẫn
chỉ có Can Lộc . Các tập thơ của anh đều ghi quê quán là Tân Lộc,
Can Lộc, mặc dầu huyện Lộc Hà được thành lập từ 2007, đến nay đã được 6 năm.
Bởi theo anh, Lộc Hà chẳng qua là do con cháu một ông quan to muốn được giữ
chức Phó Chủ tịch huyện nên mới đẻ ra huyện mới Lộc Hà, gây ra biết bao khốn
khổ phiền lụy cho người dân.
Là đồng hương,
thỉnh thoảng họp mặt đầu năm, tôi vẫn thường gặp anh. Tại các buổi họp
mặt đó, anh hay lên đọc thơ. Thế nhưng tôi vẫn chưa bao giờ chủ động bắt chuyện
làm quen. Không phải tôi rụt rè gì, mà chỉ vì tôi không muốn đường đột, thấy
người có tên có tuổi thì lân la làm quen.
Hôm Hội Nhà văn tổ
chức tọa đàm về cuốn tiểu thuyết Dòng sông mang lửa của Hồ Sỹ Hậu (29.3.2013),
tôi đến nơi thì anh đã ở đó rồi. Hồ Sỹ Hậu chỉ vào một người có mái tóc bạc
phiêu bồng lãng tử mà hỏi tôi: “Có biết ai đây không?”. Tôi trả lời ngay: “Nhà
thơ Mai Hồng Niên, đồng hương với tôi đấy”. Thế là bắt tay. Thế là làm quen.
Tôi bảo: Tôi rất thích thơ anh (tôi nói tên một số bài thơ anh mới sáng tác gần
đây), tôi thường vào các trang mạng của các nhà văn, nhà thơ tìm đọc thơ anh.
Sẵn có tập thơ “Nhân thế tình tang” mới xuất bản, anh rút ra đề tặng tôi.
Đấy là lần đầu tiên Mai Hồng Niên tặng thơ tôi, mặc dầu thơ anh tôi đã đọc từ
lâu rồi.
Về nhà, tôi mang
tập thơ cho một ông bạn mượn đọc. Ông bạn mới đọc được mấy bài đã vội lên ngay
hiệu sách Tràng Tiền tìm mua. Mấy ông bạn láng giềng ở Khu A tiện thể cũng nhờ
mua hộ. Khu A là khu tập thể của Văn phòng Chính phủ. Các ông bạn ở đây, trước
kia đã từng là những quan chức làm ở cục nọ, vụ kia trong Văn phòng Chính phủ,
thậm chí có người khi đương chức còn làm trợ lý, thư ký cho những nhân vật đặc
biệt, đi nước ngoài như đi chợ. Các ông gần Thượng Giới hơn chúng ta
nhiều. Ấy vậy mà các ông rất thích chuyền tay nhau đọc thơ Mai Hồng Niên. Thỉnh
thoảng có những lúc ngồi với nhau uống nước chè, đàm đạo với nhau về văn chương
thơ phú, lại lấy thơ Mai Hồng Niên ra đọc và bình. Một vị Giáo sư, nguyên
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo trước đây thì bảo: “Thơ thế mới là thơ chứ. Sự
kiện gì cũng thành thơ mà lại rất sâu sắc, rất hay. Thật là uyên bác”. Mà
đúng thế thật. Những chuyện thời sự như Vinashin, Vinalines, sập cầu Cần
Thơ, Dương Chí Dũng bỏ trốn, “Bầu” Kiên bị bắt, Đoàn Văn Vươn bảo
vệ đất đai, đám cưới phô trương khoe của của Thị Liễu… anh đều có thơ, mà thơ
hay, sâu sắc , góc cạnh.
Thơ Mai Hồng Niên
là tiếng nói dân dã, nặng lòng với cuộc đời, đau đáu với thân phận con người.
Đọc thơ anh cả những thế hệ mai sau đều có thể biết được bức tranh hiện thực của
xã hội ngày hôm nay. Thơ Mai Hồng Niên đã phản ánh sâu sắc, nhạy bén, thẳng
thắn, kịp thời bức tranh hiện thực, những sự kiện đặc biệt của xã hôi. Mai Hồng
Niên chia sẻ sâu sắc mọi góc cạnh của đời sống xã hội, mọi số phận của con
người trong cuộc mưu sinh, cảnh báo cho người đời suy ngẫm về nhân tình thế sự,
với lời thơ mộc mạc chân quê mà thấm đậm tình người. Anh là người thành công
nhất về mảng thơ nhân tình thế sự. Mai Hồng Niên xứng đáng được gọi là Thư ký
của thời đại (Trích nhận định của một số Nhà phê bình văn học về thơ Mai Hồng
Niên, chỉ lấy ý không trích dẫn nguyên văn). Mai Hồng Niên đặc biệt thành
công khi lên án những kẻ “công bộc” của dân nhưng tham ô, tham nhũng, thoái hóa
, biến chất, những hiện tượng mua quan, bán chức (ngày nay gọi là hiện tượng
chạy chức, chạy quyền, một hiện tượng phổ biến ), những tiêu cực, thối
nát trong chốn quan trường. Người ta dùng đủ mọi thủ đoạn, không kể gì
phẩm giá con người , miễn là đạt được mục đích cuối cùng, ví dụ như
chuyện một ông quan đầu tỉnh ở một địa phương nọ, trước khi về hưu muốn truyền
ngôi cho con, nhưng người con trai đã trót lỡ tằng tịu với một người con gái để
lỡ mang bầu. Ông quan sắp về hưu không ngần ngại “hi sinh thân mình để cứu con”
bằng cách nhận ngay cái thai ấy là của mình, để ông con được “sạch sẽ” kế thế
vào quyền cao chức trọng. Hay như chuyện một ông cán bộ “cốp”, vợ mới chết chưa
đầy năm đã vội lấy vợ mơí mà cô vợ này lại là người tình của con trai mình:
Vợ cũ chết mấy
tuần trăng
Mới nghỉ hưu đã
hung hăng máu rừng
Con nuôi thành vợ
dễ không
Hai đời vợ, bốn
lần chồng gặp nhau…
Rồi thì chuyện một
ông cán bộ muốn lên chức đã không ngần ngại Tặng vợ để “làm quà cho sếp”
. Trước những câu chuyện thương luân bại lý như vậy trong chốn quan trường, MHN
đã phải thốt lên:
Tướng công Uy Viễn
về đây
Cũng xin bái tạ
thời này kiếp quan.
Những chuyện như
thế thật hi hữu xưa nay, nhưng vải thưa làm sao mà che được mắt thiên hạ, dưới
ngòi bút Mai Hồng Niên đã hiện lên như có đèn flat rọi vào những ngóc ngách bẩn
thỉu của chốn quan trường. Nhà thơ cảnh báo: nếu anh không giữ được phẩm
chất làm người (chứ chưa nói đến phẩm chất người lãnh đạo) thì: “Với nhân
dân, một lũ thằng cả thôi” .
Mai sau có thể
nhiều bài thơ, nhiều tập thơ nhạt nhạt nhòa nhòa của các nhà thơ, trong
đó có cả những nhà thơ (được coi là) lớn, sẽ bị đào thải bởi thời gian,
sẽ bị người đời quên lãng. Nhưng tôi tin rằng, những bài thơ gai góc , sắc cạnh
của Mai Hồng Niên sẽ còn sống mãi trong lòng bạn đọc, chính ở mảng đề tài này!
Những bài thơ như Chuyện tình Ông Tổng Cóc, Món quà tặng Sếp, Thuyền
quyên ứ hự chưa già… sẽ còn sống mãi với thời gian như chuyện cổ tích, như thơ
Hồ Xuân Hương (1).
Sau đây xin giới
thiệu một số bài thơ của Mai Hồng Niên, rút từ tập “Nhân thế tình tang” (Nxb
Hội nhà văn, 2012) mà anh vừa tặng tôi.
*
VỚI MAI HỒNG NIÊN
VÀ “QUÊ MÌNH XỨ NGHỆ”
Tôi biết Mai Hồng Niên (MHN)
đã lâu, đọc thơ anh cũng đã nhiều. Tôi cũng đã từng chọn đăng thơ anh trên
trang mạng của mình từ mấy năm trước (Bài Tâm tình của người xứ Nghệ qua
những bài thơ hay, lên mạng tháng 3 – 2011). Ấy thế nhưng, thực sự làm quen với
anh thì chỉ mới gần đây thôi. Đấy là vào hôm cả hai cùng đến dự buổi Tọa đàm
giới thiệu cuốn tiểu thuyết “Dòng sông mang lửa” của Hồ Sỹ Hậu tại trụ sở Nhà
xuất bản Hội nhà văn. Chuyện đó tôi đã kể lại trong bài “Đọc Nhân thế tình tang
của Mai Hồng Niên”, ở đây không nhắc lại nữa.
Ngay lần gặp nhau ấy, tôi
cũng không ghi lại số điện thoại của anh (một việc rất đơn giản), để liên lạc
về sau. Anh cũng vậy. Bỗng gần đây, anh bất ngờ gọi điện cho tôi: “Tôi phải hỏi
Hồ Sỹ Hậu mới có số điện thoại của anh. Xin báo để anh biết, tôi vừa in một
cuốn sách tập hợp những bài viết phê bình , giới thiệu thơ tôi, trong đó có
chọn bài của anh. Hôm nào sách in xong, tôi sẽ mang đến tặng anh
Cú điện thoại của MHN làm
tôi bất ngờ và thú vị. Số là, bài giới thiệu của tôi về tập thơ “Nhân thế tình
tang” của anh, tôi viết chỉ để đăng lên trang mạng của mình, không gửi cho báo
nào, cũng không đăng ở trang mạng nào khác cả. Mà bài này tôi cũng viết sơ
lược, mang tính chất như một lời dẫn, lời mở đầu, cốt để đăng mấy bài thơ của
anh mà tôi tâm đắc (tôi đã chọn đăng đến 9 bài trong tập thơ này). Tôi không
ngờ anh đã vào trang mạng của tôi, đọc và sau đó lại chọn in vào sách của anh.
Không bất ngờ và thú vị sao được!
Chừng nửa tháng sau, MHN lại
điện thoại cho tôi, báo tin anh đã in xong sách. Anh muốn mang đến tặng tôi
nhưng lại đang ốm, không đi được. Tôi bảo, để tôi đến anh, nhân tiện thăm “cơ
ngơi” của anh ở Hàng Buồm, nơi anh đã “thai nghén” ra những bài thơ hay mà anh
thường đề dưới bài thơ, kèm theo năm tháng.
Đến 53 Hàng Buồm, tôi rất
bất ngờ vì đây là một ngôi nhà mặt phố, chứ không phải ngõ ngách gì cả. Chợt
nghĩ: MHN có nhà ở mặt phố, một con phố cổ sầm uất nhất nhì Hà Nội, mà mỗi mét
vuông có giá đến tiền tỷ (1), sao anh tài quá vậy? Đứng trước nhà, gọi điện cho
anh ra đón. Phải mất một lúc lâu lâu mới thấy anh xuất hiện ở cửa. Anh bảo gửi
xe ở bà hàng nước vỉa hè phía đối diện rồi dẫn tôi vào. Và đây lại là điều bất
ngờ thứ 2 của tôi. Để tới nhà anh, phải đi qua một cái ngõ dài hàng trăm
mét, sâu hun hút. Ngõ ở trong nhà, tức đi qua nhà để vào ngõ. Đây lại là điều
mà tôi không ngờ tới. Phải tới mấy chục hộ cùng chung một số nhà này. Đến cuối
ngõ thì có cầu thang dẫn lên tầng 2. Thì ra đây lại là một chung cư 2 tầng, với
mấy chục hộ sinh sống. Nhà của MHN là một căn phòng ở tầng 2. Nhà báo Vũ Lương,
người bạn lâu năm của MHN đã tả về ngôi nhà này: “Đã 40 năm có lẻ, anh “bám trụ
kiên cường”, như một chứng nhân cho sự tồn tại đến thê lương của những người
dân được sống trong Phố Cổ. Hàng Buồm… như bao con phố nhỏ khác, sầm uất bề
ngoài nhưng mấy ai biết đằng sau nó bao trăm, bao ngàn cư dân đã từng sống và
đang sống chen chúc nhau hít thở loại khí trời đặc quánh hơi người và mùi của
trăm thứ bà rằn, còn trong các phòng tối om người ta chỉ còn cách nhờ cậy vào
mấy chiếc bóng điện thay cho ánh mặt trời…Vậy mà anh đã ở đây, chấp nhận tất
thảy để sống, để làm việc, để viết nên nhiều dòng thơ , nhiều bài thơ thấm đẫm
hơi thở cuộc sống, mênh mang tình đất tình người…” Nhà ở phố cổ của MHN là
như vậy .
MHN lấy ra cỡ một chục cuốn
“Trên chiếu văn , anh Văn Cao nói về thơ MHN” để tặng tôi. Đây là tập sách anh
vừa mới in, tập hợp những bài phê bình, giới thiệu thơ của anh, trong đó có bài
của tôi . Hình như anh có ý giả “nhuận bút” (bằng sách) cho tôi hay sao ấy. Tôi
bảo: “Tôi không cần nhiều đến thế đâu, chỉ cần 2 cuốn, một cho tôi, một cho cô
bạn, thế là đủ. Nếu anh còn cuốn “Quê mình xứ Nghệ” thì cho tôi một cuốn, nếu
không còn thì thôi”. Anh lấy ra một cuốn rồi đề tặng tôi. Một tập thơ dày, đóng
bìa cứng rất trang trọng. Có một điều đặc biệt mà khi anh ghi xong lời đề tặng,
tôi mới để ý tới. Đó là, lần trước anh tặng thơ tôi là ngày 29-3, còn lần này
lại đúng vào ngày 29-9. Trong vũ trụ bao la, trái đất vừa bay đúng một nửa vòng
quay, quanh mặt trời! Lại một điều lý thú, mà trước khi đến nhà anh, tôi đâu có
để ý gì đến ngày với tháng…
*
Tôi cầm tập thơ Quê mình xứ
nghệ (QMXN) mà cảm thấy nằng nặng trên tay. Nặng về trọng lượng, tập thơ dày
dặn đến 300 trang in. Nhưng còn nặng hơn nữa, sức nặng của suy tư, tình cảm mà
anh dồn nén trong thơ. Như tên của nó, tập thơ viết về xứ Nghệ, dành cho người
Nghệ, dành cho những người yêu xứ Nghệ trên đất nước này mà anh góp nhặt trên
30 năm làm thơ (tính theo năm tháng anh ghi dưới mỗi bài thơ)
MHN có một bài thơ viết cho
bạn nhưng tôi nghĩ cũng là viết cho anh, viết về tuổi thơ của anh:
Tuổi thơ lớn lên giữa núi
biếc, non xanh
Cây đa đầu làng, mái đình
cuối xóm
Cánh vạc, con cò chập chờn
trong tưởng tượng
Mùa lúa, vụ khoai rơm rạ mái
tranh nghèo.
Đó là một miền quê nghèo,
thiên nhiên khắc nghiệt. Ai đã từng ở xứ Nghệ, không thể không ám ảnh về những
trận gió Lào. MHN viết nhiều về gió Lào, gió Lào như một nỗi ám ảnh trong thơ
anh: “ Năm tháng tuổi thơ là gió Lào bụi đỏ” , rồi thì: “Cây lưa thưa lá, cháy
cong gió Lào” , và “Gió Lào nhuộm chín màu da”. Từ miền quê này anh lớn lên ,
trưởng thành cầm súng đánh giặc rồi về công tác ở Hà Nội . Sống phần lớn thời
gian ở Hà Nội nhưng anh không nguôi nhớ về miền quê nghèo.
Cái nghèo do thiên nhiên
khắc nghiệt, đã đành. Lại còn cái nghèo do chủ trương đường lối của một thời.
Đã có một thời người ta quá nóng vội, chủ quan duy ý chí, cứ tưởng rằng, chỉ
cần có tinh thần cao là có thể nhảy vọt một cái lên thiên đường chủ nghĩa cộng
sản, là thế giới đại đồng, không biên giới quốc gia, không quân đội, không nhà
tù, là “làm theo sức lực, hưởng theo nhu cầu”… Nghĩa là chỉ cần có tinh thần
phấn đấu quyết tâm thôi là đủ. Quê hương Bác, quê xứ Nghệ thì tinh thần cách
mạng lại càng triệt để. Có thể đoan chắc rằng, những câu khẩu hiệu này chỉ xuất
hiện/hay chỉ có ở xứ Nghệ: “ Thay trời, đổi đất, sắp xếp lại giang sơn” và “Mo
cơm quả cà với tấm lòng cộng sản, chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội”… Chính
những câu khẩu hiệu đó đã làm khổ người dân cả một thời. Đang yên đang lành,
người ta bắt bỏ cả nhà cửa, vườn tược đã có từ đời ông, đời cha, để rồi lên núi
khai hoang, lập làng mới, còn làng cũ thì biến thành đồng ruộng (!) Để “sắp
xếp lại giang sơn” mà lại. Thế mới có cảnh trái khoáy đối với nhà nông:
“Đưa dân lên núi thâm canh mùa vàng”. Có “Phải đâu dân Nghệ ưa nghèo” nhưng
mà “Mấy mươi năm vẫn dăn deo quả cà” là vì những lý do trời ơi như
thế. Quan càng hăng hái, mạnh dạn, triệt để thì quan càng leo cao, vào Trung
ương, chỉ khổ dân đen phải chịu biết bao nhiêu hậu quả. “Mo cơm nếp” ngày xưa,
trong kháng chiến chống Pháp (hình ảnh quen thuộc trong thơ Trần Hữu Thung),
bây giờ bỗng trở thành “cổ tích” vì chỉ còn trong hoài niệm, cơm nếp trở thành
món xa xỉ, làm gì có mà ăn. Người nghèo đi tha phương cầu thực. Sang
trọng như nhà giáo thì phải một buổi đứng lớp, một buổi về chạy xe ôm. Nhưng
không có xe máy để làm phương tiện xe ôm mà phải dùng xe đạp, xe đạp ôm, tức là
phải bán sức lao động, thời ấy gọi là xe đạp lai: “Sáng giảng bài, chiều đi xe
đạp lai”, chở thuê lấy tiền mà MHN mỉa mai chua chát gọi là “nhuận sức” :
“Không có tài viết văn làm thơ/ Đạp xe lai nửa ngày, cứ gọi là nhuận sức”. Càng
xây dựng, càng tiến lên chủ nghĩa xã hội thì cuộc sống càng đói khổ, đói khổ
đến bệ rạc. Nền kinh tế sa sút đến mức, người ta đặt mục tiêu phấn đấu sao cho
“năm nay cố gắng bằng năm ngoái, năm sau cố gắng bằng năm nay” :
Hòa bình rồi đâu còn nữa
chiến tranh
Những năm tháng trước đây
làm gì đến thế
Hạt gạo thành hạt vàng để
con người nhỏ bé
Sống với nhau như chim sẻ
lạc đàn.
Rồi thì chuyện nhập tỉnh
chia tỉnh. Sau ngày thống nhất nước nhà, để tiến lên làm ăn lớn Xã hội chủ
nghĩa, người ta đem sáp nhập 2, 3 tỉnh làm một tỉnh lớn, để có tiềm năng
phát triển độc lập về kinh tế. Những Hà Sơn Bình, Hà Nam Ninh, Hoàng Liên Sơn…ở
miền Bắc, miền Trung thì Bình Trị Thiên, Nghĩa Bình, Phú Khánh, Thuận Hải…,
trong Nam thì Đồng Nai, Sông Bé, Hậu Giang, Cửu Long, Minh Hải… ra đời trong
thời gian này. Đó là một sự “góp gạo thổi cơm chung” mà ngay từ đầu đã
“cơm không lành, canh chẳng ngọt”. Bình Trị Thiên thì vì Thừa Thiên đông người,
nhiều cán bộ hơn, lấn át cả Bình và Trị, nên người ta nói Thiên Trị Bình, chứ
đâu phải Bình Trị Thiên. Nghệ Tĩnh thì vì Nghệ An lớn hơn Hà Tĩnh nên “Vinh dự”
cả. Đấy là dân gian người ta chơi chữ. Tiếng Nghệ Tĩnh nói dấu ngã và dấu nặng
không phân biệt, Vinh dự có nghĩa là Vinh (tức Nghệ An) giữ hết cả. Suốt 15 năm
“góp gạo thổi cơm chung” cả thị xã Hà Tĩnh không xây dựng được một công trình
nào. Tất cả đều tập trung vào Vinh hết. Mâu thuẫn giữa các địa phương ngày càng
gay gắt. Cho đến cuối thập niên 80 đầu 90 thì tất cả các tỉnh bị “ép duyên” đều
đồng loạt xin được “ly hôn”. Chuyện kể rằng, năm đó có một đoàn cán bộ lãnh đạo
tỉnh Nghĩa Bình (do Quảng Ngãi và Bình Định sáp nhập lại) kéo ra Trung ương xin
tách tỉnh, vì rất nhiều tỉnh đã tách rồi. Ông Phạm Văn Đồng khi ấy không còn ở
cương vị Thủ tướng nữa, nhưng ông vẫn là Cố vấn tối cao của Trung ương.
Ông Đồng đã trả lời: “Thì các anh cứ thư thư chờ khi nào tôi chết đã, rồi
hãy tách tỉnh. Các anh làm thế ngay bây giờ, đau lòng lắm”. Sở dĩ ông đau lòng
vì ông là một trong những nhân vật chủ chốt trong việc quyết định nhập tỉnh
trước đây, mà ông lại là người Quảng Ngãi, người ta “nhổ toẹt” vào cái quyết
định trước đây, ngay trên quê hương ông, hỏi không đau lòng sao được. Nhưng đau
đẻ làm sao chờ được sáng giăng, người ta làm sao chờ được đến lúc ông Đồng
chết. Năm 1989 thì Nghĩa Bình tách tỉnh thành hai. Nghệ Tĩnh quê Bác thì có
kiên trì hơn, nhưng cũng chỉ chịu đựng được đến năm 1991 thì tách tỉnh. Ngày
nhập tỉnh thì vui vẻ, cờ mở trống giong, tưởng như mọi tương lai huy hoàng xán
lạn đang chờ phía trước. Nhưng ngày tách tỉnh thì hết sức bẽ bàng:
Có quê hương bỏ quê hương
Mười lăm năm cảnh đoạn
trường là đây
Khi đi trống giục cờ bay
Ngày về phố vắng đường lầy
cỏ hoang
Mười lăm năm đoạn trường mà
MHN nhắc đến đó, không phải là 15 năm lưu lạc đời Kiều mà chính là 15 năm nhập
tỉnh (1976- 1991). Đó là cảnh “Tự gây nên thác, nên ghềnh cho nhau” của một
thời lạc quan tếu, duy ý chí. Người ta nói, “nhiệt tình cộng với sự ngu dốt thì
thành phá hoại”. Không ai phá ta cả mà tự ta phá ta. Đất nước cứ quanh quẩn
trong cái xiềng như thế cho mãi đến những năm 1990 mới bắt đầu đổi mới, mở cửa.
Một luồng gió lạ ùa vào, mang theo cả những cái tốt lẫn cái xấu, cả hoa thơm
nhưng lại cả rác rưởi. Khi đóng thì đóng quá chặt, nhưng khi mở thì lại mở bung
ra, như nhà không cửa. Vì thế mới có những cảnh:
Bệnh viện có quầy bán bia,
Khu triển lãm có hàng thịt
chó
Rồi lại cảnh:
Vừa nghe tiếng ru của bà
Lại xập xình nhạc ABBA giải
buồn.
Không thiếu những cảnh nhố
nhăng:
Những cuộc diễu hành đám
cưới ở Vinh
Xe máy dàn ngang xoáy cơn
lốc mặt phố.
Mở cửa thì đời sống kinh tế
có nâng lên, nhưng khoảng cách giàu nghèo lại càng doãng rộng ra. Bắt đầu xuất
hiện một tầng lớp “trọc phú học làm sang”, sống vì tiền, sống trên tiền, với
những Thị Hến “Làm cơn địa chấn, cưới con bằng vàng”. Rồi thì một tầng lớp quan
lại mới giàu lên nhanh chóng một cách bất minh. Đã làm quan thì thời nào cũng
có tham nhũng. Nhưng thời bao cấp, tham nhũng ít và nhỏ, có lẽ vì ngày ấy quan
lại trong sạch hơn, mà cũng có thể, thời bao cấp cả xã hội nghèo khổ, quốc khố
rỗng không, hằng năm lại phải vác rá đi ăn xin các nước anh em trong phe
XHCN (thu nhập bình quân đầu người trong những năm bao cấp khoảng 100 đô
la/năm, bây giờ đạt khoảng 1.600 đô la, tức gấp 16 lần!), chẳng có gì để mà
tham nhũng. Còn bây giờ thì tham nhũng đã thành quốc nạn. Mà dễ tham nhũng nhất
chính là đất đai. Không phải một con sâu nữa mà là một bầy sâu: “Quan là tham,
gian giảo với lọc lừa”. Dự án đẻ ra dự án, mà thực chất là:
Bán đất, bán biển, bán làng
Dồn dân vô rú, khai hoang
kiếm lời.
Nhà giáo ngày xưa nghèo
nhưng thanh cao. Nhà giáo ngày nay thì:
Cổng trường thành chợ bán
mua
Điểm cao thấp phải đếm đưa
chữ tiền…
MHN sống ở Hà Nội nhưng tấm
lòng luôn đau đáu với quê hương. Cái anten đặc biệt của anh luôn hướng tới
những sự kiện vui buồn ở quê và luôn phản ánh kịp thời với những gai góc,
góc cạnh của nó. Người ta gọi anh là thư ký của thời đại, đúng thế. Những câu
chuyện về một miền quê nhưng cũng là chuyện chung đất nước cả một thời kỳ
lịch sử không hiếm chuyện xót xa, cười ra nước mắt !
Trong câu chuyện thân tình,
MHN “khoe” với tôi, có bài thơ của anh được giả nhuận bút đến 100 triệu đồng
kia đấy . Tôi nói đùa: Thế thì bằng kỷ lục Màu tím hoa sim của Hữu Loan rồi
(bài thơ Màu tím hoa sim của nhà thơ Hữu Loan được một doanh nhân mua bản quyền
với giá 100 triệu đồng). Tôi mừng cho anh. Anh là người sống được bằng thơ. Làm
thơ, viết văn chẳng ai giàu. Cơm áo không đùa với khách thơ. Sống được bằng
nghề là quý lắm rồi. Sống được bằng nghề để không phụ thuộc vào ai, không phải
vì cơm áo gạo tiền, không phải uốn ngòi bút vì một lý do nào đó, để làm nhà thơ
“Trọng nghĩa khinh tài cốt cách văn chương”, như Nguyễn Công Trứ ngày xưa, “làm
cây thông đứng giữa trời mà reo”, không sợ quyền uy, không ngại phơi bày sự
thật, dù sự thật có thể đụng chạm đến ai đó và gây rắc rối cho bản thân mình.
Viết ra những điều tâm huyết, viết cho mình, viết cho đời, chứ không phải uốn
ngòi bút phục vụ một thế lực nào cả. MHN đã làm được điều đó. “Anh cậy
nhờ thơ để nói điều nhân thế”. Và tôi thích thơ anh, tôi quý tác phẩm của anh
cũng chính ở điều đó. Bạn đọc chuyền tay nhau đọc thơ anh, phô tô nhân bản thơ
anh cũng chính vì điều đó (2).
PDK
Chú thích: (1). Đất phố cổ
Hà Nội vùng xung quanh Hồ Gươm có giá 800 – 900 triệu đồng/m2 (thời giá cuối
năm 2013)
(2): Bài này sau đó Nhà thơ
Mai Hồng Niên đã chọn đăng vào tập thơ “Quê mình xứ Nghệ” (Nxb Hội Nhà văn, in
lần thứ 2, Hà Nội , 2014)
*
.
ĐỌC TUỔI THƠ HÀ NỘI NGÀY XƯA TƯỞNG NHỚ NHÀ VĂN LÊ BẦU
Nhà văn Lê Bầu
là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên Hội nhà văn Hà Nội. Các tác phẩm
chính: Thông reo, Đi thực tập, Dòng sữa trắng, Hoàng hậu Vàng Anh, Những năm
tháng trôi qua, Độc hành…Ngoài sáng tác, ông còn là một dịch giả tiếng Trung có
uy tín
Tôi quen biết nhà văn Lê Bầu từ dạo ông còn ở số nhà 105 phố Phùng Hưng. Đó là một căn phòng rộng chừng 12 mét vuông, được ngăn đôi bằng cót ép. Ông một nửa, nhà thơ Huyền Tâm tác giả “Lúa tháng năm kén tằm vàng óng” một nửa. Nhà không có buồng tắm cũng chẳng có khu vệ sinh. Ngoài chiếc giường đơn kê sát vách và cái bàn làm việc chất đầy sách báo kê cạnh cửa sổ thì không gian trong nhà chỉ còn đủ để giải một chiếc chiếu đôi. Bạn bè khách khứa đến chơi, ông đều tiếp trên chiếc chiếu đôi này. Nghe nói có lần cơ quan nọ tặng ông một chiếc quạt cây, nhưng nhà chật, để trong nhà thì quạt thốc hết gió ra ngoài, ông phải để ngoài hè phố Phùng Hưng cho thổi thốc vào.Thấy bất tiện quá, một thời gian sau lại phải gửi về quê.
– Trước ở Phùng Hưng chật chội đành phải chịu, sao bây giờ nhà rộng thế này mà anh không đón một hai cháu đến đây ở với cho vui, nó phục vụ cơm nước cho?
Ông trả lời:
– Nó phục vụ mình, hay rồi mình lại phải phục vụ lại nó. Rách việc lắm. Tôi quen sống một mình từ xưa rồi, tự mình phục vụ lấy mình thôi.
Biết rằng, mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh, chẳng ai giống ai, tôi không hỏi gì thêm.
Nhà văn Lê Bầu là người của công việc. Lần nào đến chơi, tôi cũng thấy ông ngồi bên chiếc máy chữ cổ lỗ. Sau này, khi về KTT Thanh Nhàn ông được bạn bè tặng cho một chiếc máy vi tính, ông bắt đầu làm quen với vi tính, nhưng máy cũng trục trặc hỏng hóc luôn. Dù rất bận công việc, nhưng mỗi khi có bạn bè đến chơi, ông đều xếp công việc lại, “làm chén nước đã” . Bao nhiêu lần đến chơi, tôi đều thấy ông tỷ mẩn súc rửa ấm chén rồi pha lượt trà mới, chứ chưa bao giờ thấy ông đổ thêm nước vào ấm chè uống dở bao giờ. Ông có thói quen uống trà đặc, pha trong chiếc ấm da lươn bé tí, còn chén thì bằng cỡ “hạt mít” . Cứ thế, anh em ngồi đối ẩm hàng tiếng đồng hồ. Ông thường bảo, cứ thong thả, công việc thì hàng ngày, lúc nào mà chẳng được. Ông có giọng nói sôi nổi, trẻ trung như của tuổi thanh niên, với cái cười rất sảng khoái . Có một lần, tôi đang ngồi đối ẩm với ông thì có chuông điện thoại. Ông xin lỗi, rồi bắt máy, trả lời. Chỉ thấy ông thoải mái “Không sao, không sao!”, chả hiểu chuyện gì. Nói chuyện xong, ông mới nói lại với tôi. Chả là, có một tờ báo trong
Một lần, chúng tôi được Tòa soạn một tờ Tạp chí bố trí cho đi du lịch
Cuộc đời Lê Bầu có nhiều long đong, trắc trở. Bạn bè của ông “cùng một kiếp bên trời lận đận”, những Lê Mạc Lân, Hứa Văn Định, Nguyên Bình, Vũ Bão, Bùi Ngọc Tấn, Dương Tường, Châu Diên… một lớp nhà văn, nhà báo tài hoa, nhưng chẳng ai được suôn sẻ. Thậm chí có người như Bùi Ngọc Tấn còn bị ngồi tù đến năm năm trời, tù không án, bản thân người trong cuộc cũng chẳng biết vì tội tình gì mà bị tù giam cả. Có người phải bán máu để duy trì cuốc sống như Mạc Lân, Dương Tường (bán máu theo đúng nghĩa đen của từ này). Lê Bầu thì có lần bị người ta bí mật khám xét chỗ ở (lúc ông tá túc ở đền Ngọc Sơn), vì tình nghi ông dính líu chính trị chính em gì đấy. Ở một đất nước mà nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, ở đâu cũng có thế lực thù địch thì những nhà văn, nhà báo không chịu nịnh hót, quỵ lụy cấp trên, những người dám nói thẳng, nói thật như các ông, thường bị vu khống, chụp mũ này nọ là điều không tránh khỏi. Trong những chuyến đi tập thể, những lúc rảnh rỗi, trà dư (chứ không có “tửu hậu”) Lê Bầu thường kể chuyện mình, chuyện bạn, những câu chuyện về nhân tình thế thái, lắm khi cười ra nước mắt. Chúng tôi thường khuyên ông: Cuộc đời anh có nhiều câu chuyện lý thú lắm, ý nghĩa lắm, anh phải viết Hồi ký đi. Ông bảo, mình cũng có ý định đó. Đang chuẩn bị. Chúng tôi hồi hộp chờ đợi. Hồi ký của Lê Bầu, đọc sẽ thú vị lắm đây.
Chờ mãi mà không thấy Hồi ký Lê Bầu trình làng. Không phải ông lười viết mà vì ông quá bận. Bận dịch sách, viết báo trang trải cho cuộc sống hàng ngày. Ông nặng gánh lắm. Bạn bè thân thiết ví ông như một cái đầu tàu, ì ạch kéo đến 11 toa tàu. Tôi là thế hệ sau, nên không dám hỏi ông những điều có tính chất tò mò đời tư ấy. Nhưng chỉ biết rằng, ông làm việc, viết lách là để đảm bảo cuộc sống, cho sự tồn tại của 11 con người, gồm vợ con ông và các cháu nội ngoại, hiện đang sinh sống ở vùng quê ven thị xã Bắc Giang. Ông làm cật lực, làm không kể giờ giấc, vì 11 con người ấy. Viết hồi ký đối với ông như là chơi bời, khi nào rảnh mới làm. Thế rồi ông bất ngờ bị bạo bệnh (bệnh ung thư máu) không kịp hoàn thành hồi ký. Cuốn Hồi ký cuộc đời của ông, mới chỉ viết được phần đầu. Đó là phần viết về tuổi thơ ấu của ông, có nhan đề là “Dân dưới bãi” mà năm năm sau khi Lê Bầu mất, Nhà xuất bản Kim Đồng in ấn mới đặt tên là “Tuổi thơ Hà Nội ngày xưa”.(1)
*
“Tuổi thơ Hà Nội ngày xưa” đưa ta về những năm 30 của thế kỷ trước. Lúc bấy giờ bãi Phúc Xá hãy còn là một mảnh đất hoang vu không người sinh sống. Bọn “đế quốc phong kiến độc ác” đã đem đất ấy “phân lô” rồi biếu không cho những bố cu, mẹ đĩ, những người dân phiêu bạt tứ tán từ các miền quê đói khát về Hà Nội lang thang, tá túc trên các vỉa hè, ngõ hẻm , mỗi người được một suất đất như thế mà không hề phải nộp một đồng một cắc nào. Nếu viết lịch sử về phường Phúc Xá thì họ chính lớp cư dân đầu tiên đến sinh sống ở đây. Gia đình Lê Bầu cũng được một lô đất như thế. Lô đất đủ rộng để gia đình ông dựng ba gian nhà, một gian để ở, còn lại hai gian cho hai gia đình thuê.
Vì là nơi gom góp tập hợp những người tứ tán, vô gia cư nên ở đây ai nấy đều nghèo, phải làm đủ các nghề nặng nhọc để kiếm sống. Người lớn bận làm việc cả ngày, trẻ con không có ai quản lý, chơi bời lêu lổng. Ngoan có, hư có. Cuộc sống các em lớn lên như cây hoang phát triển tự nhiên,không người uốn nắn. Đã là trẻ con thì phải có các trò chơi. Đó là các trò chơi dân dã mang từ các miền quê lên như đánh đáo, trốn tìm, đánh khăng, chơi bi… Trò chơi lành mạnh có, trò chơi xấu cũng có. Trò chơi lành mạnh như trò “nhảy cừu”, thực chất là “chơi mà học, học mà chơi”, một cách sinh động để ôn tập, để ghi nhớ các từ tiếng Pháp, có lẽ là trò chơi mới được du nhập từ ngoài vào. Trò chơi xấu như trò “dán đuôi” vào sau lưng người đi đường. Thực ra thì cũng là chơi cho vui thôi, chứ cũng chẳng hại ai.
Bên cạnh những trang kể về cuộc sống, trò chơi của thiếu nhi hết sức sinh động, Tuổi thơ Hà Nội ngày xưa còn kể về cuộc sống thiếu thốn khổ cực của những người lao động nghèo khổ dưới đáy xã hội. Đó là những người buôn thúng bán bưng, nhưng anh cu ly bat tê (khuân vác) ở các bến xe, những những người bán hàng rong. Có những người thật thà, làm ăn chân chất như vợ chồng Bính Kem nhưng cũng không thiếu những kẻ lưu manh, đầu gấu như Tí Bủng. Có những kẻ chuyên sống bằng lừa đảo như chị em Bính Lớn, Bính Con. Chúng ta lấy làm thú vị rằng, những trò lừa đảo như một người đi trước giả vờ đánh rơi ví rồi người đi sau nhặt được ngay trước mặt “con mồi” để bày trò chia chác. Hay trò “sản xuất” mật gấu giả bằng mật lợn trộn với xà phòng… rất thịnh hành trong thời gian gần đây thì ra đã có từ hàng thế kỷ trước, đã “xưa như trái đất”. Bên cạnh những cuộc đời lừa lọc, xấu xa đó lại nổi lên những tấm lòng chân chất, những con người lương thiện. Như bà Cau bán nước . Bà luôn luôn dặn cậu bé Bầu: “Đứng xa chúng nó ra. Hỏng việc của chúng nó, chúng nó đánh chết” Chúng nó ở đây là chị em Bính Lớn, Bính Con chuyên sống lừa lọc. Qua lời dặn của bà Cau, ta còn thấy được nỗi lo lắng của bà, không chỉ sợ “hỏng việc của chúng nó, chúng nó đánh chết” mà bà còn lo một mối lo sâu xa hơn: Lo cậu bé Bầu đi theo sẽ có nguy cơ tiêm nhiễm phải lối sống gian manh lừa lọc của bọn xấu.Hay như ông Cấn, hàng ngày cục cằn gắt gỏng nhưng lại rất quan tâm đến cậu bé Bầu. Hôm cậu bé đi thi, ông còn đón đường cho cậu tiền ăn quà và còn động viên :Cố gắng thi cho đỗ. Mà một cậu bé hàng xóm thì đỗ hay không thì có liên quan gì tới ông. Còn cô Bính Kem thì rất sòng phẳng, mỗi ngày trả cậu bé Bầu môt chinh để được uống một bát nước tiểu để … chữa bệnh.
Lê Bầu lớn lên trong một xã hội như thế. Ông bố Lê Bầu là một người lao động nghèo khổ, dưới đáy xã hội . Ban đầu ông làm cu li bát tê, tức là mang vác, sắp xếp hành lý cho các hành khách đi xe ô tô ở bến tàu, bến xe. Nhưng ông là người có chí phấn đấu vươn lên, không cam chịu số phận. Từ cu li bát tê, ông chuyển sang chung vốn buôn bè. Thất bại. Ông lại chung vốn mở một cửa hàng xay bột làm bánh. Chí hướng của ông là làm sao cho vợ con được mát mày, mát mặt. Đối với con cái, ông cũng là người nghiêm khắc. Ông luôn dạy con:” Nhà mình nghèo thì nghèo thật , nhưng cấm không được xin xỏ bất cứ ai tiền nong quà cáp, cấm không được thấy người ta ăn mà đứng chầu mồm. Cho cũng không được lấy.” Đó chính là triết lý sống của người xưa, “Đói cho sạch rách cho thơm” mà ông truyền cho con trai một cách rất cụ thể, của một người không được học hành. Tuy không có thời gian kèm cặp con, nhưng ông đã cho con trai theo học đến nơi đến chốn với quan niệm lúc bấy giờ là “không có chữ thì khổ lắm.” Cho đến những năm 40 của thế kỷ trước, ông đã có một cửa hàng làm bánh ở Bắc Giang, lại mở thêm một cửa hàng (tạm gọi là chi nhánh) ở Lạng Sơn nữa. Như vậy cũng tạm gọi là có bát ăn, bát để. Rồi gia đình ông dọn lên Bắc Giang, cậu bé Lê Bầu xa bãi Phúc Xá từ đấy.
Có một điều thú vị đối với tôi là 30 năm sau, vào những năm 70 của thế kỷ trước, tôi lại được sống ở bãi Phúc Xá trong khoảng thời gian 7,8 năm trời. Lúc bấy giờ bãi Phúc Xá đã đông vui, tấp nập lắm rồi. Có nhiều cơ quan, trường học, khu tập thể ở đấy. Tôi nhớ, nhà văn Nguyễn Khải cũng ở khu tập thể ngoài bãi Phúc Xá, gọi là khu tập thể K95 của quân đội. Tôi cũng đã được chứng kiến cảnh lụt lội hàng năm ở Phúc Xá. Đặc biệt trận lụt thế kỷ vào năm 1971 nhà ngập đến mái, phải khoét lỗ trên mái để chui ra, chui vào. Những năm ấy, hồ Phúc Xá vẫn còn. Đường từ bãi Phúc Xá vào phố hay từ phố ra bãi, vẫn chỉ có hai con đường, một ở đầu bãi là đường Tân Ấp, một ở cuối bãi là từ dốc Bến Nứa đi xuống, không có tên (nay là ngõ 187 đường Hồng Hà). Giữa hai con đường ấy chính là hồ Phúc Xá. Dân từ bãi lên phố hay từ phố xuống bãi có thể đi theo hai con đường trên, cũng có thể đi đò qua hồ. Có một bà già chở đò, gọi là bà Giao. Bà có một ngôi nhà bè, đúng như nhà văn Lê Bầu đã kể , có lẽ đó là di tích cuối cùng của những ngôi nhà bè có từ thời Lê Bầu. Ngôi nhà bè này đóng ở chính giữa hồ, chúng tôi quen gọi là “Hạm đội bà Giao”. Thuyền của bà buộc vào bè, từ bên bãi hay từ bờ đê, có ai gọi đò là bà lại từ “hạm đội” xuất phát đi chở. Ở Phúc Xá nhiều nhà có thuyền nhỏ, ngày thường nép sát vào vách nhà, đến ngày ngập lụt mới lấy ra, để chủ động đi lại, và cả chở khách kiếm tiền. Từ ngày khánh thành công trình thủy điện Hòa Bình thì bãi Phúc Xá hầu như không còn cảnh lụt lội hàng năm nữa.
Vật đổi sao dời, hồ Phúc xá nay không còn. Hồ đã bị lấp vào đầu những năm 2000, do một dự án giãn dân của Thành phố Hà Nội. Các con ngõ 41, 75, 91, 105, 115, 131, 151, 163, 175 nối từ đường Hồng Hà ra bãi Phúc Xá, chính là đi qua lòng hồ ngày xưa. Đường 20 ngày xưa, nay là đường An Xá. Các con đường 5, đường 10 ngày xưa, nay là các con ngõ nhỏ, ngang dọc kẻ ô vuông giữa đường An Xá và đường Phúc Xá. Nhà văn Lê Bầu ra đi đã được 5 năm, nhưng những trang văn ông để lại vẫn cuốn hút chúng ta, với những chi tiết lạ lùng, hấp dẫn. Gấp tập sách lại, tôi vẫn như thấy ông đâu đó, với bộ quần áo màu gụ, chan hòa, xuề xòa, giản dị giữa bạn bè , và như đang kể chuyện với chúng ta, bắt đầu với câu khẩu ngữ quen thuộc :
- Rằng thì là…
Những ngày chớm
đông 2014
*
TRÒ
CHUYỆN VỚI NGUYÊN TỔNG BIÊN TẬP ĐINH KHẮC VƯỢNG
Nhà
báo Đinh Khắc Vượng là Phó TBT Thường trực tạp chí TGTT từ năm 1994 -2007, là
Tổng biên tập từ năm 2007 đến nay. Ngoài TGTT là tờ tạp chí “ruột”, anh còn là
Phóng viên- Biên tập viên báo Người giáo viên nhân dân, (báo Giáo dục và Thời
đại), tạp chí Thế Giới Mới, Giáo viên và nhà trường, Giáo dục thể chất, Một cửa
sổ nhìn ra thế giới, và Phó Tổng biên tập báo Dân Trí (giai đoạn 1998- 2001).
Đầu năm nay, vì căn bệnh hiểm nghèo, anh đã viết đơn xin từ chức và trân trọng
giới thiệu anh Đào Nam Sơn, Phó Tổng biên tập với Thường vụ Trung ương Hội Khoa
học Tâm lý – Giáo dục làm người kế nhiệm..
*
Anh Đào Nam Sơn, Phó Tổng biên tập phụ trách Tạp chí TGTT, có nhã ý giao cho tôi một nhiệm vụ “đặc biệt” và rất khó khăn là viết một bài về nguyên Tổng biên tập Đinh Khắc Vượng, người đã gắn bó gần nửa đời mình với những niềm vui, nỗi buồn, những thăng trầm của Tạp chí TGTT. Biết viết thế nào đây về hơn 20 năm đóng góp cho nền báo chí nói chung và cho tờ tạp chí TGTT thân thiết của anh? Biết viết thế nào đây về căn bệnh hiểm nghèo của anh, khiến anh phải “giữa đường đứt gánh” đành phải trao lại trọng trách, đồng thời cũng là một gánh nặng , cho người kế nhiệm.
Anh Đào Nam Sơn, Phó Tổng biên tập phụ trách Tạp chí TGTT, có nhã ý giao cho tôi một nhiệm vụ “đặc biệt” và rất khó khăn là viết một bài về nguyên Tổng biên tập Đinh Khắc Vượng, người đã gắn bó gần nửa đời mình với những niềm vui, nỗi buồn, những thăng trầm của Tạp chí TGTT. Biết viết thế nào đây về hơn 20 năm đóng góp cho nền báo chí nói chung và cho tờ tạp chí TGTT thân thiết của anh? Biết viết thế nào đây về căn bệnh hiểm nghèo của anh, khiến anh phải “giữa đường đứt gánh” đành phải trao lại trọng trách, đồng thời cũng là một gánh nặng , cho người kế nhiệm.
Anh Đào Nam Sơn
dẫn tôi sang nhà riêng của anh ở gần Trụ sở Tòa soạn. Anh nằm trên giường tiếp
tôi. Lần đầu tiên anh tiếp tôi ở tư thế này. Anh không dậy được nữa rồi. Cũng
biết là anh bị mắc căn bệnh hiểm nghèo từ trước (bệnh ung thư gan) nhưng không
ngờ sức khỏe của anh từ sau Tết Con Dê này lại “tụt dốc” nhanh đến thế. Lâu lâu
tôi không có bài cộng tác cho TGTT nên ít đến. Dạo trước Tết Ất Mùi, tôi có đến
Tòa soạn gặp anh, anh vẫn đi lại, nói cười bình thường. Cố quên đi bệnh tật, cố
vượt lên bệnh tật để mà sống, để mà làm việc. Ngày mồng 6 Tết , ngày làm việc
đầu tiên của năm mới, chị Thuần vợ anh còn dìu anh sang Tòa soạn để chúc Tết
anh chị em. Nhưng từ ngày 8 tháng Giêng (âm lịch – tức 26.2.2015) trở đi thì
anh đã phải nằm một chỗ, không đi lại được nữa . Tôi cầm theo cuốn sổ tay, có ý
định để anh ghi vào đó mấy dòng thủ bút, để làm lưu niệm, nhưng anh đã không
còn viết được nữa. Người nhiều năm “tả xung hữu đột” , tất nhiên là trên mặt
trận báo chí, bây giờ nằm đây, da mặt trắng bợt bạt, tay chân tong teo. Được
cái, trí tuệ của anh vẫn minh mẫn, giọng nói của anh vẫn khỏe, vẫn âm vang khúc
chiết như ngày nào.
Còn nhớ, cách đây trên 20 năm, vào đầu những năm 1990, lúc ấy anh đang là Phóng viên thường trú của tạp chí Thế Giới Mới tại Hà Nội, còn tôi thì bắt đầu tham gia viết bài, cộng tác cho tờ tạp chí này. Tôi quen anh từ đó. Tháng 6.1994, anh cùng một số nhà giáo và những người làm công tác giáo dục có uy tín như GS Phạm Tất Dong, Ngô Hào Hiệp, Nguyễn Ngọc Sơn, … đứng ra chủ trương thành lập tờ Tạp chí TGTT, một tờ tạp chí riêng, là cơ quan ngôn luận của Hội Tâm lý Giáo dục Việt Nam. Chính anh là người đã đề nghị đặt tên tờ tạp chí là THẾ GIỚI TRONG TA. Lúc đó, nhiều người không đồng tình, cho rằng cái tên nghe vô lý, khó hiểu. Thế giới thì bên ngoài, chứ sao lại là trong ta? Nhưng càng dùng quen thì càng thấy đơn giản, dễ hiểu. Thế giới trong ta chính là thế giới nội tâm của con người. Người xưa nói “con người là một tiểu vũ trụ” . Thế giới bên trong con người chẳng bao la, phong phú lắm sao. Ngay cái Măng sét của tạp chí cũng do anh đề xuất, và từ khi ra đời đến nay, đã trên 20 năm, cái măng sét đó chưa hề một lần thay đổi. Nó mềm mại, lung linh, uyển chuyển và huyền ảo như thế giới nội tâm của con người vậy!
Đến nay tạp chí đã gần tròn 21 tuổi, 13 năm đầu GS Phạm Tất Dong làm Tổng biên tập tạp chí. GS Phạm Tất Dong tại thời điểm ấy đang là Phó Trưởng ban Khoa giáo Trung ương, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội KHTL- GD Việt Nam, mặc dù bận quá nhiều việc nhưng GS Phạm Tất Dong vẫn giữ phần hồn của TGTT, nghĩa là tất cả các bài lớn nhỏ, ảnh bìa, ảnh trang trong … GS đều đích thân đọc kỹ. Chỉ những bài được TBT ký duyệt thì các anh Vượng, Ngọc Sơn mới được đưa lên mặt báo. GS thường xuyên chỉ đạo: “TGTT phải giữ vững tôn chỉ, mục đích nhưng phải hấp dẫn; chỉ có hấp dẫn mới mời gọi được bạn đọc trong cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa những tờ báo giấy, báo in chất đầy ở ngoài sap báo
Còn nhớ, cách đây trên 20 năm, vào đầu những năm 1990, lúc ấy anh đang là Phóng viên thường trú của tạp chí Thế Giới Mới tại Hà Nội, còn tôi thì bắt đầu tham gia viết bài, cộng tác cho tờ tạp chí này. Tôi quen anh từ đó. Tháng 6.1994, anh cùng một số nhà giáo và những người làm công tác giáo dục có uy tín như GS Phạm Tất Dong, Ngô Hào Hiệp, Nguyễn Ngọc Sơn, … đứng ra chủ trương thành lập tờ Tạp chí TGTT, một tờ tạp chí riêng, là cơ quan ngôn luận của Hội Tâm lý Giáo dục Việt Nam. Chính anh là người đã đề nghị đặt tên tờ tạp chí là THẾ GIỚI TRONG TA. Lúc đó, nhiều người không đồng tình, cho rằng cái tên nghe vô lý, khó hiểu. Thế giới thì bên ngoài, chứ sao lại là trong ta? Nhưng càng dùng quen thì càng thấy đơn giản, dễ hiểu. Thế giới trong ta chính là thế giới nội tâm của con người. Người xưa nói “con người là một tiểu vũ trụ” . Thế giới bên trong con người chẳng bao la, phong phú lắm sao. Ngay cái Măng sét của tạp chí cũng do anh đề xuất, và từ khi ra đời đến nay, đã trên 20 năm, cái măng sét đó chưa hề một lần thay đổi. Nó mềm mại, lung linh, uyển chuyển và huyền ảo như thế giới nội tâm của con người vậy!
Đến nay tạp chí đã gần tròn 21 tuổi, 13 năm đầu GS Phạm Tất Dong làm Tổng biên tập tạp chí. GS Phạm Tất Dong tại thời điểm ấy đang là Phó Trưởng ban Khoa giáo Trung ương, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội KHTL- GD Việt Nam, mặc dù bận quá nhiều việc nhưng GS Phạm Tất Dong vẫn giữ phần hồn của TGTT, nghĩa là tất cả các bài lớn nhỏ, ảnh bìa, ảnh trang trong … GS đều đích thân đọc kỹ. Chỉ những bài được TBT ký duyệt thì các anh Vượng, Ngọc Sơn mới được đưa lên mặt báo. GS thường xuyên chỉ đạo: “TGTT phải giữ vững tôn chỉ, mục đích nhưng phải hấp dẫn; chỉ có hấp dẫn mới mời gọi được bạn đọc trong cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa những tờ báo giấy, báo in chất đầy ở ngoài sap báo
Theo những chỉ đạo đầy sắc sảo ấy, các anh Đinh Khắc Vượng, Nguyễn Ngọc Sơn, Đào Nam Sơn, Khắc Vinh ra sức suy nghĩ, tìm tòi để cho ra những chuyên mục, những cuộc thi, những cuộc trao đổi khoa học nhẹ nhàng, hấp dẫn. Không chỉ có nội dung, hình thức của một tờ Tạp chí, anh Vượng còn có một trách nhiệm hết sức nặng nề của người quản lý: Đó là vấn đề tài chính. Hay nói một cách nôm na là nỗi lo “cơm áo gạo tiền”. Nói tốt nói đẹp gì chẳng biết, nhưng nếu tạp chí không bán được, tia ra ít dần đi , lương lậu cho cán bộ, nhân viên tòa soạn sẽ ít và nhuận bút cho các cộng tác viên cũng ít đi, số người viết bài cộng tác sẽ giảm, thì tạp chí sẽ chết dần chết mòn. Cơ chế thị trường khắc nghiệt lắm. Thế nhưng, từ ngày ra đời, Tạp chí TGTT phát triển liên tục và đi lên không ngừng. Đỉnh cao là vào những năm 2004- 2005, số lượng phát hành đạt được 13 vạn cuốn /1 kỳ. Đó là số lượng phát hành đáng mơ ước của các tạp chí phát hành trên cả nước ta..
Ăn nên làm ra,
lương lậu của cán bộ công nhân viên, bien tập viên cũng kha khá. Nhuận bút cho
cộng tác viên cũng vào loại trung bình khá trong mặt bằng chung của làng báo
chí. Đặc biệt, anh Vượng còn hay tổ chức các đợt tham quan nghỉ dưỡng mỗi năm
một lần cho cán bộ công nhân viên và các cộng tác viên thân thiết. Có năm đi
Vân Nam, có năm đi Quảng Tây (Trung Quốc), còn đa số các năm đi tham quan, nghỉ
dưỡng trong nước. Có thể kể một số nơi mà chúng tôi đã từng đến: Khu du lịch
Tam Đảo, Vườn Quốc gia Cát Bà, Khu du lịch suối nước khoáng Thanh Thủy, Vườn
Quốc gia Cúc Phương, rồi Sa Pa “thành phố trong sương”, rồi Tam Cốc- Bích Động
“ Hạ Long trên cạn” , rồi tua Du lịch đường thủy đến các di tích danh thắng ven
sông Hồng…. Trong cuộc đời mấy chục năm viết báo của mình, tôi cũng đã cộng tác
với nhiều tờ báo, tạp chí, nhưng tôi chưa thấy tờ báo, tạp chí nào đối xử nồng
hậu đối với đội ngũ cộng tác viên như thế. Cùng lắm thì mỗi năm, vào những ngày
cận Tết, người ta mời các anh em cộng tác viên “ruột” đến gặp mặt, chúc Tết rồi
biếu cho mỗi người một cái phong bì ăn tết. Như thế cũng đã là quý lắm rồi.
Viết như thế để thấy được tình cảm thân thiết, gắn bó và sự trân trọng giữa Tòa
soạn TGTT mà cụ thể là anh Vượng đối với các cộng tác viên. Trong các chuyến đi
như thế, các cộng tác viên có dịp giao lưu, làm quen, đàm đạo, trao đổi với
nhau. Tôi đã có dịp giao lưu, làm quen với Nhà Yô ga- nhà báo kỳ cựu Thế Trường
, người nổi danh từ những năm tôi còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông trung
học; Nhà ngoại giao- Dịch giả Dương Danh Di, người đã có 17 năm làm Tổng lãnh
sự quán của ta bên Quảng Châu, Trung Quốc; nhà văn Lê Bầu, nhà văn Nguyễn Bắc
Sơn, các nhà giáo duc- GS Phong Lê, GS Nguyễn Khắc Phi, các anh Nguyễn Hải
Hoành, Thái Hư… trong những dịp như thế.
Để câu khách, nhiều tờ báo, tạp chí thường hay đăng tải những tin giật gân, những câu chuyện ly kỳ như những vụ án mạng: cướp của, giết người, hiếp dâm …mà anh Đinh Khắc Vượng và các anh trong Ban Biên tập không bằng lòng và xem đây là một kiểu câu khách không nên làm. TGTT chinh phục bạn đọc bằng những bài viết nghiêm túc nhưng không khô cứng, chuyên sâu mà không khó hiểu, phong phú mà không tạp nham… Chính Tổng biên tập Đinh Khắc Vượng đã đề xuất và cho mở rất nhiều chuyên mục đặc biệt, nhiều cuộc thi độc đáo như thi Viết thư cho người yêu, Thi Vịnh đôi đũa, thi viết Những mẩu chuyện sâu sắc tuổi thơ, thi Những mẩu chuyện về ứng xử… Lần lượt được tổ chức, thu hút hàng chục vạn người tham gia. TGTT đã biến độc giả thành tác giả, thành cộng tác viên của tạp chí một cách tự nhiên như thế.
Để câu khách, nhiều tờ báo, tạp chí thường hay đăng tải những tin giật gân, những câu chuyện ly kỳ như những vụ án mạng: cướp của, giết người, hiếp dâm …mà anh Đinh Khắc Vượng và các anh trong Ban Biên tập không bằng lòng và xem đây là một kiểu câu khách không nên làm. TGTT chinh phục bạn đọc bằng những bài viết nghiêm túc nhưng không khô cứng, chuyên sâu mà không khó hiểu, phong phú mà không tạp nham… Chính Tổng biên tập Đinh Khắc Vượng đã đề xuất và cho mở rất nhiều chuyên mục đặc biệt, nhiều cuộc thi độc đáo như thi Viết thư cho người yêu, Thi Vịnh đôi đũa, thi viết Những mẩu chuyện sâu sắc tuổi thơ, thi Những mẩu chuyện về ứng xử… Lần lượt được tổ chức, thu hút hàng chục vạn người tham gia. TGTT đã biến độc giả thành tác giả, thành cộng tác viên của tạp chí một cách tự nhiên như thế.
Cuộc thi viết “Thư
và nhật ký viết cho người yêu” có lẽ là đề tài độc đáo nhất trong văn học Việt
Nam. Sáng tác mà không như sáng tác. Ngày nay, những người xa nhau có nhiều
cách liên lạc với nhau : Điện thoại di đông, lên mạng Chát Oline, những người
cách xa nhau nửa vòng trái đất cũng có thể liên lạc với nhau như ngồi ngay
trước mặt. Nhưng thử tưởng tượng, chỉ vài ba chục năm về trước thôi, phương
tiện liên lạc duy nhất với nhau chỉ là thư từ. Những người yêu nhau vì hoàn
cảnh chiến đấu, công tác phải xa nhau, muốn trao gửi tình cảm cho nhau chỉ nhờ
có lá thư. Lá thư là tình cảm trao gửi, là dồn nén tâm tư, càng xa nhau thì
càng nồng nàn, cháy bỏng. Mà trong cuộc đời này, không ai là không trải qua một
thời tuổi trẻ say mê, một thời yêu đương nồng thắm. Chính vì vậy, cuộc thi đã
thu hút được hàng chục vạn bạn đọc tham gia. Cuộc thi “Thư viết cho người yêu”
kéo dài đến 7 năm, qua 7 đợt thi mà bài vở gửi về không lúc nào ngớt. Qua 7 đợt
thi, 7 lần trao giải, tòa soạn đã chọn lọc được một số tác phẩm tiêu biểu, in
thành hai tập sách “51 bức thư tình hay nhất” và “Sợi tơ trời”, với lượng
phát hành hàng vạn cuốn. Đã có một số nhà xuất bản “ăn theo” rồi ấn hành những
tác phẩm như “Thư tình chọn loc”, “100 bức thư tình nổi tiếng” …mà đa phần các
bức thư được cóp nhặt từ hai cuốn sách này.
Rồi cuộc thi viết Những kỷ niệm sâu sắc tuổi thơ. Tuổi thơ là bình minh của một đời người. Cái “ miền thơ ấu” đó qua đi nhưng còn để lại dư vị, để lại những hồi ức đẹp trong mỗi chúng ta. Cuộc thi viết những kỷ nệm sâu sắc tuổi thơ thu hút hàng ngàn người tham gia. Những người đã đi qua tuổi thơ đều có những kỷ niệm hay, kỷ niệm đẹp về lứa tuổi thần tiên đầy trong sáng này.
Một vật hết sức bình thường như đôi đũa ta ăn cơm hàng ngày cũng trở thành nội dung cuộc thi: “ Thơ vịnh đôi đũa”. Trên thế giới có nhiều cách và “ dụng cụ” để đưa cơm và thức ăn vào miệng. Một số nước Nam Á và Đông nam Á ăn cơm bằng tay, tức là dùng tay “ bốc” cơm mà ăn. Các nước Châu Âu ăn bằng dao , bằng dĩa. Còn dân tộc ta và một số nước Đông Á như Trung Quốc, Triều Tiên, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan ăn cơm bằng đũa. Đôi đũa, trong văn hoá đời sống người Việt trở thành một hình tượng văn học. Đũa là phải ngay thẳng “ vợ dại không hại bằng đũa vênh” , đũa trong quan hệ vợ chồng: “ Làm người như đũa có đôi”. Với TGTT, đũa trở thành một đối tượng để ngâm vịnh. Nói về đôi đũa bình thường, nhưng là nói về đời sống văn hóa của con người. Hàng ngày độc giả đã gửi thơ về “ vịnh đôi đũa” rất nhiều. Toà soạn đã tập hợp lại, in thành tập thơ “ Vịnh đôi đũa” phát hành đến 5.000 bản, bán hết veo. Đó chính là TGTT đã biết lấy một vật tầm thường, nâng lên thành hình tượng văn học.
Các cuộc thi khác mà TGTT phát động đều được bạn đọc hưởng ứng nhiệt tình, và đều đạt được kết quả hơn mong đợi. Chính những cuộc thi như thế đã khai thác được tiềm năng vô tận trong mỗi con người. Có nhiều người nhờ tham gia những cuộc thi như thế mà trở thành cộng tác viên của TGTT. Anh Vượng tâm sự: “TGTT đã tự làm nổi mình bằng các cuộc thi, đố vui, thảo luận như vậy mà đi vào lòng bạn đọc một cách nhẹ nhàng. Có người nói TGTT là tờ báo dễ đọc, giản dị, gần gũi, không lên gân, lên cốt, đấy chính là khoa học tâm lý, khoa học đi vào lòng người.”
Rồi cuộc thi viết Những kỷ niệm sâu sắc tuổi thơ. Tuổi thơ là bình minh của một đời người. Cái “ miền thơ ấu” đó qua đi nhưng còn để lại dư vị, để lại những hồi ức đẹp trong mỗi chúng ta. Cuộc thi viết những kỷ nệm sâu sắc tuổi thơ thu hút hàng ngàn người tham gia. Những người đã đi qua tuổi thơ đều có những kỷ niệm hay, kỷ niệm đẹp về lứa tuổi thần tiên đầy trong sáng này.
Một vật hết sức bình thường như đôi đũa ta ăn cơm hàng ngày cũng trở thành nội dung cuộc thi: “ Thơ vịnh đôi đũa”. Trên thế giới có nhiều cách và “ dụng cụ” để đưa cơm và thức ăn vào miệng. Một số nước Nam Á và Đông nam Á ăn cơm bằng tay, tức là dùng tay “ bốc” cơm mà ăn. Các nước Châu Âu ăn bằng dao , bằng dĩa. Còn dân tộc ta và một số nước Đông Á như Trung Quốc, Triều Tiên, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan ăn cơm bằng đũa. Đôi đũa, trong văn hoá đời sống người Việt trở thành một hình tượng văn học. Đũa là phải ngay thẳng “ vợ dại không hại bằng đũa vênh” , đũa trong quan hệ vợ chồng: “ Làm người như đũa có đôi”. Với TGTT, đũa trở thành một đối tượng để ngâm vịnh. Nói về đôi đũa bình thường, nhưng là nói về đời sống văn hóa của con người. Hàng ngày độc giả đã gửi thơ về “ vịnh đôi đũa” rất nhiều. Toà soạn đã tập hợp lại, in thành tập thơ “ Vịnh đôi đũa” phát hành đến 5.000 bản, bán hết veo. Đó chính là TGTT đã biết lấy một vật tầm thường, nâng lên thành hình tượng văn học.
Các cuộc thi khác mà TGTT phát động đều được bạn đọc hưởng ứng nhiệt tình, và đều đạt được kết quả hơn mong đợi. Chính những cuộc thi như thế đã khai thác được tiềm năng vô tận trong mỗi con người. Có nhiều người nhờ tham gia những cuộc thi như thế mà trở thành cộng tác viên của TGTT. Anh Vượng tâm sự: “TGTT đã tự làm nổi mình bằng các cuộc thi, đố vui, thảo luận như vậy mà đi vào lòng bạn đọc một cách nhẹ nhàng. Có người nói TGTT là tờ báo dễ đọc, giản dị, gần gũi, không lên gân, lên cốt, đấy chính là khoa học tâm lý, khoa học đi vào lòng người.”
TGTT còn một mảng
quan trọng nữa, đó là đi vào phục vụ đội ngũ giáo viên. Công tác bồi dưỡng đội
ngũ giáo viên từ bậc tiểu học đến trung học phổ thông là một công việc thường
xuyên và quan trọng. Hàng năm, mỗi giáo viên có 2 tháng học tập, bồi dưỡng
nghiệp vụ. Còn trong 9 tháng giảng dạy vẫn phải không ngừng tự học, tự bồi
dưỡng, tự nâng cao trình độ bản thân mình. TGTT số chuyên đề, mỗi tháng ra một
kỳ, đã thỏa mãn nhu cầu này của đội ngũ giáo viên. TGTT đặt ra những vấn đề cụ
thể, chuyên sâu của từng môn học, từng phân môn. Bài viết thường do các giáo
sư, các giáo viên dạy giỏi, lâu năm, có nhiều kinh nghiệm trực tiếp viết về
công việc của mình, về kinh nghiệm đứng lớp của mình, nên rất sinh động, rất
thiết thực. TGTT đã “biến” các giáo viên thành những nhà báo, viết về công việc
hàng ngày của chính họ. Nó chính là diễn đàn để các thầy cô giáo trao đổi, phổ
biến kinh nghiệm giảng dạy cho nhau. Đã có nhiều công trình cho thấy, những
giáo viên ham mê học hỏi tìm tòi trong sách báo thì bài giảng hay hơn nhiều,
phong phú hơn nhiều so với những giáo viên lười đọc sách báo.TGTT số Chuyên đề
với số lượng phát hành hàng chục ngàn bản mỗi kỳ, phổ cập đến các trường phổ
thông cấp 1 và 2 trên toàn quốc trở thành tờ báo nghề duy nhất chuyên đi sâu
vào chuyên môn nghiệp vụ của người giáo viên đứng lớp, góp thêm một kênh quan
trọng trong việc đào tạo bồi dưỡng thường xuyên cho đội ngũ giáo viên phục vụ
đổi mới và phát triển sự nghiệp giáo dục phổ thông. Trải qua hơn 20 năm tồn tại
và phát triển, tuy có lúc thăng lúc trầm, cả các số chính trương và phụ trương
đều có mặt khắp các tỉnh thành trong cả nước, rồi theo chân người Việt Nam ra
nước ngoài, sang cả Anh, Pháp, Mỹ, Nhật, Ca na đa, Đức, Thuỵ Điển, đến tận Li
bi xa xôi. Đó là công lao, là dấu ấn của người Tổng biên tập tài năng và tâm
huyết bây giờ đang nằm trước mặt tôi đây.
Tôi hỏi :
– Anh có điều gì gửi gắm cho bạn đọc TGTT không ?
– Từ trước đến nay, bạn đoc và các cộng tác viên đã nhiệt tình ủng hộ TGTT. TGTT sống được, tồn tại và phát triển được là nhờ sự ủng hộ của các bạn. Điều đó làm tôi rất xúc động. Mong rằng bạn đọc và các cộng tác viên tiếp tục ủng hộ TGTT như trước đây.
– Còn đối với người kế nhiệm ?
– Cho đến lúc này, trước khi bàn giao cho anh Đào Nam Sơn, TGTT có con số phát hành là 2 vạn số /mỗi tháng, kể cả chính trương và phụ trương (tức số chuyên đề) , đứng đầu bảng trong các số tạp chí có cùng khuôn khổ. Mong rằng, anh chị em đoàn kết, cố gắng, phấn đấu để tự khẳng định mình. Tôi biết, trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, các loại báo nói, báo hình, báo mạng phát triển như vũ bão, thì báo viết tồn tại được, phát triển được là vô cùng khó khăn.
Nói câu này, anh rơm rớm nước mắt. Tôi biết, anh đang ray rứt , trăn trở lo cho tờ tạp chí “ruột” của mình, lo cho người kế nhiệm và các cộng sự. Trọng trách đang đè nặng trên vai họ. Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ…
*
Thấy “quấy rầy” anh đã lâu, gần hai tiếng đồng hồ rồi, anh cũng đã mệt. Nhân có mấy người khách đến thăm , tôi xin phép ra về. Nắm tay anh mà lòng bâng khuâng, mà dâng trào cảm xúc. Biết nói gì với anh. Một lời động viên ư, một lời an ủi ư ? Chỉ là khách sáo, chỉ là giả tạo. Hơn ai hết, anh biết rõ căn bệnh của mình. Tôi ra về mà lòng mang mang xúc cảm. Về nhà, tôi mở máy tính, ngồi một mạch đến 2 giờ sáng để viết vội những dòng này, kịp gửi đến bạn đọc thân thiết của TGTT…
.
Hà Nội đêm 10 rạng 11.4.2015
*
GẶP MẶT NHÂN DỊP 25 NĂM NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ VÀ TÌM HIỂU PHẢ HỌ
NGUYỄN CỦA ÔNG NGUYỄN VĂN THÀNH
Mùa Xuân thật lắm tơ vương…
Ngay trong một buổi sáng ngày 8.3.2015 (tức 18 tháng Giêng âm lịch)
Duy Kha tôi có đến 3 cuộc “gặp mặt” đầu năm mà cuộc gặp nào với tôi cũng
quan trọng cả:
– Gặp mặt Hội đồng hương Song Lộc tại Hà Nội.
– Gặp mặt Hội hưu trí ngành Vật tư Khu vực Hà Nội.
– Gặp mặt nhân dịp 25 năm nghiên cứu Lịch sử và tìm hiểu Phả họ Nguyễn của ông Nguyễn Văn Thành.
Ông Nguyễn Văn Thành là nhà Nghiên cứu lịch sử có nhiều cống hiến. Năm nay ông đã 86 tuổi, cái tuổi Thượng thượng thọ. Tổ chức cuộc gặp mặt hôm nay vừa là mừng thọ, vừa là mừng công , một sự kiện quan trọng đối với ông và con cháu ông. Ông đã lọc cọc đạp xe đạp đến đưa giấy mời cho tôi ngay từ hôm mùng 3 Tết. Vì vậy, tôi đành nuối tiếc mà gác lại hai cuộc gặp mặt trên để tham gia cuộc gặp mặt thứ 3, tổ chức tại Khách sạn EASTIN EASY, số 27, Quốc Tử Giám, Hà Nội.
Những ngày đầu năm, Hà Nội trời đầy mây, mưa phùn rả rích, độ ẩm trên 90%, ướt át cả tuần lễ, có việc phải ra đường, rất ái ngại. Thậm chí có bài báo còn giật một cái tít rất giật gân: “Người Hà Nội phát điên vì mưa phùn kéo dài nhiều ngày, độ ẩm tới gần 100%” . Bài báo viết: “Đường sá lầy lội, bẩn thỉu, nền nhà thì nồm, quần áo phơi cả tuần vẫn ẩm và hôi rình, đồ điện tử “chập mạch”…là những điều ám ảnh người dân Hà Nội suốt những ngày mưa phùn kéo dài”, (theo kenh14.vn) . Mà có lẽ còn kéo dài hàng tuần lễ nữa ! Rằm tháng Giêng vừa rồi, Ngày thơ ViệtNam
tổ chức tại Văn Miếu, tôi đã phải bỏ không đi. Đó là tình hình thời tiết bất
tiện trong những ngày này.
Có lẽ cũng vì lý do trên mà hôm nay, số người tham dự Tọa đàm không nhiều. Tuy nhiên, những nhân vật chủ chốt, những cây đa, cây đề trong giới Sử học mà ông Thành mời, tôi đều thấy có mặt gần như đầy đủ. Đó là các nhà nghiên cứu, các Giáo sư cao niên: GS Phan Văn Các, GS Chương Thâu, TS Đinh Công Vĩ, TS Nguyễn Cát Điền, các nhà nghiên cứu, cùng bạn bè, con cháu ông Nguyễn Văn Thành.
Buổi gặp mặt bắt đầu vào lúc 8 giờ. Từ 8h00 đến 8h30 là các tiết mục văn nghệ “cây nhà lá vườn” do Đội văn nghệ của CLB Di sản thơ văn truyền thống & Hán Nôm trình diễn.
Đọc tham luận tại buổi tọa đàm có:
– GS Phan Văn Các với bài: Ông Nguyễn Văn Thành, một người say mê nghiên cứu Lịch sử
– GS Nguyễn Đình Chú (Vắng, ủy nhiệm TS Đinh Công Vĩ đọc thay): Có một nhà khoa học bình dân như thế.
– GS Chương Thâu: Tại cuộc họp Mừng công, mừng thọ bác Nguyễn Văn Thành.
– TS Nguyễn Cát Điền: KS Nguyễn Văn Thành trên con đường cội nguồn – dòng họ.
– Lý Văn Thăng: Nhà phả học Nguyễn Văn Thành với tác phẩm Sự tích Chử Đồng Tử
– Gặp mặt Hội đồng hương Song Lộc tại Hà Nội.
– Gặp mặt Hội hưu trí ngành Vật tư Khu vực Hà Nội.
– Gặp mặt nhân dịp 25 năm nghiên cứu Lịch sử và tìm hiểu Phả họ Nguyễn của ông Nguyễn Văn Thành.
Ông Nguyễn Văn Thành là nhà Nghiên cứu lịch sử có nhiều cống hiến. Năm nay ông đã 86 tuổi, cái tuổi Thượng thượng thọ. Tổ chức cuộc gặp mặt hôm nay vừa là mừng thọ, vừa là mừng công , một sự kiện quan trọng đối với ông và con cháu ông. Ông đã lọc cọc đạp xe đạp đến đưa giấy mời cho tôi ngay từ hôm mùng 3 Tết. Vì vậy, tôi đành nuối tiếc mà gác lại hai cuộc gặp mặt trên để tham gia cuộc gặp mặt thứ 3, tổ chức tại Khách sạn EASTIN EASY, số 27, Quốc Tử Giám, Hà Nội.
Những ngày đầu năm, Hà Nội trời đầy mây, mưa phùn rả rích, độ ẩm trên 90%, ướt át cả tuần lễ, có việc phải ra đường, rất ái ngại. Thậm chí có bài báo còn giật một cái tít rất giật gân: “Người Hà Nội phát điên vì mưa phùn kéo dài nhiều ngày, độ ẩm tới gần 100%” . Bài báo viết: “Đường sá lầy lội, bẩn thỉu, nền nhà thì nồm, quần áo phơi cả tuần vẫn ẩm và hôi rình, đồ điện tử “chập mạch”…là những điều ám ảnh người dân Hà Nội suốt những ngày mưa phùn kéo dài”, (theo kenh14.vn) . Mà có lẽ còn kéo dài hàng tuần lễ nữa ! Rằm tháng Giêng vừa rồi, Ngày thơ Việt
Có lẽ cũng vì lý do trên mà hôm nay, số người tham dự Tọa đàm không nhiều. Tuy nhiên, những nhân vật chủ chốt, những cây đa, cây đề trong giới Sử học mà ông Thành mời, tôi đều thấy có mặt gần như đầy đủ. Đó là các nhà nghiên cứu, các Giáo sư cao niên: GS Phan Văn Các, GS Chương Thâu, TS Đinh Công Vĩ, TS Nguyễn Cát Điền, các nhà nghiên cứu, cùng bạn bè, con cháu ông Nguyễn Văn Thành.
Buổi gặp mặt bắt đầu vào lúc 8 giờ. Từ 8h00 đến 8h30 là các tiết mục văn nghệ “cây nhà lá vườn” do Đội văn nghệ của CLB Di sản thơ văn truyền thống & Hán Nôm trình diễn.
Đọc tham luận tại buổi tọa đàm có:
– GS Phan Văn Các với bài: Ông Nguyễn Văn Thành, một người say mê nghiên cứu Lịch sử
– GS Nguyễn Đình Chú (Vắng, ủy nhiệm TS Đinh Công Vĩ đọc thay): Có một nhà khoa học bình dân như thế.
– GS Chương Thâu: Tại cuộc họp Mừng công, mừng thọ bác Nguyễn Văn Thành.
– TS Nguyễn Cát Điền: KS Nguyễn Văn Thành trên con đường cội nguồn – dòng họ.
– Lý Văn Thăng: Nhà phả học Nguyễn Văn Thành với tác phẩm Sự tích Chử Đồng Tử
–
Phan Duy Kha: Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thành như tôi biết (có đăng kem dưới
đây.
– Dương Đình Nhàn: Cụ Nguyễn
Văn Thành – Một con người của công việc.
– Nguyễn Hải Trừng: Những cuốn sách bổ ích về cội nguồn.
….
Các bản tham luận đã nêu bật lên được những đóng góp quý báu của Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thành đối với việc nghiên cứu Lịch sử Việt Nam và đặc biệt là đối với việc tìm hiểu về Phả họ Nguyễn.
Sau đây là toàn văn bài Tham luận của Phan Duy Kha viết vào tháng 5.2014 đọc tại buổi gặp mặt:
*
NHÀ NGHIÊN CỨU NGUYỄN VĂN THÀNH NHƯ TÔI BIẾT
Tôi vốn là kỹ sư Trắc địa- Bản đồ nhưng đam mê Lịch sử. Vào những năm 2000-2003, tôi cùng TS Đinh Công Vĩ và TS Lã Duy Lan gom góp các bài vở từng in trên các báo chí, của 3 người, in chung một cuốn sách nhan đề “Nhìn lại lịch sử” (Nxb Văn hóa – Thông tin, 2003). Từ quen biết TS Đinh Công Vĩ mà tôi quen biết Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thành. Bác Nguyễn Văn Thành vốn là một kỹ sư hóa chất. Cũng như tôi, nghiên cứu lịch sử đối với ông chỉ là nghề “tay ngang” sau khi đã về hưu. Là nghề “tay ngang”, chúng tôi không được học tập , nghiên cứu một cách bài bản. Không được trang bị một “kiến thức nền” thật chắc chắn. Bù lại, chúng tôi có lòng đam mê sâu sắc với lịch sử.
Từ ngày quen biết, mỗi lần in được cuốn sách nào tôi lại mang đến tặng ông. Ngược lại, những tác phẩm mới của ông, kể cả những cuốn sách nhiều tác giả mà trong đó có đăng bài của ông, ông đều đem tặng tôi. Vừa để mừng cho nhau, vừa cũng là sẻ chia , cung cấp tư liệu cho nhau. Từ những cuốn sách, những bài viết của ông đã bổ sung cho tôi nhiều tư liệu lịch sử, nhiều chi tiết thú vị. Với vốn hiểu biết về Hán- Nôm, khi nghiên cứu di tích lịch sử nào ông đều đến tận nơi xem xét, đọc văn bia, thần tích, thần phả, bổ sung nhiều chi tiết thú vị. Xin lấy một vài thí dụ cụ thể.
Là người ViệtNam ,
chúng ta ai cũng biết truyền thuyết Chử Đồng Tử- Tiên Dung. Nhưng có lẽ ít ai
để ý rằng, tại sao quê Chử Đồng Tử ở bên kia sông Hồng mà bãi Tự Nhiên, nơi hai
người gặp nhau lại ở bên này sông Hồng? Là người nghiên cứu, bỏ công tìm hiểu
nhiều về thời đại Hùng Vương, thế nhưng tôi vẫn thắc mắc, không lý giải được,
là: Tại sao quê hương Chử Đồng Tử là làng Chử Xá, bên kia bờ sông Hồng (Tả
ngạn). Thế mà bãi Tự Nhiên, nơi Tiên Dung quây màn tắm rồi tình cờ gặp Chử Đồng
Tử vùi mình trong cát, lại ở bên này sông Hồng (Hữu ngạn). Chả lẽ Chử Đồng Tử
lại bơi vượt sồng Hồng để gặp Tiên Dung? Thì đây, để trả lời câu hỏi này, tác
phẩm “Sự tích Chử Đồng Tử” của Nguyễn Văn Thành (Nxb VH- TT, 2003) đã trả lời
thấu đáo. Trước kia, bãi Tự Nhiên ở bên kia sông Hồng, thuộc huyện Khoái Châu.
Việc bãi Tự Nhiên nhập vào Hữu ngạn là do sự đổi dòng của sông Hồng, mà sự việc
ấy xẩy ra cách đây cũng chưa lâu : “Vì dòng sông thường xuyên đổi dòng nên
nhiều cánh bãi xưa kia dính liền với đất Khoái Châu thì nay lại dính liền với
đất Thường Tín. Bãi Tự Nhiên là một ví dụ điển hình nhất. Vào cuối Lê đầu
Nguyễn, bãi Tự Nhiên là đất của tổng Vĩnh Hưng, huyện Đông An, phủ Khoái Châu,
xứ Sơn Nam Thượng. Điều này đã được ghi rõ trong sách “Các Trấn, Tổng, Xã danh
bị lãm” là sách viết đầu thế kỷ 19. Ngay trong đền Thượng của xã Tự Nhiên còn
lưu nhiều bia công đức thời Lê. Các bia này đều nói bãi Tự Nhiên thuộc huyện
Đông An, phủ Khoái Châu” (trang 12, sđd). Như vậy là, trước thời Nguyễn, bãi Tự
Nhiên vẫn còn nối liền với đất Khoái Châu. Dòng sông đổi dòng, bãi Tự Nhiên
liền mạch với phủ Thường Tín như ngày nay mới bắt đầu từ thời Nguyễn. Tôi đã về
tham quan thực địa bãi Tự Nhiên và thấy dấu vết dòng chảy xưa kia ngay gần sát
bờ đê phía Thường Tín, minh chứng cho điều đó.
Hay như sự tích về Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng. Sách “Việt điện u linh” của Lý Tế Xuyên ghi về ông rất sơ lược : “Theo sách Giao Châu ký thì Vương họ Phùng tên Hưng. Đời đời cha truyền con nối làm tù trưởng Biên khố ở châu Đường Lâm, gọi là Quan Lang, gia tư giàu có, sức rất là khỏe mạnh, có thể bắt hổ, vật trâu. Em là Hãi cũng có sức khỏe, có thể vác mười nghìn cân đá hoặc chiếc thuyền nhỏ nặng một nghìn hộc đi hơn 10 dặm. Những dân Di, Lạo đều sợ tiếng tăm” (Trích truyện Bố Cái đại vương, trong Việt điện u linh). Đại Việt sử ký toàn thư ghi còn sơ lược hơn: “Tân Mùi (791), mùa hạ, tháng 4, người ở Đường Lâm thuộc Giao Châu là Phùng Hưng dấy binh vây phủ. Chính Bình lo sợ mà chết. Trước đây Phùng Hưng vốn là nhà hào phú , có sức khỏe, có thể vật trâu, đánh hổ.Khoảng niên hiệu Đại Lịch (766- 780) đời Đường Đại Tông có loạn, cùng với em là Hãi hàng phục được các ấp bên cạnh , Hưng xưng là Đô Quân, Hãi xưng là Đô Bảo, đánh nhau với Chính Bình, lâu ngày không thắng được. Đến đây dùng kế của người làng là Đỗ Anh Hàn , đem quân vây phủ . Chính Bình lo sợ phẫn uất thành bệnh ở lưng mà chết. Hưng nhân đó vào đóng ở phủ trị , chưa được bao lâu thì chết. Con là An tôn
Tuy nhiên, khi đọc Thần tích đình Thịnh Hào , bản dịch của Nguyễn Văn Thành (Nxb Văn hóa- Thông tin, 2013) thì ta mới thấy, nguồn gốc, thân thế của Phùng Hưng được đề cập chi tiết hơn nhiều. Tổ tiên 7 đời của Phùng Hưng là Phùng Trí Cái đã từng vào triều cận vua Đường Cao Tông (618-626) từ năm Vũ Đức. Trí Cái sinh Gia Cát. Gia Cát sinh Dương Năng. Dương Năng sinh Kiệu Năng. Kiệu Năng sinh Kiến Khởi. Kiến Khởi sinh Hạp Khanh. Phùng Hạp Khanh chính là thân sinh của Phùng Hưng. Đặc biệt, Thần tích còn cho ta biết, Phùng Hạp Khanh đã từng tham gia cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan vào năm 722. Qua đây ta lại thấy sự liên quan thú vị giữa Mai Hắc Đế và Phùng Hưng.
Về chiến công của Phùng Hưng, các tài liệu sử sách của ta ghi rất sơ sài. Việt điện u linh ghi: Khi đó quan đô hộ là Cao Chính Bình đem quân dưới trướng đến đánh họ Phùng không nổi, tức giận thành bệnh mà chết.Phùng Hưng vào phủ Đô hộ coi việc được 7 năm thì mất. Đại Việt sử ký toàn thư thì ghi: Phùng Hưng dấy binh vây phủ (tức phủ Đô hộ) Chính Bình lo sợ mà chết. Tuy nhiên, Thần tích đình Thịnh Hào lại ghi rất chi tiết: “Vương (tức Phùng Hưng) thống lĩnh đại binh một vạn người, chỉ huy Chử Viêm, Bốc Chiêm, Điền Phương, Đoàn Viêm…gồm 28 tướng tiến thẳng về châu trừng phạt. Chính Bình cũng chỉ huy hơn 4 vạn tướng sĩ dưới trướng giằng co với quân của Vương, đại chiến suốt bảy ngày , thúc trống trông sang nhau. Sĩ tốt của Đường chết không đếm xuể, thây chất đầy đồng, máu chảy thành sông. Nước 2 sông Nhĩ Hà, Lô Giang vì vậy mà biến thành màu đỏ. Chính Bình thấy quân ta thế mạnh, không dám đánh, rút vào thành cố thủ. Vương bèn chia quân làm 8 mặt , họp các chư tướng lại, hợp binh vây chúng. Chính Bình lo lắng uất ức, thành bệnh mà chết. Rõ ràng là Thần tích đình Thịnh Hào ghi chi tiết hơn nhiều.
Nhưng có lẽ cồng hiến của Nguyễn Văn Thành, theo tôi, có ý nghĩa nhất là 6 tập “Cội nguồn” :
– Cội nguồn 1- in năm 1996
– Cội nguồn 2- 1997
– Cội nguồn 3- 1999
– Cội nguồn 4- 2001
– Cội nguồn 5- 2002
– Cội nguồn 6- 2004
Đây là tập hợp các bài viết của nhiều tác giả về dòng họ do Nguyễn Văn Thành và Đinh Công Vĩ đồng chủ biên, giới thiệu về Danh nhân và gốc tích các dòng họ Việt Nam. Để ra được những tập sách này, chính ông, Nguyễn Văn Thành đã tập hợp các tư liệu bài viết của nhiều tác giả, rồi cũng chính ông xuất tiền ra in, và tự phát hành. Ông thường nói đùa với tôi: “Mình tự bỏ tiền ra in ấn, phát hành, tiêu thụ được hết, không lỗ là may rồi”. Cũng có nhiều người ủng hộ ông. Có những dòng họ, khi bài giới thiệu về dòng họ mình đươc in trên “Cội nguồn” đã lấy một lúc vài ba trăm cuốn về phát cho con em trong họ, hoặc đặt trên các bàn thờ, coi như tư liệu quý truyền đời của dòng họ mình.
Xin lấy thí dụ một số bài viết ngay trong tập “Cội nguồn” 6, có nhiều bài viết cung cấp cho bạn đọc rất nhiều tư liệu phong phú về các dòng họ : Bình Ngô khai quốc công thần Nguyễn Công Duẩn và họ Nguyễn Gia Diên (của Nguyễn Văn Thành); Tùng Ảnh – Một địa chỉ văn hóa (của GS Phan Văn Các); Về gia phả họ Phan của Hoàng giáp Phan Chính Nghị (của Phan Duy Kha); Gia phong xứ Nghệ được thể hiện từ một số cự tộc ở huyện Can Lộc (của GS Chương Thâu); Lễ nghi Học sĩ Nguyễn Thị Lộ và dòng họ từ vùng quê Tân Lễ (của TS Đinh Công Vĩ) v.v…
Đóng góp của Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thành còn một mảng quan trọng nữa: Đó là tham gia viết bài cho các cuộc Hội thảo khoa học. Ông tham gia nhiều cuộc Hội thảo:
–Hội thảo về dòng họ với truyền thống văn hóa dân tộc
–Hội thảo về dòng họ Bình Ngô khai quốc công thần Lê Sao
–Hội thảo về Định Quốc công Nguyễn Bặc và vai trò lịch sử của ông
–Hội thảo về Trạng nguyên Lê Ích Mộc và quần thể di tích cảnh quan du lịch xã Quảng Thanh, Thủy Nguyên, Hải Phòng
–Hội thảo về Họ Tô và Phòng tuyến sông Cầu.
–Hội thảo về Hoàng Giáp Nguyễn Trung Ngạn
–Hội thảo về Thượng tướng Đại vương Lê Trung Giang ở Hoằng Ngọc, Hoằng Hóa, Thanh Hóa
–Hội thảo về Đặng Huy Trứ và họ Đặng tại Thừa Thiên- Huế v.v…
Hội thảo về danh nhân nào, địa phương nào ông đều đều về tận nơi, xem xét, đọc văn bia, thần tích, thần phả, gia phả, hoành phi, câu đối… và có những tìm tòi, phát hiện mới.
Ở tuổi 86 nhưng nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thành vẫn khỏe mạnh. Ông vẫn thường tham gia điền dã cùng TS Đinh Công Vĩ về các làng quê, đọc gia phả của các dòng họ, đọc văn bia, thần phả, thần tích của các đình, đền, miếu để tìm tòi, phát hiện nhiều tư liệu quý cho sử học nước nhà. Hàng ngày, ông vẫn thường đến bể bơi Ba Đình (ông có thẻ sinh hoạt CLB Ba Đình) để bơi lội, một môn thể thao mà ông rất thích. Và cũng là để rèn luyện sức khỏe, sự dẻo dai, bền bỉ cho công việc nghiên cứu.
Chúc ông có nhiều thành tựu mới và chờ đọc tác phẩm mới của ông.
*
– Nguyễn Hải Trừng: Những cuốn sách bổ ích về cội nguồn.
….
Các bản tham luận đã nêu bật lên được những đóng góp quý báu của Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thành đối với việc nghiên cứu Lịch sử Việt Nam và đặc biệt là đối với việc tìm hiểu về Phả họ Nguyễn.
Sau đây là toàn văn bài Tham luận của Phan Duy Kha viết vào tháng 5.2014 đọc tại buổi gặp mặt:
*
NHÀ NGHIÊN CỨU NGUYỄN VĂN THÀNH NHƯ TÔI BIẾT
Tôi vốn là kỹ sư Trắc địa- Bản đồ nhưng đam mê Lịch sử. Vào những năm 2000-2003, tôi cùng TS Đinh Công Vĩ và TS Lã Duy Lan gom góp các bài vở từng in trên các báo chí, của 3 người, in chung một cuốn sách nhan đề “Nhìn lại lịch sử” (Nxb Văn hóa – Thông tin, 2003). Từ quen biết TS Đinh Công Vĩ mà tôi quen biết Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thành. Bác Nguyễn Văn Thành vốn là một kỹ sư hóa chất. Cũng như tôi, nghiên cứu lịch sử đối với ông chỉ là nghề “tay ngang” sau khi đã về hưu. Là nghề “tay ngang”, chúng tôi không được học tập , nghiên cứu một cách bài bản. Không được trang bị một “kiến thức nền” thật chắc chắn. Bù lại, chúng tôi có lòng đam mê sâu sắc với lịch sử.
Từ ngày quen biết, mỗi lần in được cuốn sách nào tôi lại mang đến tặng ông. Ngược lại, những tác phẩm mới của ông, kể cả những cuốn sách nhiều tác giả mà trong đó có đăng bài của ông, ông đều đem tặng tôi. Vừa để mừng cho nhau, vừa cũng là sẻ chia , cung cấp tư liệu cho nhau. Từ những cuốn sách, những bài viết của ông đã bổ sung cho tôi nhiều tư liệu lịch sử, nhiều chi tiết thú vị. Với vốn hiểu biết về Hán- Nôm, khi nghiên cứu di tích lịch sử nào ông đều đến tận nơi xem xét, đọc văn bia, thần tích, thần phả, bổ sung nhiều chi tiết thú vị. Xin lấy một vài thí dụ cụ thể.
Là người Việt
Hay như sự tích về Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng. Sách “Việt điện u linh” của Lý Tế Xuyên ghi về ông rất sơ lược : “Theo sách Giao Châu ký thì Vương họ Phùng tên Hưng. Đời đời cha truyền con nối làm tù trưởng Biên khố ở châu Đường Lâm, gọi là Quan Lang, gia tư giàu có, sức rất là khỏe mạnh, có thể bắt hổ, vật trâu. Em là Hãi cũng có sức khỏe, có thể vác mười nghìn cân đá hoặc chiếc thuyền nhỏ nặng một nghìn hộc đi hơn 10 dặm. Những dân Di, Lạo đều sợ tiếng tăm” (Trích truyện Bố Cái đại vương, trong Việt điện u linh). Đại Việt sử ký toàn thư ghi còn sơ lược hơn: “Tân Mùi (791), mùa hạ, tháng 4, người ở Đường Lâm thuộc Giao Châu là Phùng Hưng dấy binh vây phủ. Chính Bình lo sợ mà chết. Trước đây Phùng Hưng vốn là nhà hào phú , có sức khỏe, có thể vật trâu, đánh hổ.Khoảng niên hiệu Đại Lịch (766- 780) đời Đường Đại Tông có loạn, cùng với em là Hãi hàng phục được các ấp bên cạnh , Hưng xưng là Đô Quân, Hãi xưng là Đô Bảo, đánh nhau với Chính Bình, lâu ngày không thắng được. Đến đây dùng kế của người làng là Đỗ Anh Hàn , đem quân vây phủ . Chính Bình lo sợ phẫn uất thành bệnh ở lưng mà chết. Hưng nhân đó vào đóng ở phủ trị , chưa được bao lâu thì chết. Con là An tôn
Tuy nhiên, khi đọc Thần tích đình Thịnh Hào , bản dịch của Nguyễn Văn Thành (Nxb Văn hóa- Thông tin, 2013) thì ta mới thấy, nguồn gốc, thân thế của Phùng Hưng được đề cập chi tiết hơn nhiều. Tổ tiên 7 đời của Phùng Hưng là Phùng Trí Cái đã từng vào triều cận vua Đường Cao Tông (618-626) từ năm Vũ Đức. Trí Cái sinh Gia Cát. Gia Cát sinh Dương Năng. Dương Năng sinh Kiệu Năng. Kiệu Năng sinh Kiến Khởi. Kiến Khởi sinh Hạp Khanh. Phùng Hạp Khanh chính là thân sinh của Phùng Hưng. Đặc biệt, Thần tích còn cho ta biết, Phùng Hạp Khanh đã từng tham gia cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan vào năm 722. Qua đây ta lại thấy sự liên quan thú vị giữa Mai Hắc Đế và Phùng Hưng.
Về chiến công của Phùng Hưng, các tài liệu sử sách của ta ghi rất sơ sài. Việt điện u linh ghi: Khi đó quan đô hộ là Cao Chính Bình đem quân dưới trướng đến đánh họ Phùng không nổi, tức giận thành bệnh mà chết.Phùng Hưng vào phủ Đô hộ coi việc được 7 năm thì mất. Đại Việt sử ký toàn thư thì ghi: Phùng Hưng dấy binh vây phủ (tức phủ Đô hộ) Chính Bình lo sợ mà chết. Tuy nhiên, Thần tích đình Thịnh Hào lại ghi rất chi tiết: “Vương (tức Phùng Hưng) thống lĩnh đại binh một vạn người, chỉ huy Chử Viêm, Bốc Chiêm, Điền Phương, Đoàn Viêm…gồm 28 tướng tiến thẳng về châu trừng phạt. Chính Bình cũng chỉ huy hơn 4 vạn tướng sĩ dưới trướng giằng co với quân của Vương, đại chiến suốt bảy ngày , thúc trống trông sang nhau. Sĩ tốt của Đường chết không đếm xuể, thây chất đầy đồng, máu chảy thành sông. Nước 2 sông Nhĩ Hà, Lô Giang vì vậy mà biến thành màu đỏ. Chính Bình thấy quân ta thế mạnh, không dám đánh, rút vào thành cố thủ. Vương bèn chia quân làm 8 mặt , họp các chư tướng lại, hợp binh vây chúng. Chính Bình lo lắng uất ức, thành bệnh mà chết. Rõ ràng là Thần tích đình Thịnh Hào ghi chi tiết hơn nhiều.
Nhưng có lẽ cồng hiến của Nguyễn Văn Thành, theo tôi, có ý nghĩa nhất là 6 tập “Cội nguồn” :
– Cội nguồn 1- in năm 1996
– Cội nguồn 2- 1997
– Cội nguồn 3- 1999
– Cội nguồn 4- 2001
– Cội nguồn 5- 2002
– Cội nguồn 6- 2004
Đây là tập hợp các bài viết của nhiều tác giả về dòng họ do Nguyễn Văn Thành và Đinh Công Vĩ đồng chủ biên, giới thiệu về Danh nhân và gốc tích các dòng họ Việt Nam. Để ra được những tập sách này, chính ông, Nguyễn Văn Thành đã tập hợp các tư liệu bài viết của nhiều tác giả, rồi cũng chính ông xuất tiền ra in, và tự phát hành. Ông thường nói đùa với tôi: “Mình tự bỏ tiền ra in ấn, phát hành, tiêu thụ được hết, không lỗ là may rồi”. Cũng có nhiều người ủng hộ ông. Có những dòng họ, khi bài giới thiệu về dòng họ mình đươc in trên “Cội nguồn” đã lấy một lúc vài ba trăm cuốn về phát cho con em trong họ, hoặc đặt trên các bàn thờ, coi như tư liệu quý truyền đời của dòng họ mình.
Xin lấy thí dụ một số bài viết ngay trong tập “Cội nguồn” 6, có nhiều bài viết cung cấp cho bạn đọc rất nhiều tư liệu phong phú về các dòng họ : Bình Ngô khai quốc công thần Nguyễn Công Duẩn và họ Nguyễn Gia Diên (của Nguyễn Văn Thành); Tùng Ảnh – Một địa chỉ văn hóa (của GS Phan Văn Các); Về gia phả họ Phan của Hoàng giáp Phan Chính Nghị (của Phan Duy Kha); Gia phong xứ Nghệ được thể hiện từ một số cự tộc ở huyện Can Lộc (của GS Chương Thâu); Lễ nghi Học sĩ Nguyễn Thị Lộ và dòng họ từ vùng quê Tân Lễ (của TS Đinh Công Vĩ) v.v…
Đóng góp của Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thành còn một mảng quan trọng nữa: Đó là tham gia viết bài cho các cuộc Hội thảo khoa học. Ông tham gia nhiều cuộc Hội thảo:
–Hội thảo về dòng họ với truyền thống văn hóa dân tộc
–Hội thảo về dòng họ Bình Ngô khai quốc công thần Lê Sao
–Hội thảo về Định Quốc công Nguyễn Bặc và vai trò lịch sử của ông
–Hội thảo về Trạng nguyên Lê Ích Mộc và quần thể di tích cảnh quan du lịch xã Quảng Thanh, Thủy Nguyên, Hải Phòng
–Hội thảo về Họ Tô và Phòng tuyến sông Cầu.
–Hội thảo về Hoàng Giáp Nguyễn Trung Ngạn
–Hội thảo về Thượng tướng Đại vương Lê Trung Giang ở Hoằng Ngọc, Hoằng Hóa, Thanh Hóa
–Hội thảo về Đặng Huy Trứ và họ Đặng tại Thừa Thiên- Huế v.v…
Hội thảo về danh nhân nào, địa phương nào ông đều đều về tận nơi, xem xét, đọc văn bia, thần tích, thần phả, gia phả, hoành phi, câu đối… và có những tìm tòi, phát hiện mới.
Ở tuổi 86 nhưng nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thành vẫn khỏe mạnh. Ông vẫn thường tham gia điền dã cùng TS Đinh Công Vĩ về các làng quê, đọc gia phả của các dòng họ, đọc văn bia, thần phả, thần tích của các đình, đền, miếu để tìm tòi, phát hiện nhiều tư liệu quý cho sử học nước nhà. Hàng ngày, ông vẫn thường đến bể bơi Ba Đình (ông có thẻ sinh hoạt CLB Ba Đình) để bơi lội, một môn thể thao mà ông rất thích. Và cũng là để rèn luyện sức khỏe, sự dẻo dai, bền bỉ cho công việc nghiên cứu.
Chúc ông có nhiều thành tựu mới và chờ đọc tác phẩm mới của ông.
*
Tết Mậu Thìn (
1988) anh chị em chúng tôi tổ chức mừng thọ cha 80 tuổi. Cha mẹ tôi sinh được 5
anh chị em chúng tôi. Hai chị đầu lấy chồng ở quê, đã con đàn cháu đống. Anh
tôi là con thứ 3 nhưng kể con trai thì là con cả. Tôi là con thứ 4. Sau tôi còn
một chú em là liệt sỹ. Em tôi nhập ngũ năm 1969, đến năm 1972 thì hy sinh. Giấy
báo tử chỉ ghi vẻn vẹn: “ Hy sinh tại mặt trận phía Nam ”.
Quê tôi là
một vùng quê giàu truyền thống học hành, thi cử. Các bậc túc nho xưa cho rằng
đó là do được chung đúc khí tốt của non sông :
Trà, Sạc thiên thu chung tú khí
Lam ,Hồng vạn cổ tráng long cơ
( Trà Sơn, Sạc lĩnh chung đúc khí tốt nghìn năm
Sông Lam, núi Hồng vạn cổ cơ đồ hưng thịnh).
Các bậc tiền nhân xưa như Phan Kính, Nguyễn Huy Oánh , hai vị đỗ Đình nguyên Thám hoa hai khoa thi liên tiếp nhau vào thời Lê, hiện tên còn đứng đầu trong văn bia ở Văn Miếu, Hà Nội. Rồi La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, bậc thầy của vua Quang Trung. Rồi nhà thơ Nguyễn Huy Tự với truyện Hoa Tiên, Nguyễn Huy Hổ với Mai Đình mộng ký… Một vùng quê giàu truyền thống văn học với bản sắc riêng mà nhiều người gọi là Hồng Sơn văn phái. Noi gương các bậc tiền bối, ngày nay con cháu cũng rất yêu văn chương. Quê tôi có câu lạc bộ thơ Lam Kiều lấy tên một nhà hoạt động cách mạng thời kỳ 1930-1931, tập hợp những trí thức, những nhà giáo về hưu yêu thơ. Vì vậy mà có những sự kiện gì đặc biệt ở quê, đều có thơ. Lần này cũng thế. Biết chúng tôi tổ chức mừng thọ cha, từ 27-28 tết, các “ nhà thơ” địa phương đã tìm tòi ý tứ, gọt giũa ngôn từ , làm thơ mừng thọ cha tôi. Hai ngày mồng 1, mồng 2 tết, từ sáng đến khuya lúc nào khách cũng đầy nhà. Mồng 3 tết, rải rác còn khách ở xa, biết tin sau đến muộn. Chị dâu tôi tất bật suốt ngày. Còn anh em tôi thì chỉ việc ngồi tiếp khách cùng cha.
Cha tôi sinh năm 1908. Theo lời kể của các bậc già cả trong làng thì năm 1930, trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, cha tôi đã tham gia một cuộc biểu tình rầm rộ vào huyện lỵ Can Lộc. Cuộc biểu tình đó, sau này đọc sử tôi được biết, diễn ra vào ngày 22-12-1930 và bị giặc xả súng đàn áp dã man, 42 người đã hy sinh. ( Ngày nay ở thị trấn Can Lộc đã xây dựng tượng đài kỷ niệm những người hy sinh trong cuộc biểu tình này). Năm 1945, cha tôi vào Đảng rồi tham gia cướp chính quyền ở địa phương. Trong cải cách ruộng đất, gia đình tôi thuộc thành phần trung nông, không được chia thêm ruộng nhưng cũng không bị bớt đi. Năm 1956, sau sửa sai, cha tôi được bầu vào huyện uỷ Can Lộc, phụ trách công tác Mặt trận cho đến lúc về hưu ( 1968). Về quê, ông tham gia công tác và sinh hoạt tại chi bộ địa phương. Vì vậy mà trong thơ mừng thọ của chi bộ có câu:
Công tư vẹn cả tình non nước
Sự nghiệp hoàn thành, nghĩa Đảng- dân.
Hội hưu trí thì mừng thọ bằng câu đối , cũng có ý mừng cha tôi đã hoàn thành nghĩa vụ với Đảng , với dân, để lại một tấm gương cho lớp con cháu hậu sinh :
Tám chục mùa xuân rạng rỡ, nghĩa Đảng lo tròn, guốc xuân trở lại vườn Chu tử
Trăm năm trong cõi vẻ vang, tình dân giữ vẹn , nhân quả lưu truyền lớp hậu sinh.
Trong dòng họ, cha tôi là tộc trưởng của một chi họ Phan. Dòng họ cũng mừng thọ một đôi câu đối , ca ngợi sự sum vầy đoàn tụ, hạnh phúc của tuổi già:
Xã hội buổi thừa hoan, ông đến 80, lan quế sum vầy vui cảnh Tết
Họ hàng ta phấn khởi, bà vừa 77, lý hoè đoàn tụ một nhà Xuân .
Dượng Thắng, chồng của dì tôi (dì là em ruột mẹ tôi) , gọi cha mẹ tôi bằng anh, chị thì mừng một bài thơ:
Xuân đến mừng Anh , tuổi tám mươi
Mừng chung song thọ cả hai người
Trai quý gái hiền không mấy kẻ
Dâu hiền rể thảo được như lời
Cháu chắt hân hoan mừng thọ cố
Phúc nhà ơn Đảng ,hưởng lộc trời
Bài thơ kết bằng câu :
Mừng Anh tuổi thọ, càng thêm thọ
Chúc Chị mười mươi , vẹn cả mười
Ông Phan Mạnh, giáo viên cấp 3, một người họ xa, gọi cha tôi bằng bác, đọc một bài thơ :
Bát tuần song thọ thế gian hy
Mừng bác xuân nay đã tới kỳ
Tóc bạc, da hồng, khôn kẻ sánh
Mắt tinh, tai tỏ, ít ai bì
Vừa nghe đến câu ấy, cha tôi nói :
– Cháu sửa lại cho bác đi, chứ ai lại 80 tuổi rồi mà còn “ Mắt tinh tai tỏ ít ai bì” . Mắt bác còn thấy, tai còn nghe được là quý lắm rồi, chứ còn dám so sánh với ai .
Ông Mạnh lễ phép thưa:
– Thưa bác, bác năm nay đã 80 tuổi rồi mà hàng ngày còn đọc sách và làm các việc khác , như thế cũng là hiếm. Cháu nói “ít ai bì” là ý nói đến tuổi 80 mà còn minh mẫn được như bác, hỏi có mấy ai được như thế, chứ không có ý so sánh với lớp trẻ. Rồi ông đọc tiếp :
Hiếu trung hai chữ, lời vàng để
Cần kiệm đôi đường tiểu sử ghi
Nâng chén quỳnh tương mừng thọ khánh
Lòng thành con tặng khúc Đường thi
Năm ấy, quê tôi mới mắc điện. Điện lưới quốc gia đã về đến từng gia đình. Ánh điện sáng trưng, từ nhà hắt ra ngõ, bà con rất phấn khởi. Ông Trần Hữu Du, một cựu chiến binh, đã kịp thời “phản ánh” sự kiện này trong thơ mừng thọ cha tôi:
Tám chục xuân thu đang vận hội
Trăm năm trong cõi, vẫn đương thời
Nhà cao , điện sáng, nhờ ơn Đảng
Quạt gió, đèn trăng, cậy của trời
Rồi ông kết bài thơ bằng câu :
Lộc nước , phúc trời, vui tuế nguyệt
Cháu con thành đạt, cũng ngang người
Vừa đọc đến đây, anh tôi vội góp ý :
– Câu kết nghe cứ ngang ngang. Vả lại , có vẻ vỗ ngực tự cao, thiếu khiêm tốn. Mong nhà thơ sửa lại cho, chứ nếu không thì sợ mang tiếng.
Ông Du nói :
– Anh em các ông học hành , đỗ đạt cũng thuộc vào loại sớm ở quê ta, kể từ sau ngày hoà bình lập lại (1954) . Các cháu nội ngoại cũng học hành nên người cả. Tôi nói “ngang người” chứ có nói “hơn người” đâu mà ông sợ là tự cao, tự đại. Tranh luận mãi, cuối cùng “ nhà thơ” chỉ đồng ý sửa từ “ngang người” thành “bằng người” mà thôi.
Ông Nguyễn Huy Năm, một giáo viên về hưu, là hậu duệ đời thứ 4 của Nguyễn Huy Tự, cháu trực hệ 3 đời của Nguyễn Huy Hổ. Ông đến mừng thọ cha tôi , nhấp một chén rượu, xong mượn giấy bút viết ngay một mạch :
Xuân về mừng cố 80 Xuân
Hưởng lộc trời cho đủ mọi phần
Hai cố hãy còn bền sức lực
Cháu con rạng rỡ, đẹp tinh thần
Công dân muôn vẻ tròn như một
Nghĩa Đảng trăm bề vẹn cả trăm
Tôi rất thích câu kết của ông :
Vững bước trường sinh, cần hai cố
Đài gương bóng toả, thọ thêm tuần.
Trà, Sạc thiên thu chung tú khí
Lam ,Hồng vạn cổ tráng long cơ
( Trà Sơn, Sạc lĩnh chung đúc khí tốt nghìn năm
Sông Lam, núi Hồng vạn cổ cơ đồ hưng thịnh).
Các bậc tiền nhân xưa như Phan Kính, Nguyễn Huy Oánh , hai vị đỗ Đình nguyên Thám hoa hai khoa thi liên tiếp nhau vào thời Lê, hiện tên còn đứng đầu trong văn bia ở Văn Miếu, Hà Nội. Rồi La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, bậc thầy của vua Quang Trung. Rồi nhà thơ Nguyễn Huy Tự với truyện Hoa Tiên, Nguyễn Huy Hổ với Mai Đình mộng ký… Một vùng quê giàu truyền thống văn học với bản sắc riêng mà nhiều người gọi là Hồng Sơn văn phái. Noi gương các bậc tiền bối, ngày nay con cháu cũng rất yêu văn chương. Quê tôi có câu lạc bộ thơ Lam Kiều lấy tên một nhà hoạt động cách mạng thời kỳ 1930-1931, tập hợp những trí thức, những nhà giáo về hưu yêu thơ. Vì vậy mà có những sự kiện gì đặc biệt ở quê, đều có thơ. Lần này cũng thế. Biết chúng tôi tổ chức mừng thọ cha, từ 27-28 tết, các “ nhà thơ” địa phương đã tìm tòi ý tứ, gọt giũa ngôn từ , làm thơ mừng thọ cha tôi. Hai ngày mồng 1, mồng 2 tết, từ sáng đến khuya lúc nào khách cũng đầy nhà. Mồng 3 tết, rải rác còn khách ở xa, biết tin sau đến muộn. Chị dâu tôi tất bật suốt ngày. Còn anh em tôi thì chỉ việc ngồi tiếp khách cùng cha.
Cha tôi sinh năm 1908. Theo lời kể của các bậc già cả trong làng thì năm 1930, trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, cha tôi đã tham gia một cuộc biểu tình rầm rộ vào huyện lỵ Can Lộc. Cuộc biểu tình đó, sau này đọc sử tôi được biết, diễn ra vào ngày 22-12-1930 và bị giặc xả súng đàn áp dã man, 42 người đã hy sinh. ( Ngày nay ở thị trấn Can Lộc đã xây dựng tượng đài kỷ niệm những người hy sinh trong cuộc biểu tình này). Năm 1945, cha tôi vào Đảng rồi tham gia cướp chính quyền ở địa phương. Trong cải cách ruộng đất, gia đình tôi thuộc thành phần trung nông, không được chia thêm ruộng nhưng cũng không bị bớt đi. Năm 1956, sau sửa sai, cha tôi được bầu vào huyện uỷ Can Lộc, phụ trách công tác Mặt trận cho đến lúc về hưu ( 1968). Về quê, ông tham gia công tác và sinh hoạt tại chi bộ địa phương. Vì vậy mà trong thơ mừng thọ của chi bộ có câu:
Công tư vẹn cả tình non nước
Sự nghiệp hoàn thành, nghĩa Đảng- dân.
Hội hưu trí thì mừng thọ bằng câu đối , cũng có ý mừng cha tôi đã hoàn thành nghĩa vụ với Đảng , với dân, để lại một tấm gương cho lớp con cháu hậu sinh :
Tám chục mùa xuân rạng rỡ, nghĩa Đảng lo tròn, guốc xuân trở lại vườn Chu tử
Trăm năm trong cõi vẻ vang, tình dân giữ vẹn , nhân quả lưu truyền lớp hậu sinh.
Trong dòng họ, cha tôi là tộc trưởng của một chi họ Phan. Dòng họ cũng mừng thọ một đôi câu đối , ca ngợi sự sum vầy đoàn tụ, hạnh phúc của tuổi già:
Xã hội buổi thừa hoan, ông đến 80, lan quế sum vầy vui cảnh Tết
Họ hàng ta phấn khởi, bà vừa 77, lý hoè đoàn tụ một nhà Xuân .
Dượng Thắng, chồng của dì tôi (dì là em ruột mẹ tôi) , gọi cha mẹ tôi bằng anh, chị thì mừng một bài thơ:
Xuân đến mừng Anh , tuổi tám mươi
Mừng chung song thọ cả hai người
Trai quý gái hiền không mấy kẻ
Dâu hiền rể thảo được như lời
Cháu chắt hân hoan mừng thọ cố
Phúc nhà ơn Đảng ,hưởng lộc trời
Bài thơ kết bằng câu :
Mừng Anh tuổi thọ, càng thêm thọ
Chúc Chị mười mươi , vẹn cả mười
Ông Phan Mạnh, giáo viên cấp 3, một người họ xa, gọi cha tôi bằng bác, đọc một bài thơ :
Bát tuần song thọ thế gian hy
Mừng bác xuân nay đã tới kỳ
Tóc bạc, da hồng, khôn kẻ sánh
Mắt tinh, tai tỏ, ít ai bì
Vừa nghe đến câu ấy, cha tôi nói :
– Cháu sửa lại cho bác đi, chứ ai lại 80 tuổi rồi mà còn “ Mắt tinh tai tỏ ít ai bì” . Mắt bác còn thấy, tai còn nghe được là quý lắm rồi, chứ còn dám so sánh với ai .
Ông Mạnh lễ phép thưa:
– Thưa bác, bác năm nay đã 80 tuổi rồi mà hàng ngày còn đọc sách và làm các việc khác , như thế cũng là hiếm. Cháu nói “ít ai bì” là ý nói đến tuổi 80 mà còn minh mẫn được như bác, hỏi có mấy ai được như thế, chứ không có ý so sánh với lớp trẻ. Rồi ông đọc tiếp :
Hiếu trung hai chữ, lời vàng để
Cần kiệm đôi đường tiểu sử ghi
Nâng chén quỳnh tương mừng thọ khánh
Lòng thành con tặng khúc Đường thi
Năm ấy, quê tôi mới mắc điện. Điện lưới quốc gia đã về đến từng gia đình. Ánh điện sáng trưng, từ nhà hắt ra ngõ, bà con rất phấn khởi. Ông Trần Hữu Du, một cựu chiến binh, đã kịp thời “phản ánh” sự kiện này trong thơ mừng thọ cha tôi:
Tám chục xuân thu đang vận hội
Trăm năm trong cõi, vẫn đương thời
Nhà cao , điện sáng, nhờ ơn Đảng
Quạt gió, đèn trăng, cậy của trời
Rồi ông kết bài thơ bằng câu :
Lộc nước , phúc trời, vui tuế nguyệt
Cháu con thành đạt, cũng ngang người
Vừa đọc đến đây, anh tôi vội góp ý :
– Câu kết nghe cứ ngang ngang. Vả lại , có vẻ vỗ ngực tự cao, thiếu khiêm tốn. Mong nhà thơ sửa lại cho, chứ nếu không thì sợ mang tiếng.
Ông Du nói :
– Anh em các ông học hành , đỗ đạt cũng thuộc vào loại sớm ở quê ta, kể từ sau ngày hoà bình lập lại (1954) . Các cháu nội ngoại cũng học hành nên người cả. Tôi nói “ngang người” chứ có nói “hơn người” đâu mà ông sợ là tự cao, tự đại. Tranh luận mãi, cuối cùng “ nhà thơ” chỉ đồng ý sửa từ “ngang người” thành “bằng người” mà thôi.
Ông Nguyễn Huy Năm, một giáo viên về hưu, là hậu duệ đời thứ 4 của Nguyễn Huy Tự, cháu trực hệ 3 đời của Nguyễn Huy Hổ. Ông đến mừng thọ cha tôi , nhấp một chén rượu, xong mượn giấy bút viết ngay một mạch :
Xuân về mừng cố 80 Xuân
Hưởng lộc trời cho đủ mọi phần
Hai cố hãy còn bền sức lực
Cháu con rạng rỡ, đẹp tinh thần
Công dân muôn vẻ tròn như một
Nghĩa Đảng trăm bề vẹn cả trăm
Tôi rất thích câu kết của ông :
Vững bước trường sinh, cần hai cố
Đài gương bóng toả, thọ thêm tuần.
Cố Phước ( quê tôi gọi người già cả bằng cố, tương đương như “cụ” ở miền Bắc) một hậu duệ đời thứ 7 của Đình nguyên Thám hoa Phan Kính. Tuổi cố cùng lớp tuổi cha tôi, tóc bạc phơ như cước. Cũng như cha tôi, cố là một trong số ít người hiếm hoi ở quê tôi còn thông hiểu chữ Hán. Cố mừng cha tôi bằng một bài thơ theo lối cổ thi, dùng nhiều ngôn ngữ, điển tích xưa như “tam dương khai thái” , “áng xuân đài” , “đài thọ vực”. . . mà bây giờ không ai dùng nữa, lớp hậu sinh như chúng tôi cảm thấy rất lạ lẫm :
Vừa gặp hội tam dương khai thái
Ánh thiều quang phơi phới khắp sơn hà
Muôn cỏ cây đều nở lộc khai hoa
Dân trăm họ ơn nước nhà giàu mạnh
Mừng hai cố bát tuần thọ khánh
Hội thăng bình dốc chen thừa hoan
Trước thềm lai lấp lánh vẻ y ban
Trên bầu lý quế non yên hiến thọ
Sách có chữ “hữu phụ từ tất hữu hiếu tử”
Có dâu hiền lại có rể thảo song song
Lúc đương niên gánh vác việc non sông
Trung với Đảng, hiếu với dân tròn hai chữ
Về hưu trí nghỉ ngơi nhàn hạ
Áng xuân đài thượng thọ bước lên
Cuộc khánh diên đốt pháo kéo đèn
Trời ban tuổi, nước ban thêm hưu bổng
Đài thọ vực dần dà thủng thẳng
Tám chin mười vô hạn biết bao la
Gồm hai phúc lộc một nhà .
Ông anh vợ tôi , anh Đôn Văn Biên ,từ Vĩnh Phúc xa xôi cũng gửi thơ vào mừng thọ theo đường bưu điện, làm cha tôi rất cảm động . Thơ anh có những câu :
Đón Xuân mừng thọ ấm tuổi già
Nghe lòng rộn rã tiếng chim ca
Riêng chung vành vạnh tròn mơ ước
Một gốc bao cành đỏ thắm hoa
.
Vĩnh Phúc đường vào Hà -Tĩnh xa
Tứ thơ xin kết một nhành hoa
Chúc mừng hai cụ dư trăm tuổi
Ngũ phúc lâm môn rạng vẻ nhà .
Và còn nhiều nữa, không thể kể hết. Riêng thơ của con cháu nội ngoại mừng thọ ông bà cha mẹ, tôi không dám ghi ra đây , sợ mang tiếng “ cha hát con khen”
Mấy ngày Tết, nhà tôi treo đầy thơ và câu đối. Câu đối viết trên vải đỏ và giấy đỏ. Thơ viết trên giấy trắng, giấy hồng. Ai đến mừng thọ cũng đọc rồi bình thơ, hoặc góp ý sửa chữa một vài từ chưa chuẩn, hoặc lấy giấy bút làm thơ, làm câu đối. Ba ngày Tết, nhà tôi như một câu lạc bộ, không khi nào vắng khách. Tưởng chừng như được sống lại không khí văn chương thời Tú Xương, Nguyễn Khuyến. Chúng tôi đều mệt nhưng rất vui. Niềm vui pha lẫn chút tự hào. Bởi không mấy ai mừng thọ cha mà được nhiều người tặng thơ đến thế. Quý lắm. Quý ở tình làng nghĩa xóm đối với cha tôi, đối với đại gia đình chúng tôi. Tình cảm đó không thể lấy tiền bạc mà mua được.
Tối mồng ba Tết, khi đã vãn khách, tôi thức khuya đến 12 giờ đêm, ngồi chép lại toàn bộ thơ và câu đối vào một cuốn sổ, cất đi để làm kỷ niệm. Sáng hôm sau, mồng 4 Tết, bố con tôi đã phải dậy sớm , ra đường 1 để bắt xe về Hà Nội. Sáng mồng 5, tôi đã phải đến cơ quan, còn con trai đã phải đến trường. ..
*
NHỮNG CUỐN SÁCH
CỦA TÔI
Tôi chưa bao giờ
có ý định viết sách. Cho đến nay, tất cả các cuốn sách của tôi đều do tập hợp
các bài báo mà thành. Tôi tham gia viết báo từ đầu những năm 1990. Thuở đầu
tiên ấy, tôi thường viết bài cộng tác với tạp chí Thế giới mới ở mục Nhìn lại
lịch sử và tạp chí Thế giới trong ta ở mục Tâm lý xã hội. Mỗi tháng cũng viết
được đôi ba bài, nếu tập hợp trong mấy năm lại thì cũng tương đối nhiều.
Một lần vào hiệu
sách Tràng Tiền, thấy có cuốn sách mới in, giở ra xem thì thấy trong đó có mấy
bài của mình được chọn in vào sách. Chợt nghĩ,người ta sưu tầm bài của mình để
in thành sách, vậy tại sao mình không tập hợp lại để in sách của chính mình.
Nghĩ thế nhưng không biết muốn in sách thì phải bắt đầu như thế nào, gặp gỡ,
làm việc với ai.
Cho đến năm 2002,
Tiến sĩ Lã Duy Lan qua đọc báo gặp rất nhiều bài viếtcủa tôi, thấy cũng có cách
viết “Nhìn lại lịch sử” giống như phong cách viết của ông ấy. Thế là ông rủ tôi
cùng Tiến sĩ Đinh Công Vĩ tập hợp các bài viết lại để in một cuốn sách chung.
Đó là cuốn Nhìn lại lịch sử (Nxb Văn hoá – Thông tin, 2003) .
Sách đóng bìa cứng trang trọng, dày đến gần 1.200 trang in khổ lớn 14,5 x20,5 .
Thật ra, với độ dày như trên ,mỗi tác giả có thể in được một cuốn sách riêng,
nhưng các ông ấy bảo rằng phải in chung thành một cuốn sách dày cho có bề thế
mới gây ấn tượng. Đây là cuốn sách mở đầu cho “phong trào” làm sách dày, sách
khủng sau này. Trong cuốn sách trên, mỗi người đóng góp khoảng 30 bài viết.
Riêng phần tôi , đó chính là những bài mà tôi tâm đắc nhất trong hàng chục năm
cộng tác với tạp chí Thế giới mới ở mục Nhìn lại lịch sử.
Cuốn sách thứ 2
của tôi có tên là Lịch sử và sự ngộ nhận (Nxb Từ điển Bách
khoa, 2008) sách dày 390 trang mà trọng tâm là những bài phản biện của tôi
trước những hiện tượng ngộ nhận và cả mạo nhận trong Lịch sử. Đây là tập hợp
những bài viết của tôi đã in trên các báo, tạp chí: Thế giới mới, Thế giới
trong ta, An ninh thế giới, Khoa học và đời sống, Xưa và Nay từ khoảng năm 2003
cho đến lúc ấy. Cuốn sách ra đời được bạn đọc gần xa đón nhận. Các thư viện lớn
trong nước đều có. Truy cập vào mạng thấy sách còn xuất hiện trong Thư viện
Quốc gia Australia ,
Thư viện Quốc hội Mỹ và Thư viện Mở ( Open Library ) . Đang đà thuận
lợi, tôi gửi một lúc hai bản thảo đến Nxb Lao động. Cả hai bản thảo đều được
dùng, đó là cuốn Nhìn về thời đại Hùng Vương dày 254 trang tập
hợp toàn bộ các bài viết của tôi về thời đại Hùng Vương từ trước đến nay . Và
cuốn thứ 2, Trải nghiệm đờì người dày 224
trang, tập hợp toàn bộ các bài viết của tôi về đề tài Tâm lý xã hội. Cả hai
cuốn đều được Nxb Lao động in đồng thời và phát hành trước sau co mot tuan
Năm 2010, Trung
tâm văn hoá Tràng An lại in cho tôi cuốn Từ điện Kính Thiên
triều Lê đến Tổng Hành dinh thời đại Hồ Chí Minh (Nxb Dân trí) , dày
280 trang, tập hợp tất cả các bài viết đã in trên các báo, tạp chí về đề
tài Thăng Long- Hà Nội. Cuốn sách này được Tiến sĩ Đinh Công Vĩ viết lời bạt.
Còn nhớ, trước đây
tôi chỉ mong in được một cuốn sách để lại cho đời. Nay gia tài đã có được 5
cuốn . Thật là ngoài sự mong đợi. Nếu chúng ta biết rằng, sách nghiên cứu
rất khó in, khó bán, nhiều người phải tự bỏ tiền ra in, rồi tự phát hành (tức
là phải tự tìm đầu ra) hoặc phải chạy vạy tìm nhà tài trợ (của các cá nhân hoặc
đơn vị ), đằng này bản thân không mất đồng nào, không phải tính toán gì, lại
còn được hưởng nhuận bút và sách biếu, hỏi không mừng sao được.
Mỗi một cuốn sách
ra đời sẽ có một đời sống riêng, ngoài ý muốn của tác giả. Số phận các cuốn
sách của tôi sau này sẽ như thế nào, tôi không thể biết được .Người viết không
mong gì tiền tài, địa vị, danh vọng, chỉ mong mỏi một điều là truyền được những
điều mình tâm huyết đến với bạn đọc. Trong hàng ngàn người đọc, chỉ cần đôi ba
người hiểu được điều mình muốn gửi gắm, tâm huyết với điều tác giả từng tâm
huyết, như thế cũng đã hạnh phúc lắm rồi.
Đó là đôi điều tác
giả muốn bộc bạch khi viết những dòng tâm sự này.
Hà Nội những ngày
cuối năm 2010
*
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét