CẢM NHẬN VÀ LẮNG ĐỌNG

                               PHAN DUY KHA



      
        


         CẢM NHẬN VÀ
           LẮNG ĐỌNG
 

        (Viết về  những người mà tôi từng biết và quý trọng)






















PHAN DUY KHA

* TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN :
- Nhìn lại Lịch sử (In chung ba tác giả, Nxb Văn hóa- Thông tin, 2003)
- Lịch sử và sự Ngộ nhận (Nxb Từ điển Bách khoa, 2008)
- Nhìn về thời đại Hùng Vương (Nxb Lao Động, 2009)
- Trải nghiệm đời người (Nxb Lao Động , 2009)
- Từ điện Kính Thiên triều Lê đến Tổng Hành dinh thời đại Hồ Chí Minh (Nxb Dân trí, 2010)
.
* SÁCH IN CHUNG :
- Hoàng Sa- Trường Sa , máu thịt Việt Nam (Nxb Thông tin và Truyền thông, 2014)
- Hiền tài đất Việt (Nxb Lao Động, 2005)
- Lễ Nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ và thảm án Lệ Chi Viên (Nxb Văn hóa – Thông tin, 2004)
- Họ Phùng Việt Nam (Nxb Lao Động, 2011)
- Thế giới trong ta, những bài hay nhất (Nxb Văn hóa- Thông tin, 2004)
- Danh nhân Phan Kính (Nxb Khoa học Xã hội, 1999)
- Cội nguồn 6 (Nxb Văn hóa – Thông tin, 2004)
- Họ Phan trong cộng đồng dân tộc Việt Nam (Nxb Văn hóa –Thông tin, 1997)
.
* CÁC TRANG MẠNG :
1.  phanduykha.wordpress.com
2.  phanduykha.blogspot.com
3.  duykhaphan.blogtiengviet.net .













HỌA SĨ NAM SƠN, NGƯỜI ĐẶT NỀN MÓNG ĐẦU TIÊN CHO NỀN MỸ THUẬT ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM

Trọn đời cho nền nghệ thuật hội họa
Họa sĩ Nam Sơn tên thật là Nguyễn Vạn Thọ (1890 – 1973) . Trong truyền thống tên đệm Việt Nam thường phổ biến tên đệm là Văn, vì vậy nhiều tài liệu ghi tên ông là Nguyễn Văn Thọ là không chính xác. Ông quê gốc ở huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc (nay là thị trấn Thanh Lãng huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc) nhưng sinh ra trong một gia đình dòng dõi gia thế ở Hà Nội. Cha ông nguyên là Thư ký Phủ Thống sứ Bắc Kỳ, mất sớm khi ông mới lên 4 tuổi. Mẹ ông một mình ở vậy tảo tần nuôi con, được vua Bảo Đại ngự ban kim khánh khắc 4 chữ “Tiết hạnh khả phong” để biểu dương. Thuở ấy được vua ngự ban kim khánh như thế là một vinh dự tột bậc, rất hiếm người có được
Họa sĩ Nam Sơn có năng khiếu hội họa bẩm sinh và ham mê hội họa từ nhỏ. Ông được các nhà nho Phạm Như Bình và Nguyễn Sĩ Đức dạy chữ Nho và dạy vẽ. Ông sớm tiếp xúc với nền nghệ thuật hội họa cổ Phương Đông: Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản. . . Sau khi tốt nghiệp Trường Bưởi (trường Bảo hộ), ông vào làm việc cho Sở Tài chính Đông Dương. Tuy làm công tác tài chính bận rộn nhưng ông vẫn tranh thủ ngoài giờ (nay ta gọi là nghề tay trái) vẽ tranh minh họa cho các báo và sách giáo khoa. Ngày nay, những người ở độ tuổi 70- 80 trở lên không thể không nhớ đến những bức tranh minh họa nho nhỏ nhưng rất sinh động, rất có hồn trong bộ sách Quốc văn giáo khoa thư. Năm 1923, ông tham gia đấu xảo (nay ta gọi là triển lãm) đầu tiên tại Hà Nội với 4 bức tranh: Nhà nho xứ Bắc, Ông già Kim Liên, Cô gái Bắc Kỳ và Tĩnh vật là những bức tranh sơn dầu đầu tiên của Việt Nam (tranh sơn dầu là kỹ thuật vẽ tranh của phương Tây, cho đến lúc đó  ở ta chưa hề có ai vẽ tranh sơn dầu). Năm 1925, ông cùng Họa sĩ tên tuổi người Pháp V. Tac đi ơ ( V. Tardieu) đồng sáng lập trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương . Năm 1930, ông tham gia Triển lãm Hội họa Pa ri với bức tranh “ Chợ gạo bên sông Hồng”, là tác phẩm Việt Nam đầu tiên (và duy nhất) được Nhà nước Pháp mua và trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Quốc gia Pháp.Năm 1946, Bộ Quốc gia giáo dục của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa mời ông làm cố vấn của Viện Phương Đông Bác cổ.  Năm 1957, thành lập Hội Mỹ thuật Việt Nam, ông được bầu vào Ban chấp hành, va giữ chức danh này cho đến khi mất .
 Đồng sáng lập trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
Về việc ông là người đồng sáng lập Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, có lẽ còn nhiều người chưa biết. Ngay từ năm 1923 ông đã có bản thảo Đề cương Mỹ thuật Việt Nam, trong đó lần đầu tiên ông đề cập đến việc xây dựng một nền mỹ thuật Việt Nam vừa dân tộc vừa hiện đai. Ông viết: “Lập nên một trường Đại học để đào tạo lấy nghệ sĩ có tài duy trì lấy nền tảng Mỹ thuật của tổ tiên để lại, ngõ hầu cải tạo, sáng tác lấy một nền Mỹ thuật Đông Phương có cá tính Việt Nam” . Cách nói của ông cách đây gần 80 năm nhưng cũng rất gần với cách nói của chúng ta ngày nay là “hiện đại nhưng đậm đà bản sắc dân tộc” đó sao?
Về nội dung giảng dạy hay là cơ cấu của Trường Mỹ thuật, ông đã hình dung rất cụ thể. Trường gồm có 7 Ban (như ngày nay ta gọi là Khoa hay Bộ môn) : Ban Hội họa, ban Kiến trúc, ban Điêu khắc, ban Sơn Việt Nam, ban Trang hoàng, ban Khắc, ban Bồi tranh lụa tranh giấy. Trong từng ban đó, ông cũng mô tả rất cụ thể. Ví dụ, Ban Hội họa có ba tiểu ban : 1.Họa theo lối Châu Âu, tả thực bằng than, chì, mực tàu, thuốc nước, sơn dầu.
2.a/Họa theo lối Đông Phương, tả thực và tưởng tượng, vẽ dùng trí nhớ bằng bút nho, mực ta, sơn, thuốc nước, vẽ vào giấy , lụa.
b/ Viết chữ, học đủ các lối chân phương, triện, lệ, thảo, học đủ các nét, các cách cầm bút, dùng mực, thuốc (ngày nay ta gọi là thư họa)
c/Thuộc giấy, lụa phỏng theo cổ nhân v.v. . .
Các Ban kia ( như Kiến trúc, Điêu khắc. . .) ông cũng chỉ dẫn cụ thể, tỷ mỉ như thế.
Cũng từ Bản đề cương này mà ông thuyết phục được Họa sĩ danh tiếng người Pháp V. Tac đi ơ để ông này đề nghị lên nhà nước Bảo hộ đi đến thành lập Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương vào năm 1925. Về sự kiện thành lập trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương, nhiều người ngay cả những sinh viên trường Đại học Mỹ Thuật ngày nay cũng không hề biết rằng, họa sĩ Nam Sơn là người đồng sáng lập. Ngay sách báo của ta trước đây cũng không hề đề cập đến vấn đề này. Chính những người Pháp là những người đầu tiên ghi nhận công lao đóng góp của Họa sĩ Nam Sơn: Ông là một trong hai người đồng sáng lập và là Giáo sư chuyên ngành bậc 2, phụ trách môn Đồ họa và trang trí. Cuốn sách “Pa ri- Hà Nội- Sài gòn cuộc phiêu lưu của hội họa hiện đại Việt Nam” do các nhà bảo tàng Pa ri xuất bản năm 1998 xác nhận: “” Qua những cuộc trao đổi giữa họ (tức V.Tac đi ơ và Nam Sơn) nảy ra ý kiến thành lập một trường Mỹ thuật ở Hà Nội. Nam Sơn thuyết phục V. Tac đi ơ tiến hành vận động cần thiết để có thể tiến hành khai giảng và điều hành nhà trường. Chính thức được thành lập do một nghị định của Toàn quyền Merlin, trường này nói cho đúng là kết quả tình bạn kỳ lạ giữa hai người. Vị trí và vai trò của Nam Sơn được Toàn quyền Đông Dương xác nhận rất rõ ràng trong cuốn “ Các trường Mỹ thuật Đông Dương” xuất bản ở Hà Nội năm 1937: Ông Nam Sơn, Giáo sư chuyên ngành bậc 2 là một trong hai người sáng lập trường Mỹ thuật Đông Dương, dạy Hình họa và trang trí” ( sách đã dẫn).
 Người thầy của những bậc danh họa
Là Giáo sư giảng dạy tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương trong vòng 20 năm (1925 – 1945), Họa sĩ Nam Sơn đã góp phần đào tạo được một thế hệ họa sĩ nổi tiếng của nền hội họa đương đại Việt Nam. Chúng ta có thể kể đến những tên tuổi những họa sĩ danh tiếng như : Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Công Văn Trung, Nguyễn Phan Chánh, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Cao Luyện, Nguyễn Đỗ Cung, Trần Văn Cẩn, Lương Xuân Nhị, Hoàng Lập Ngôn, Sĩ Ngọc, Trần Đình Thọ, Diệp Minh Châu, Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên, Tạ Thúc Bình, Phan Kế An. . . Và nhiều người nữa mà tên tuổi của họ đã làm rạng danh nền hội họa đương đại Việt Nam. Thật là vinh dự cho Giáo sư – Họa sĩ Nam Sơn khi ông đã góp phần đào tạo nên những họa sĩ danh tiếng như thế.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, những người Pháp hoặc bị bắt, hoặc bỏ về nước, Họa sĩ Nam Sơn trở thành Hiệu trưởng trường Mỹ thuật Đông Dương cho đến tháng 8-1945. Sau ngày ta giành được chính quyền (9- 1945), trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương bị giải thể, Họa sĩ Nam Sơn được chính quyền cách mạng mời tham gia làm Cố vấn cho Viện Phương Đông Bác cổ. Danh sách Ban cố vấn do Bộ trưởng Vũ Đình Hòe ký bổ nhiệm, ta thấy có các tên tuổi sau: Vĩnh Thụy (tức vua Bảo Đại), Đào Duy Anh, Ngô Đình Nhu, và Nguyễn Vạn Thọ tức Nam Sơn.
Năm 1957, Hội Mỹ thuật Việt Nam được thành lập, họa sĩ Nam Sơn được  bầu vào Ban chấp hành, và ông giữ chức danh đó cho đến khi qua đời, vào năm 1973.
Có thể nói, họa sĩ Nam Sơn là người đặt nền móng đầu tiên cho nền Mỹ  thuật đương đại Việt Nam.
*
Thư của ông Nguyễn An Kiều , con trai nhà Danh họa Nam Sơn gửi Tác giả, sau khi đọc bài viết trên  :
Kính gưi nhà Nghiên cứu Phan Duy Kha , 
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn ông Kha đã có bài viết về họa sĩ Nam Sơn Nguyễn Vạn Thọ ( 1890-1973), người cha chúng tôi, với
bức ảnh chân dung do nhà nhiếp ảnh Nguyệt Diệu thực hiện,cùng rất nhiều chi tiết lịch sử chính xác về cuộc đời, tác phẩm của họa sĩ ,đặc biệt việc cùng họa sĩ Victor Tardieu ( 1870-1937) thành lập Trường Mỹ thuật Đông Dương năm1925 ,mà các sách báo ở Việt Nam và nước ngoài đã nói nhiều từ hơn 80 năm nay ,nhưng có họa sĩ đã học ,làm việc ở trường đó vẫn chưa biết !
Bài viết của ông ,trình bày các tư liệu lịch sử hội họa theo bố cục riêng, phương pháp luận chặt chẽ ,sẽ đem lại nhiều kiến thức lịch sử hội họa cho lớp họa sĩ trẻ , để sau này họ không phải mất công đi hỏi người nước ngoài về lịch sử hội họa hiện đại Việt Nam của ông cha từ đầu thế kỷ XX ,và biết tự hào thêm về một nền hội họa vừa hiện đại vừa có tính chất dân tộc ,đã có truyền thống lâu đời từ bao thế kỷ nay ,từ khi nhiều nơi trên thế giới còn có những vua chúa chưa biết … chữ viết !
Đây không phải ý kiến mới của chúng tôi ! Từ 80 năm nay, một nhà nghiên cứu người Pháp ,đến Việt Nam , cũng như nhiều nhà nghiên cứu khác ,đã có suy nghĩ như vậy năm 1930 ,khi nói về sự khó khăn trong việc thực thi giáo dục ở Việt Nam., “nơi đã tiếp xúc từ xa xưa với các nền văn minh lâu đời ” !.
(Xin tham khảo tư liệu : Tạp chí ” Les collections de l’histoire ”, số 23, tháng 4 năm 2004, đã xuất bản tại Paris , mà chúng tôi đã có
dịp trao đổi cùng nhiều giáo sư lịch sử Việt nam và ngoại quốc ).
Chúng tôi cũng xin trân trọng cảm ơn ông đã có bài viết rất đặc biệt ,rất chính xác về cụ Tổ chúng tôi, Hoàng giáp Chánh sứ Nguyễn Duy Hiểu ( 1602- 1639) , người trưởng nam của Thái Tể Nguyễn Duy Thì ( 1572-1651), trả lại những trang lịch sử oai hùng đầy tự hào của dân tộc ta từ hơn 3 thế kỷ nay !
Một lần nữa ,xin cảm ơn nhà nghiên cứu Phan Duy Kha và hy vọng được đọc thêm nhiều bài viết giá trị của ông trên các sách báo.
Trân trong !
Nguyễn An Kiều, con trai Nhà Họa sĩ Nam Sơn, 68 Nguyễn Du, Hà Nội.








GIÁO SƯ NGUYỄN ĐÌNH TỨ : KHOA HỌC VÀ ĐỜI THƯỜNG
Tuổi trẻ thông minh và sáng tạo.
Ngày 1.10.2012, tại hội trường Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ban Tuyên giáo Trung ương và Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm lần thứ 80 ngày sinh của cố Giáo sư Nguyễn Đình Tứ (1932 – 1996), nhà hoạt động chính trị xuất sắc, nhà khoa học lỗi lạc của thời đại chúng ta.
Giáo sư Nguyễn Đình Tứ sinh ngày 1.10.1932 trong một gia đình trí thức yêu nước, giàu truyền thống cách mạng. Ông quê ở làng Nguyễn Xá, xã Song Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh.  Như tên làng đã chỉ rõ, làng Nguyễn Xá có nghĩa là làng của những người họ Nguyễn. Hầu hết dân cư ở đây mang họ Nguyễn. Cùng là họ Nguyễn, nhưng có ba họ lớn: Họ Nguyễn Huy, họ Nguyễn Xuân và họ Nguyễn Văn. Ông thuộc dòng họ Nguyễn Xuân, dòng họ lớn và đông nhất trong làng
Nguyễn Đình Tứ lớn lên vào buổi giao thời của đất nước, khi cách mạng mới thành công, chính thể Dân chủ cộng hòa mới ra đời, nhưng rồi thực dân Pháp trở lại gây hấn, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Vì thế mà tuổi học sinh của anh đã phải theo cha (là một nhà giáo), theo trường, đi hết nơi này đến nơi khác. Trước năm 1944, anh theo học Trường Tiểu học An Lương, Bình Định, nơi người cha đang làm hiệu trưởng trường này. Năm 1945, anh học trường Quốc học Quy Nhơn, sau đổi thành Trường Trung học Võ Tánh; năm 1946, anh trở về Hà Tĩnh; Năm 1946- 1947 học trường Quốc học Vinh, đệ tam niên; Năm 1947- 1948 học đệ tứ niên trường Phan Đình Phùng, Đức Thọ; Năm 1948- 1949 trường Trung học chuyên khoa năm thứ nhất trường Huỳnh Thúc Kháng (tiền thân là Trường Quốc học Huế), Châu Phong, Đức Thọ, Hà Tĩnh . Như vậy là trong mấy năm trời, anh đi hết từ Bình Định, rồi lại về Nghệ An, Hà Tĩnh. Ngay tại Nghệ An, Hà Tĩnh, nhà trường cũng phải sơ tán, chuyển địa điểm nhiều nơi. Tuy phải di chuyển nhiều nơi, nhưng đến đâu, anh cũng học rất giỏi, thường đứng đầu lớp. Vừa học năm thứ nhất chuyên khoa, anh đã tự tìm hiểu, tự học chương trình năm thứ hai, và cuối năm, anh xin thi vượt lớp, lên năm thứ ba, và đã đỗ đầu. Có thể nói, ở trong lớp, anh không hề có đối thủ. Thầy dạy toán mỗi khi chữa bài tập trên bảng rồi, lúc nào cũng hỏi anh, còn cách giải nào khác không. Lúc đó anh thường lên bảng trình bày cách giải khác của anh, thường là độc đáo hơn, dễ hiểu hơn. Chỉ khi anh không có cách giải nào khác thầy mới cho qua.
Khi chúng tôi lớn lên được ngồi trên ghế nhà trường, thì tên tuổi của anh đã lẫy lừng, ít nhất là trong phạm vi 12 nước Xã hội chủ nghĩa hồi đó. Những câu chuyện về anh được những người đi trước kể lại với tấm lòng thán phục pha chút tự hào. Chúng tôi coi anh là thần tượng. Chúng tôi nghe kể về tấm gương học tập của anh. Chuyện anh sáng chế ra chiếc kính Thiên văn như thế nào, chuyện anh dùng sợi dây mà làm sao tính được hàm số lượng giác.
Các bạn học lớp 12 bây giờ (trước đây là lớp 10) đều đã học qua về Quang học, đã biết thế nào là thấu kính lồi, lõm, thế nào là sự hội tụ, phân kỳ của tia sáng. Kính thiên văn hay kính hiển vi chẳng qua là sự bố trí sắp xếp các hệ thống thấu kính lồi, lõm sao cho góc kẹp của vật thể đến mắt là lớn nhất. Bây giờ bạn có thể ra thị trường mua đủ các loại thấu kính nhưng ngày xưa không hề có. Chính Nguyễn Đình Tứ đã xin các loại kính cận, kính viễn, thấu kính máy ảnh bị hỏng mà người ta thải ra để về lắp kính Thiên văn. Không đủ kính, anh tìm cách cưa đáy các chai rượu, để làm kính. Chúng ta biết, các chai rượu có đáy chai hình thấu kính lồi, hoặc lõm. Tuy nhiên, không phải đáy chai nào cũng dùng được. Chọn hàng chục chai, may ra được một chiếc là cùng. Lại phải cưa, rồi mài thế nào cho khéo mới dùng được. Ống kính thì anh dùng ống nứa. Rồi chiếc kính Thiên văn của anh cũng hoàn thành. Anh đem ra ngoài sân cho mọi người ngắm trăng, ngắm sao. Các bạn ai cũng trầm trồ, chưa ai từng thấy mặt trăng to và gồ ghề như thế. Chuyện dùng ống kính ngắm sao đồn ra xa, công an địa phương đã đến nhắc nhở và yêu cầu anh không được sử dụng kính Thiên văn nữa vì cho rằng đó là “khí cụ quân sự” ! Không được dùng kính thiên văn, anh lại cải tạo thành chiếc kính hiển vi để quan sát các con vi trùng trong nước.
Còn chuyện anh lập biểu đồ để tính hàm số lượng giác cũng đặc biệt. Chúng ta ai đã học qua cũng biết, vòng tròn lượng giác là vòng tròn có bán kính bằng 1 đơn vị. Giá trị của hình chiếu của bán kính này lên trục ngang (x) và trục đứng (y) chính là hàm số lượng giác sin và cos của góc mà bán kính quay đó tạo thành. Để biết giá trị này, ta phải có bảng tra (bây giờ thì trong máy tính có đủ cả). Nhưng hồi xưa, trong kháng chiến làm gì có sẵn bảng tra. Nguyễn Đình Tứ dùng một sợi dây, quy thành 1 đơn vị (ví dụ 1 mét chẳng hạn). Anh quay sợi dây quanh một tâm điểm, rồi đo hình chiếu của sợi dây lên trục ngang, trục dọc mà biết được hàm số lượng giác của một góc. Sau đó từ một số số liệu cơ bản mà anh lập thành biểu đồ. Tất nhiên, độ chính xác hoàn toàn dựa vào việc đo độ của góc quay và xác định hình chiếu lên các trục.
Là những người đồng hương ở thế hệ sau, những câu chuyện trên, chúng tôi được nghe các thầy kể lại cuối mỗi tiết học hay trong các giờ ngoại khóa. Bằng các câu chuyện này,các thầy không chỉ truyền đạt kiến thức cho chúng tôi mà còn qua đó giáo dục lòng đam mê khoa học, khơi gợi tính sáng tạo, cũng như những tấm gương vượt khó khăn, phấn đấu học tập vươn lên của các thế hệ đi trước. Mà tấm gương sáng chói nhất đó chính là Nguyễn Đình Tứ.
Nhà khoa học hàng đầu về vật lý hạt nhân

Năm 1957, sau khi tốt ngiệp Trường Đại học Thủy lợi  Vũ Hán, Nguyễn Đình Tứ được nhà nước ta chọn sang Liên Xô, làm cộng tác viên khoa học tại Trung tâm Liên hiệp nguyên tử Đupna. Lúc này, anh mới 25 tuổi. Trung tâm Liên hiệp nguyên tử Đupna nằm tại thị trấn Đupna, trên bờ sông Vôn ga, ngoại ô thủ đô Mat cơ va. Đây là trung tâm nghiên cứu hiện đại nhất, tập trung các nhà khoa học đầu ngành về lĩnh vực nguyên tử hạt nhân của cả 12 nước Xã hội chủ nghĩa anh em thời bấy giờ trong sứ mệnh nghiên cứu các hạt cơ bản. Việt Nam ta lúc đó cử tới ba nhà khoa học hàng đầu là Nguyễn Đình Tứ, Nguyễn Đình Công (tức Nguyễn Hoàng Phương) và Dương Trọng Bái. Cũng phải nói thêm rằng, trước khi sang Đupna thì Nguyễn Đình Tứ đang là kỹ sư Thủy lợi, ngành Thủy công, mới tốt nghiệp. Từ chuyên môn về tính toán thủy điện, đê đập, Nguyễn Đình Tứ chuyển hẳn sang một lĩnh vực khác hoàn toàn, không liên quan gì đến ngành học của mình, thế nhưng anh vẫn bắt nhịp được với công việc của mình trên một lĩnh vực nghiên cứu mới mẻ. Đó là nhờ trí thông minh siêu việt của anh, nhờ cái “nền” kiến thức khoa học đại cương mà anh nắm rất vững, nhờ trình độ tiếng Nga mà anh đã mày mò tự học thêm từ khi còn học đại học. Sau 4 năm làm việc ở Trung tâm nghiên cứu Đupna, nhóm công tác của Nguyễn Đình Tứ hoàn thành một số công trình khoa học trong lĩnh vực vật lý hạt nhân năng lượng cao, hay còn gọi là vật lý hạt cơ bản.
Trong hàng loạt công trình nêu trên, công trình phát hiện ra phản hạt sigma âm hyperôn là công trình có ý nghĩa quan trọng nhất. Trong các hạt cơ bản được phát hiện trước năm 1959, có một loại hạt mang tên sigma âm (hạt sigma mang điện âm). Đến năm 1960, nhóm công tác của Nguyễn Đình Tứ phát hiện ra phản hạt sigma âm. Thông báo của Trung tâm Đupna cho biết: “Đã phát hiện bằng thực nghiệm hiện tượng chưa biết trước đây, sự tạo thành phản hạt của hạt sigma âm với khối lượng 2.340 lần lớn hơn khối lương electron; tích điện dương; thời gian sống bằng một phần mười tỷ giây. Hạt mới này rất giống hạt sigma âm đã biết, chỉ khác là điện tích trái dấu, nó được gọi là phản hạt  của hạt  sigma âm hay gọi tắt là phản hạt sigma âm. Phát minh phản hạt sigma âm một lần nữa khẳng định luận thuyết về phản hạt đã được nhà vật lý lý thuyết lỗi lạc Dirac đề xuất năm 1928 và cùng với những phản hạt tìm thấy trước đó minh chứng thêm cho sự tồn tại phản vật chất. Phát minh về phản hạt sigma âm là một thành quả đặc sắc, một giai điệu đẹp nhất trong bản giao hưởng “tương tác của các hạt cơ bản và hạt nhân ở năng lượng cao” của Giáo sư Nguyễn Đình Tứ và tập thể khoa học mà anh đã gắn bó mật thiết” (Trích Nhà khoa học Nguyễn Đình Tứ, tài năng và phẩm cách, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2012) . Năm 1961, ngay sau khi công bố công trình, Nguyễn Đình Tứ đã nhận được giải thưởng của Hội đồng khoa học của Viện Liên hợp nghiên cứu nguyên tử Đupna. Năm 1968  chính phủ Liên Xô cấp bằng phát minh cho nhóm tác giả quốc tế, trong đó có “công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa- Nguyễn Đình Tứ”.  Vào năm 2000, nhân kỷ niệm 55 năm thành lập Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cố GS Nguyễn Đình Tứ đã được nhà nước ta truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho công trình phát hiện này.
Nguyễn Đình Tứ công tác tại Viện  Liên hợp Nghiên cứu hạt nhân Đupna trong hai nhiêm kỳ từ tháng 8.1957 đến tháng 6.1963 và nhiệm kỳ hai từ tháng 6.1966 đến tháng 6.1971. Cả hai nhiệm kỳ đó ông đều đảm nhận trọng trách phụ trách đoàn cán bộ Việt Nam công tác tại Đupna.
Vị Bộ trưởng ở nhà . . . chung cư
Năm 1971, về Việt Nam, đầu tiên, ông được giao làm Phó Hiệu trưởng trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Đầu năm 1976 làm Thứ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (tức Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày nay). Từ tháng 7.1976, ông là Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Ông là vị Bộ trưởng đầu tiên sau khi nước nhà thống nhất. Ông giữ trọng trách này  cho đến năm 1986. “ Dưới cương vị lãnh đạo của mình, GS và các cộng sự đã đưa ngành giáo dục đào tạo đi những bước táo bạo như sắp xếp các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên ngiệp miền Nam theo mô hình nhà trường xã hội chủ nghĩa thống nhất cả nước; mở ba trường dự bị đại học để tạo nguồn cán bộ có trình độ cao cho các đối tượng chính sách, dân tộc miền núi; thành lập tại các tỉnh trong cả nước năm trường trung học chuyên ngiệp (nông nghiệp, công nghiệp, sư phạm, văn hóa) để đào tạo lực lượng lao động tại chỗ cho địa phương; hệ thống đào tạo tại chức – tiền thân của các trung tâm giáo dục thường xuyên ra đời” (Trích Nhà khoa học Nguyễn Đình Tứ, tài năng và phẩm cách).
Tháng 2.1987, GS Nguyễn Đình Tứ được cử làm Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Quốc gia, Chủ nhiệm công nghệ sản xuất nguyên nhiên vật liệu hạt nhân. Từ tháng 9.1993 GS Nguyễn Đình Tứ được giao đảm nhận trọng trách Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện năng lượng nguyên tử Việt Nam. Ông được coi là người “tìm đường mở lối” cho ngành năng lượng nguyên tử ở Việt Nam.
GS Nguyễn Đình Tứ dù ở cương vị công tác nào cũng luôn là người giản dị, chân thành, khiêm nhường, nói năng nhỏ nhẹ , điềm đạm. Đặc biệt, ông luôn trân trọng và lắng nghe ý kiến của cấp dưới. Dù cấp dưới nói những điều trái với suy nghĩ của mình, ông vẫn không ngắt lời, mà cố gắng lắng nghe hết ý kiến của họ, sau đó mới ôn tồn đáp lại. Thời kỳ bao cấp tình hình kinh tế rất khó khăn. Cán bộ công nhân viên đi làm thường mang theo cặp lồng cơm để ăn trưa. Bộ trưởng đi làm hằng ngày cũng mang theo cặp lồng cơm, với thức ăn là rau dưa như mọi người. Là bộ trưởng nhưng ông  vẫn ở nhà tập thể. Hồi bấy giờ, ông được phân căn hộ hai buồng trên tầng 4, nhà B18, khu tập thể Kim Liên (quận Đống Đa).Thỉnh thoảng có khách ở xa đến, hay khách ở quê ra, lại phải trải chiếu nằm giữa sàn nhà. Năm 1978 có người thân của ông từ miền Nam ra chơi, đã vô cùng ngạc nhiên, không ngờ một vị bộ trưởng mà lại ở nhà chung cư như thế. Nhà nước phân nhà cho ông để xứng với cương vị bộ trưởng của ông, ông từ chối, cho rằng mình chưa cống hiến được gì cho đất nước. Theo ông, còn có những vị lão thành cách mạng, cống hiến nhiều mà vẫn phải ở nhà chật chội. Những người ấy còn cần hơn ông. Mãi 5 năm sau, ông mới nhận căn biệt thự A2 Trung Tự và ở đấy cho đến khi mất. Người ta xét nâng lương cho ông, ông xin để lại năm sau, vì một bậc lương của ông bằng hai ba bậc lương của nhân viên khác. Để “suất” nâng lương đó cho nhân viên dưới quyền thì được hai ,ba người, như thế là tốt hơn. GS Nguyễn Đình Tứ là con người như thế. Chừng như trong tâm khảm của ông, ông luôn luôn tâm niệm một điều: Mình đã làm gì cho Tổ quốc mà đòi hỏi Tổ quốc phải đãi ngộ này nọ. Ông là  mẫu mực một con người chân chính, với lối sống chân thành, giản dị, đức độ, khiêm nhường, hết mình vì công việc; một nhà khoa học say mê nghiên cứu tìm tòi, khám phá, sáng tạo không ngừng.
Ông từng là Bộ trưởng, là Ủy viên Trung ương, rồi Ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng. Những chức vụ đó, chức trách đó, có thể nhiều người làm được. Nhưng, một nhà khoa học như Nguyễn Đình Tứ thì rất hiếm. Có khi vài ba thế hệ, thậm chí hàng trăm năm mới có một người !
GS Nguyễn Đình Tứ mất đột ngột vào ngày 28.6.1996 khi đang diễn ra Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 8. Giá như, ông chỉ chuyên tâm làm công tác khoa học mà không lấn sân sang địa hạt chính trị. Tiếc thay !
*

VÀI CẢM NHẬN VỀ GIÁO SƯ NGÔ ĐỨC THỌ

Giáo sư Ngô Đức Thọ là chuyên gia Hán Nôm.
Ông là người đồng hương với tôi. Đồng hương đến “cấp” huyện (cùng quê Can Lộc, Hà Tĩnh). Là đồng hương, lại cùng nghiên cứu, viết sách báo về mảng đề tài Lịch sử nhưng tôi chỉ mới biết ông qua các tác phẩm của ông, chứ chưa hề được gặp mặt.
Mãi đến lần chúng tôi được ông Nguyễn An Kiều mời về dự lễ giỗ lần thứ 372 Hoàng giáp – Chánh sứ Nguyễn Duy Hiểu (ngày 2.7.2011) tôi mới được gặp ông. Ngay lần ấy, tuy là đồng hương, lại cùng trong một chuyến đi, nhưng tôi cũng không bắt chuyện làm quen với ông. Tính tôi vốn thế. Rất ít khi “mở rộng quan hệ ngoại giao”. Chỉ biêt việc mình mình làm. Trong công việc viết sách, viết báo về đề tài lịch sử, không có gì quý bằng độc lập suy nghĩ, phát biểu quan điểm của mình, không bị ảnh hưởng của ai cả
Sau chuyến đi đó, tôi về mở mạng tìm hiểu tư liệu về Cụ Nguyễn Duy Hiểu, và tình cờ gặp được trang mạng của ông trên 360plus.yahoo.com .  Bạn đọc cần biết một sự thật này: Trong khi các nhà thơ, nhà văn, hầu như người nào cũng có trang Blog cá nhân của mình thì các nhà nghiên cứu lịch sử không hề có. Họ rất ít khi dùng mạng, thậm chí có người không hề biết đến vi tính. Cho đến hiện nay, tôi biết, có những vị GS, TS ngành Khoa học xã hội còn dùng bút mực chép tay bài viết rồi mang đến Tòa soạn báo hoặc ở xa thì bỏ phong bì, gửi bưu điện khi viết bài cộng tác. . . Chính vì vậy, khi bắt gặp trang mạng của một nhà nghiên cứu như ông, tôi thấy thú vị biết chừng nào ! Ông lại là chuyên gia rất sâu về Hán Nôm, vì vậy, bài của ông thường là bài “độc”, tức là chỉ mình ông có. Tôi thường ghé thăm trang mạng của ông là vì thế.
Vừa rồi trên trang mạng của ông xuất hiện một bài mới về “Cựu đô Ngàn Hống”, đây là loại đề tài mà tôi tâm đắc. Không tâm đắc sao được, khi tìm ra/ phát hiện ra quê mình lại là Quốc đô đầu tiên của người Việt , trước khi có Kinh đô Phong Châu của các vua Hùng ! Trước đây, tôi đã hai lần viết về đề tài này. Lần đầu tiên, từ những năm 1990, tôi viết bài “Đâu là quốc đô đầu tiên của người Việt” đăng trên Tạp chí Thế giới mới. Bài này sau đó tôi đưa vào cuốn Nhìn lại Lịch sử (Nxb Văn hóa –Thông tin 2003) , rồi đưa vào cuốn Nhìn về thời đại Hùng Vương (Nxb Lao động, 2009). Lần thứ hai tôi lại trở lại đề tài này với bài  Tiền thân của Kinh đô Phong Châu vốn ở Hà Tĩnh (đăng trên báo Khoa học & Đời sống Online, lên mạng ngày 10.4.2011, sau đó được một số báo mạng đưa lại. Ban đọc có thể vào mang google gõ tên bài báo hoặc gõ từ khóa “phanduykha ” là sẽ thấyngay) . Bài này lên mạng của tôi ngày 6.4.2011 với tiêu đề ” Cố đô Ngàn Hống mở đầu thời đại dựng nước” ( Bạn có thể tìm trên mạng của tôi trong loạt bài Post  vào tháng 4.2011) Vì vậy, thấy có người quan tâm đến vấn đề mà mình quan tâm, tôi rất tâm đắc, liền truy cập vào ngay để đọc. Nhưng lúc ấy mới chỉ có tiêu đề và hai bức ảnh. Tôi liền ghi vào mấy dòng comment : “Chào Bác Ngô, tôi vào thăm trang của Bác luôn. Bác viết cho một bài kỹ hơn về đề tài này được không? Kính chào Bác.
Phan Duy Kha” (ngày9.12.2011)
Ngay sáng hôm sau, mở lại trang mạng của ông, tôi đã gặp bản dịch dài về Ngọc phả Hùng Vương. Ngay dưới bản dịch này là bức thư ngắn ông viết trả lời tôi. Nguyên văn như sau:
Thư ngắn trả lời bác Phan Duy Kha
Cảm ơn bác đã ghé xem trang mạng của tôi và có để lại một tin nhắn. Lời nhắn của bác gửi khích lệ cho tôi cũng hơi bị . . .nhiều, bởi vì đúng lúc tôi mới dựng lên bài này bằng việc dịch đoạn mở đầu Hùng Vương Ngọc phả. Thông thường người ta viết cho xong hẳn rồi mới post lên mạng, nhưng tôi viết, dịch, trích ảnh v.v. . .luôn trên máy, đành bấm nút cho “Đăng”  luôn- đỡ lích kích hơn nếu để lưu vào “nháp”. Vì thế, có lẽ bác quan tâm mà tôi gây phiền cho bác phải trở đi trở lại nhiều lần. Mong bác thông cảm cho nhé. Tôi cũng đã xem bài của bác viết về Cựu đô Ngàn Hống, đem so thấy bác và tôi cùng dùng một văn bản, nhưng có lẽ bản của bác chụp ở Đền Hùng, bản tôi dùng là bản của Viện Hán Nôm, cũng chụp lại từ bản ấy. Việc này người ta cũng quên bẵng đi rồi, chúng ta cùng xới lại vấn đề xem sao ? Có thể có thêm được ý tứ gì mới không ?
Chúc bác vui mạnh
Ngô Đức Thọ” (10.12.2011)
Phía dưới bức thư, ông còn mở ngoặc ghi chú: “Tôi muốn đánh ngay vào chỗ trả lời ở comment của bác, nhưng quên mất cách gửi, nên đành đánh thẳng vào đây !”
Nhận được thư trả lời của ông, tôi rất mừng. Được biết là ông thường vào mạng, viết trực tiếp (online) trên mạng, không như tôi, thường đánh máy, sưả chữa , lưu vào file rồi mới post lên mạng (và cả gửi cho các báo). Ông cũng không dấu khả năng hạn chế khi sử dụng máy tính, quên cả cách thao tác khi trả lời comment. Những chi tiết nhỏ nhưng làm tôi thú vị. Người làm công tác khoa học thường chân thành đến từng chi tiết nhỏ như thế. Tôi liền viết thư trả lời ông trên comment :
“Kính gửi Bác Ngô,
Nghe danh của Bác, đọc các tác phẩm của Bác từ lâu, nhưng mới được gặp Bác từ hôm chúng ta cùng được ông Nguyễn An Kiều mời về dự lễ giỗ lần thứ 372 Cụ Hoàng giáp Chánh sứ Nguyễn Duy Hiểu. Từ đó, tôi thường vào thăm trang mạng của Bác luôn. Tôi rất thích những bài Bác viết có liên quan đến các tư liệu Hán Nôm. Hôm qua tôi chỉ mới nhìn thấy tiêu đề bài viết và mấy bức ảnh, nên mạn phép ghi mấy dòng, không ngờ lại được Bác trả lời ngay dưới bài viết, làm tôi cảm động lắm. Kính chúc Bác mạnh khỏe và có nhiều bài nghiên cứu mới về đề tài lịch sử, nhất là các đề tài liên quan đến tư liệu Hán Nôm mà không phải ai cũng có, không phải ai cũng viết được.
Về bức không ảnh (ảnh vệ tinh) chụp vùng Ngàn Hống, Bác đưa vào rất quý. Nhưng nếu Bác bớt chút thì giờ, biên vẽ thành bản đồ ghi cụ thể thêm các địa danh rồi đăng bên cạnh bức ảnh để đối sánh thì tốt hơn nhiều. (vì người xem sẽ biết cụ thể hơn, chứ nhìn qua ảnh thì ít người biết) mong Bác lưu ý thêm.
Nếu lúc nào đó có thì giờ, xin mời Bác vào thăm trang mạng của tôi theo đường Link sau. . .
Kính chào Bác
Phan Duy Kha” (10.12.2011)
(Cả hai bức thư đều có trên Blog của GS Ngô Đức Thọ )
Thư tôi viết hôm trước thì ngay ngày hôm sau, (11.12.2011)vào trang mạng của ông, tôi đã thấy tấm bản đồ vùng phía nam Ngàn Hống,tức là vùng được Ngọc phả Hùng Vương chỉ định là Cố đô Ngàn Hống đã được ông đưa vào rồi.
Ông là người làm việc nhanh nhạy, kịp thời như thế đấy.
GS Ngô Đức Thọ là cháu nội Nhà chí sĩ yêu nước Ngô Đức Kế. / .




GS NGÔ ĐỨC THỌ VÀ VIỆC DỊCH NGỌC PHẢ HÙNG VƯƠNG
Từ lâu tôi đã “săn tìm” NPHV nhưng thực sự là chưa có ai dịch trọn vẹn.Tôi chỉ gặp được đôi đoạn rời rạc trong các bài viết về thời Hùng Vương mà các tác giả trích dẫn.Thậm chí, vào khoảng những năm 1968 – 1972, chúng ta có 4 cuộc hội thảo lớn về đề tài Thời đại Hung Vương, sau đó, kỷ yếu của 4 cuộc hội thảo này đã được tập hợp in thành 4 cuốn sách “Hùng Vương dựng nước” (tập I, II, III, IV) mà cũng chẳng có công trình dịch thuật nào về NPHV cả. Đó là một điều hết sức lạ lùng. Nghiên cứu về Thời đại Hùng Vương sao không nghiên cứu Ngọc phả? Đành rằng Ngọc phả không phải là lịch sử nhưng là bóng dáng của lịch sử, nó phản ánh tâm tư, tình cảm, quan niệm của cha ông ta về cội nguồn, ít nhất là vào thế kỷ 15 (thời điểm viết Ngọc phả) sao lại bỏ qua được? Vì vậy, việc dịch trọn vẹn NPHV của GS Ngô Đức Thọ là một việc làm rất có ý nghĩa.
*
“Có một nhà nghiên cứu khá quen thạo đề tài này, tôi tuy chưa gặp mặt, nhưng đã có dịp có vài trao đổi ngắn với ông trên mạng. Tôi rất thú vị vì biết ông rât thú vị đối với việc tôi đang làm, đến mức bản dịch tôi thực hiện trên blog đựoc đoạn nào là ông tải ngay về trang của ông đoạn ấy.
Hôm qua trước Noel mấy tiếng tôi làm xong bản dịch HVNP, sáng nay vào thăm trang của ông đã thấy ông loát đủ kèm theo một Comment nguyên văn như sau: Ngọc phả Hùng Vương hiện lưu tại Bảo tàng Hùng Vương, Phú Thọ. Ngọc phả gồm 21 tờ, 42 trang chữ Hán. Tổng cộng gần một vạn chữ. Sau hơn nửa tháng (từ ngày 9 – 24. 12. 2011) miệt mài, cần mẫn, GS Ngô Đức Thọ đã dịch xong. Trong khoảng thời gian đó, cứ mỗi lúc ông dịch xong đoạn nào, tôi lại tải về đăng lên mạng của tôi đoạn ấy. Tôi đã từng nhiều lần sưu tầm nhưng chưa có một bản dịch Ngọc phả nào cho hoàn thiện. Thường thì người ta dịch từng đoạn , ai cần đoạn nào phục vụ cho công tác nghiên cứu của mình thì dịch đoạn ấy. Đây là bản dịch đầy đủ nhất cho đến hiện nay mà tôi biết được. Một lần nữa, xin ghi công và cảm ơn GS Ngô Đức Thọ (Phan Duy Kha- http://vn.360plus.yahoo.com/phan_duykha?l=f&id=1) Người nghiên cứu đối với nhau, gửi cho những nhận xét chân thành đúng lúc như thế quả thật như cho nhau một thang thuốc bổ. Đó là ông Phan Duy Kha xác minh cho tôi đựoc một điều: Bao nhiêu lâu rồi, thế mà chúng ta chưa có một công trình biên khảo nào về Ngọc phả Hùng Vương được công bố.
Trên đây là mấy dòng GS Ngô Đức Thọ viết về tôi, viết cho tôi trên trang mạng của ông trong bài LỜI NGƯỜI DỊCH, sau khi dịch xong Ngọc phả Hùng Vương (NPHV).Đây là một việc làm tự nguyện bởi không ai giao nhiệm vụ, cũng không ai trả công cho ông trong việc dịch thuật. Ngay ban đầu, ông cũng không có ý định dịch hết NPHV. Cái đầu đề từ ban đầu ông ghi trên bản dịch là “Cựu đô Ngàn Hống là đây” đã nói lên rằng, ông chỉ định dịch đời thứ nhất trong NPHV là dời vua Kinh Dương Vương, trong đó có phần vua chọn đất đóng đô ở Ngàn Hống. Bởi vì, NPHV tương đối dài, ngót một vạn chữ, gồm 42 trang chữ Hán (sau này, khi dịch xong tôi in ra được gần 40 trang giấy khổ A4). Rõ ràng là một công việc mệt nhọc so với cái tuổi gần 80 của ông.
Tôi là người có duyên may biết được công việc dịch thuật của ông ngay từ ngày đầu tiên (9.12.2011). Chính những lời động viên ban đầu kịp thời của tôi đã tiếp thêm sức cho ông mà như ông nói là “bằng cho nhau một thang thuốc bổ”. Từ đó, tôi luôn luôn theo dõi công việc của ông (trên mạng, dạo đó cả ông và tôi đều có trang mạng Yahoo.com). Hễ ông dịch xong đoạn nào, tôi lại tải về trang mạng của tôi đoạn ấy, thậm chí có khi ông còn chưa kịp sửa lỗi chính tả. Trong quá trình hơn nửa tháng đó, tôi và ông còn trao đổi với nhau nhiều lần qua comment

Đêm Nô en (25.12.2011), ông mới hoàn thành trọn vẹn bản dịch, và ngày hôm sau, tôi tải lên mạng của tôi văn bản hoàn chỉnh cuối cùng này.
Từ lâu tôi đã “săn tìm” NPHV nhưng thực sự là chưa có ai dịch trọn vẹn.Tôi chỉ gặp được đôi đoạn rời rạc trong các bài viết về thời Hùng Vương mà các tác giả trích dẫn.Thậm chí, vào khoảng những năm 1968 – 1972, chúng ta có 4 cuộc hội thảo lớn về đề tài Thời đại Hung Vương, sau đó, kỷ yếu của 4 cuộc hội thảo này đã được tập hợp in thành 4 cuốn sách “Hùng Vương dựng nước” (tập I, II, III, IV) mà cũng chẳng có công trình dịch thuật nào về NPHV cả. Đó là một điều hết sức lạ lùng. Nghiên cứu về Thời đại Hùng Vương sao không nghiên cứu Ngọc phả? Đành rằng Ngọc phả không phải là lịch sử nhưng là bóng dáng của lịch sử, nó phản ánh tâm tư, tình cảm, quan niệm của cha ông ta về cội nguồn, ít nhất là vào thế kỷ 15 (thời điểm viết Ngọc phả) sao lại bỏ qua được? Vì vậy, việc dịch trọn vẹn NPHV của GS Ngô Đức Thọ là một việc làm rất có ý nghĩa.
Theo tôi được biết, hiện nay còn ba văn bản NPHV. Một bản soạn năm Thiên Phúc nguyên niên đời Lê Đại Hành (986) được cho là bản xưa nhất, một bản soạn năm Hồng Đức nguyên niên, đời vua Lê Thánh Tông (1470), tức bản GS Ngô Đức Thọ đã dịch và một bản soạn năm Hồng Phúc nguyên niên đời vua Lê Anh Tông (1572). Gần đây, ông Phạm Thuận Thành có giới thiệu một bản Ngọc phả ở đền Bình Ngô (An Bình, Thuận Thành, Bắc Ninh) do Hoàng giáp Nguyễn Tá Chánh soạn từ thời Nguyễn, dài hơn 5 ngàn chữ, chắc là sao lại từ một trong ba bản trên.
Các cơ quan, địa phương hay cá nhân nào còn giữ được các văn bản trên, nếu dịch ra quốc ngữ rồi công bố như GS Ngô Đức Thọ đã làm thì hay biết mấy. Hoặc nếu không có điều kiện dịch thuật thì phô tô rồi gửi bản chụp cho GS Ngô Đức Thọ thì đó là điều tâm nguyện của ông .

Khi tôi đang Post bài này lên mạng thì được tin GS Ngô Đức Thọ vừa được tặng giải thưởng Phan Châu Trinh về dịch thuật. Xin chúc mừng ông.
*

 

 

HỒ SĨ HẬU VÀ TIỂU THUYẾT DÒNG SÔNG MANG LỬA

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc, bộ đội xăng dầu đã lập công xuất sắc, từ tháng 8.1968 đến tháng 12.1974 các đồng chí đã xây dựng, bảo vệ, vận hành thông suốt tuyến đường ống xăng dầu dài 5.000 km và hệ thống kho xăng dầu gần 3 vạn tấn được lắp đặt từ biên giới phía bắc Tổ quốc, xuyên dọc Trường Sơn vào đến Bù Gia Mập tỉnh Phước Long, miền Đông Nam Bộ.
Trích lời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Hà Nội, ngày 20.12.2001
*
Ngày 15.11.2012, ông bạn học của tôi hồi đại học là Thiếu tướng Hồ Sĩ Hậu, gọi điện cho tôi.
– Chào Kha, mình vừa in một cuốn tiểu thuyết tên là Dòng sông mang lửa (1) trong đó mình có đưa mấy câu thơ của Kha vào sách.
Tôi cảm thấy rất bất ngờ, vội hỏi:
– Câu thơ nào?
– Câu thơ Kha làm hồi chúng mình chia tay nhau trước lúc ra trường nhận công tác ấy mà.
– Thú thật là mình không còn nhớ nữa. Hậu thử đọc xem nào.
Hậu đọc ngay, chứng tỏ anh đã thuộc lòng:
Mấy năm qua từng tên đất tên người,
Bỗng trở thành những nhà ga ký ức,
Tiếp tiếp nối nhau bằng đường tàu rạo rực,
Trên đó đi về những kỷ niệm riêng chung.
                (Đời sinh viên – Thơ Phan Duy Kha)
Cú điện thoại của Hồ Sĩ Hậu mang lại hai bất ngờ thú vị đối với tôi. Bất ngờ thứ nhất là mấy câu thơ của tôi, tôi vốn quên từ lâu ( không còn tý dấu vết gì trong bộ nhớ), nay lại được bạn mình nhớ hộ, có lẽ nó đã theo anh trong suốt chặng đường dài chiến tranh ác liệt. Nhưng bất ngờ thứ hai mới là bất ngờ lớn: Không ngờ ông bạn tôi lại viết được một cuốn tiểu thuyết dày dặn như thế, đến 630 trang in. Hồi còn học đại học , ở cùng phòng với nhau, có thấy anh viết văn, làm thơ bao giờ đâu.
Mấy hôm sau, nhân có cuộc gặp mặt, anh đem Dòng sông mang lửa (DSML) tặng tôi. Tôi đã phải bỏ những thói quen hàng ngày như xem báo, đọc sách,  xem tivi, lướt nét, chỉ để chú tâm vào Dòng sông mang lửa của anh, với tấm lòng trân trọng, coi thành tựu của bạn cũng như thành tựu của bản thân mình.
Câu chuyện đưa ta về những năm tháng xa xôi của cuộc đời sinh viên gian khổ và thiếu thốn. Tháng 8.1964, chúng tôi vào học  trường Đại học Bách khoa thì xẩy ra chiến tranh phá hoại, năm 1965, chúng tôi theo trường sơ tán lên Lạng Sơn, năm 1966 lại trở về Hà Bắc (nay là Thuận Thành, Bắc Ninh). Ở đây , đến năm thứ 4 thì có sự kiện lớn: Lớp Trắc địa của chúng tôi gồm 30 sinh viên thì có 4 người , trong đó có Hồ Sĩ Hậu được chọn vào bộ đội. Lúc đó là tháng 5.1968. Sang tháng 6, 10 anh em chúng tôi lại được chọn về Bộ Vật tư. Thế là một nửa lớp được ra trường trước mà không phải làm đồ án tốt nghiệp, (năm sau, chúng tôi về trường nộp báo cáo thực tế công tác và nhận bằng). Cả hai nhóm người, về Bộ Quốc phòng và Bộ Vật tư đều nhận một nhiệm vụ đặc biệt là làm đường ống xăng dầu. Tất nhiên, mãi sau này chúng tôi mới biết công việc của nhau, còn lúc ấy thì phải giữ bí mật, người nào biết việc của người ấy.
Chúng tôi về Bộ Vật tư, tham gia khảo sát thiết kế lắp đặt đường ống vĩnh cửu, nối cảng đầu mối Bãi Cháy (nơi nhập đầu) tới Nhân Vực (Thường Tín, nay thuộc Hà Nội)  gọi là đường ống B12, rồi đi các tỉnh khác trên miền Bắc. Gọi là vĩnh cửu vì đường ống “phi 150mm”, được hàn liền với nhau, rồi chôn sâu xuống đất hơn 1 mét. Độ bền đường ống trên 50 năm. Còn các bạn về Bộ Quốc phòng thì lắp đặt đường ống dã chiến “phi 100mm” nối khớp, vượt Trường Sơn, cung cấp xăng dầu cho chiến trường . Gọi là đường ống dã chiến vì đường ống này gồm những đoạn ống 6 mét, có ngoàm bắt ốc nối với nhau, có thể tháo lắp dễ dàng. Hai bên cùng làm xăng dầu cả nhưng trên hai địa bàn khác nhau, mức độ khó khăn ác liệt khác nhau.
Cần biết rằng, từ năm 1968 trở về trước, phương tiện vận chuyển xăng dầu trên miền Bắc nước ta là ô tô stec, hoặc đóng vào thùng phuy rồi chở bằng ô tô vận tải. Việc chuyên chở bằng xe stec hoặc chở bằng thùng phuy khối lượng được ít, hao hụt nhiều. Nhất là những năm chiến tranh phá hoại, xe ô tô là mục tiêu đánh phá số 1 của máy bay Mỹ. Vì vậy, việc dùng đường ống dẫn xăng dầu là yêu cầu bức thiết. Trên chiến trường, việc chuyên chở xăng dầu qua các trọng điểm đánh phá càng đòi hỏi bức thiết hơn. Đã có rất nhiều cách chở xăng dầu cung cấp cho chiến trường: Dùng mảnh ni lông lót trong ba lô, buộc túm lại để đựng xăng, rồi cõng trên lưng ; lại có khi dùng bốn người khiêng một thùng phuy 100 lít gọi là “kiệu xăng”, lại có nơi sáng kiến dùng đường ống tự tạo: “Mọi thứ ống: ống cao su, ống nhựa, ống tôn, chân nhà bạt, ống phóng rốc két Mỹ, . . .tóm lại, mọi thứ được gọi là ống. Chỗ nối giữa chúng nếu không phải là khớp nối kỹ thuật thì được quấn bằng săm ô tô. . . Đoạn dốc 50 mét cuối cùng thì không còn kiếm đâu ra mét ống nào nữa, nên ống được nối tiếp bằng những cây lồ ô đục thủng các mắt.” (trích DSML).Tất cả những cách chuyển tải đó đều không đảm bảo an toàn, hao hụt nhiều, dễ cháy nổ mà khối lượng lại không được bao nhiêu. Vì vậy, việc dùng đường ống dã chiến là một yêu cầu bức thiết. Các bạn lớp tôi, các kỹ sư  của các ngành Mỏ -Địa chất,  Thủy lợi, Bách khoa, Cơ khí mới ra trường hoặc được ra trường sớm để phục vụ cho nhu cầu công tác này.
Hồ Sỹ Hậu là kỹ sư  Trắc địa, trường Đại học Mỏ Địa chất, được ra trường trong dịp ấy. Anh đã tham gia khảo sát, thiết kế, lắp đặt và vận hành tuyến đường ống xăng dầu từ năm 1968 cho đến khi hết chiến tranh. Trong quá trình lao đông và chiến đấu, anh đã cố gắng ghi chép lại, để đến khi trở thành “tướng về hưu” (Hồ Sỹ Hậu về hưu với hàm Thiếu tướng), anh mới có thời gian hoàn thành “Dòng sông mang lửa” (DSML, Nxb Hội Nhà văn, 2012). “Đó là một Dòng sông mang lửa, vì nó sẽ bất chợt bùng cháy khi gặp một tia lửa nhỏ. Vậy mà nó đã vượt qua đỉnh Trường Sơn, qua núi cao, sông sâu, vượt qua mưa bom bão đạn đánh phá hủy diệt của không lực Hoa Kỳ. Dẫu bao người đã ngã xuống, nhưng tuyến đường ống vẫn kiên cường đứng vững , đảm bảo xăng cho vận tải cơ giới và các hoạt động chiến đấu trên đường Hồ Chí Minh, không ngừng vươn sâu vào các chiến trường, đến tận Nam Bộ. Câu chuyện đó khó tin như một huyền thoại” (trích DSML, tr.6)
Đoạn đường ống đầu tiên được lắp đặt là đoạn X42, dài 42 km, vượt “tam giác lửa “Nam Đàn  – Linh Cảm – Vinh, trong đó đoạn vượt sông Lam là khó khăn, ác liệt nhất.  “Tiếng dô ta dô huầy của đoàn người át cả tiếng máy ô tô đang ì ạch nhích từng chút, từng chút. Đoàn người gò lưng kéo theo nhịp. Chẳng mấy chốc đoạn ống như con rắn bò dần ra giữa sông. Bờ nam cứ kéo, bờ bắc cứ đẩy, còn dòng nước càng ra giữa sông càng xiết nên “con rắn” cứ  oằn mình về phía hạ lưu” (trích DSML). Một không khí lao động khẩn trương, cướp thời gian, bởi “hàng trăm người làm việc ngay sát trọng điểm đánh phá của địch thế này, không thể nói trước được điều gì” (trích DSML). Thế rồi, đường ống cũng vượt được qua sông. Không thể tả được niềm vui khi dòng xăng đầu tiên, vượt qua 42 km trọng điểm đánh phá ác liệt của địch, từ kho N1 (Nam Thanh, Nam Đàn) chảy đến kho N2 (Nga Lộc, Can Lộc) ! Từ đây, một phương tiện chuyên chở xăng dầu mới hình thành. Mặc cho trên đầu máy bay giặc quần đảo, thì bên dưới mặt đất, dòng xăng dầu vẫn lặng lẽ, âm thầm chảy, cung cấp cho nhu cầu của chiến trường.
Sau thành công của X42, hệ thống đường ống xăng dầu bắt đầu tiến dần về phía nam, và tiến sang phía Tây Trường Sơn (sang đất bạn Lào). Càng vào sâu, càng gian khổ ác liệt. Những người làm công tác khảo sát xây dựng đường ống trong điều kiện hòa bình đã vất vả, thì trong điều kiện thời chiến càng khó khăn, gian khổ gấp bội. Trèo đèo, lội suối, băng rừng mà đi “theo phương vị” (tức cắt rừng theo hướng địa bàn), trên đầu thì máy bay địch nhòm ngó, trong rừng thì thám báo, biệt kích, mỗi bước đi của các anh đầy rẫy bất trắc: bom từ trường, mìn cài lại chưa nổ. . . Rồi thì những vụ nổ xăng, cháy xăng, nhiều khi chỉ vì một sự  sơ suất nhỏ mà phải đổi mấy mạng người. Rồi thì những trọng điểm ác liệt mà đường ống bắt buộc phải vượt qua : “Mặc dù ở tuyến cũ, khi thi công, đường được sửa sang để người vác ống có thể đi được nhưng sau hàng chục trận B52, bổ nhào, không còn có thể nhận ra lối đi nữa. Đá bị cày xới, đập vỡ , tả tơi thành lớp bụi dày. Cây bị băm, bị chặt ngổn ngang khiến người đi không đã khó, huống chi vác chiếc ống dài sáu mét để chuyển lên tuyến tránh” (trích DSML). Trước sự  ác liệt của chiến tranh, không phải không có những kẻ sợ hãi, dao động, “ – Nơi khác tao không biết, chứ ở đây ngày nào cũng có người chết: lính công binh, lái xe, thanh niên xung phong, cao xạ và cả đường ống nữa. Có những ngày bom bứng đi cả tiểu đội thanh niên xung phong. Ghê quá” (trích DSML). Cũng có những vị chỉ huy như Lê Khôi, khi bị máy bay B52 ném bom vào đơn vị thì trốn biệt tăm, khi mọi việc xong xuôi mới xuất hiện. Tuy nhiên, những kẻ khiếp nhược như thế chỉ là thiểu số.
Giữa chiến trường ác liệt càng sáng ngời những phẩm chất tốt đẹp. Đó là những vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm, hết mực thương yêu, đồng cảm với lính như Lê Trọng, Đặng Văn Thế, Trung đoàn trưởng Đông, . . .đến những kỹ sư mới ra trường, đã sớm trưởng thành để đảm nhận những công việc quan trọng như Ngọc, Quang,  Danh, Thục. . . họ là những đại diện xứng đáng cho một thế hệ thanh niên trí thức, mới  được đào tạo từ nhà trường và đã trưởng thành nhanh chóng trong chiến tranh.
Ở chiến trường máu lửa, mới thấm thía nghĩa tình đồng đội. Có chia sẻ nào cao cả hơn là chia sẻ cái chết. Biết bạn là con một, sẵn sàng xông ra nơi nguy hiểm thay cho bạn, vì “mày là con một, chết là hết, chúng tao còn có anh, có em, có chết cũng còn người nối dõi tông đường”. Đó là tình cảm sẻ chia của người chỉ huy với người lính, như Trung đoàn trưởng Lê Trọng, sẵn sàng đem mấy lọ sâm, suất bồi dưỡng riêng của mình ( cán bộ từ Trung đoàn trưởng trở lên mới có tiêu chuẩn) đem cho mấy anh em đi khảo sát tuyến, vì “mấy cậu làm việc vất vả”. Hay như Trung đoàn trưởng Đông, có cái kèn Ac mô ni ca  là niềm vui duy nhất cũng đem cho lính vì thấy các cậu cứ lủi thủi trong rừng cả ngày mà chẳng có gì giải trí.
DSML phê phán sự nhìn nhận đánh giá con người chỉ thông qua lý lịch. Đó là sự đánh giá phiến diện, cứng nhắc, đem lại không ít đau xót phiền lụy cho người trong cuộc. Như trường hợp của trung úy Tường. Anh là một chỉ huy kiên cường, gan dạ. Chỉ vì một chi tiết không đâu trong lý lịch, đã phải xóa đảng tịch. Ở trên chiến trường, đó là một điều đau khổ còn hơn bị kỷ luật, bởi vì đó là sinh mạng chính trị. Cho đến khi hi sinh, anh vẫn còn day dứt : “Tại sao người ta không đánh giá tôi qua sự chiến đấu dũng cảm quên mình ở Cồn Cỏ ? Tại sao người ta lại loại bỏ ra khỏi đội ngũ một người sẵn sàng hi sinh tính mạng vì Tổ quốc , chỉ vì trong lý lịch của tôi có những người mà tôi chưa bao giờ biết họ” (trích DSML).
DSML cũng cho ta cái nhìn chân thực hơn, khách quan hơn về chiến tranh. Hãy nghe Hồ Sỹ Hậu luận về chiến tranh và thân phận con người: “Nhưng bất luận thế nào, những chàng trai trẻ ngã xuống giữa trận tiền vẫn là sự ra đi kiêu hùng. Hàng ngàn hàng vạn cái chết của họ là một phần viết nên lịch sử của cuộc chiến tranh. Còn ở hậu phương, sau cái chết ấy là tiếng gào khóc của người vợ mất chồng, con mất cha. Là nỗi đau tận cùng của người cha, người mẹ mất con. Là bắt đầu một cuộc vật lộn với đời vì gia đình mất đi một trụ cột, hay một nhánh tương lai của gia đình, của dòng họ bị cắt đứt” (trích DSML). Anh đã nhiều lần chứng kiến sự ra đi của đồng đội. Không lần nào anh không rơi nước mắt. Chính vì vậy mà anh thật sự bất ngờ khi một vị lãnh đạo cao cấp khuyên giải người mẹ của liệt sĩ như thế này: “ Tôi nói với bà ấy : Sao bà lại khóc. Bà phải vui lên chứ, phải phấn khởi vì gia đình mình đã đóng góp một người con cho cách mạng” (trích DSML). Có con hi sinh mà phải “phấn khởi” phải “vui” thì chỉ có ông cán bộ này mà thôi! Có lẽ ông ta chưa có đứa con nào hi sinh ngoài mặt trận để thấm được nỗi đau tận cùng của người làm cha, làm mẹ.
DSML cũng giành rất nhiều trang nói về tình yêu. Giữa gian khổ, ác liệt, giữa mất mát đau thương, tình yêu càng hiện lên chói ngời, rực rỡ. Đó là tình yêu của cặp Thục – Khanh. Một mối tình làm cho ta xúc động đến trào nước mắt: “Từ lâu lắm rồi, trong mắt anh, em là một bông hoa tinh khiết, tinh khiết đến mức không ai có thể nỡ làm tổn thương.  . . Vậy mà hôm nay anh đã làm em khó xử từ tận đáy lòng. Anh có lỗi với em quá” (trích DSML). Cái “lỗi” đó, cái “làm cho người yêu khó xử” đó, chỉ là lời thổ lộ tình yêu. Anh sợ sự thổ lộ tình yêu của anh cũng làm tổn thương em ! Đó là nỗi nhớ đến cháy lòng: “Nỗi nhớ người yêu trong chiến tranh nó kỳ lạ lắm. Nỗi nhớ theo anh vào tận đáy con tim, nó không chỉ cho anh cảm thấy bồn chồn, mà nhiều khi anh cảm thấy như có gì đau thắt”. Hay như tình yêu của cặp Đỉnh – Lan: “Anh ở đâu, dù cùng trời cuối đất, em cũng tìm được. Không có bất kỳ ai, bất kỳ cái gì có thể ngăn được em đi tìm anh”. Có thể nói không ngoa rằng, chỉ có chiến tranh, chỉ trong xa cách, tình yêu mới mang vẻ đẹp trong sáng, cao thượng, thánh thiện như thế.
Trước khi đọc DSML, tôi đã đọc qua mấy cuốn sách viết về bộ đội đường ống xăng dầu. Đó là các cuốn : Xăng dầu một thời đáng nhớ (Nhiều tác giả, Nxb Lao động, 2001); Phan Tử Quang với huyền thoại đường ống (Diệu Ân, Nxb Lao động, 2003); Một thời là lính xăng dầu (Hồi ký của Trần Xanh, Nxb Quân đội nhân dân, 2008). Đối chiếu với các sự kiện mà các cuốn sách trên đề cập, ta có thể thấy rằng, hầu hết các câu chuyện các sự kiện trong DSML là có thật. Có lẽ đến 90% là những câu chuyện có thật, được tác giả xâu chuỗi lại, điển hình hóa, nâng cao lên để thành hình tượng văn học. Tất nhiên, những tên đất, tên người, tên đơn vị có thay đổi đi. Tóm lại, DSML là câu chuyện có thật, phản ánh không khí hào hùng của một thời đạn lửa, là câu chuyện của những người làm công tác khoa học kỹ thuật trên chiến trường để tạo nên huyền thoại trong huyền thoại, như Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, nguyên Tư lệnh Đoàn 559 từng phát biểu: “Nếu gọi đường Hồ Chí Minh là một huyền thoại thì đường ống xăng dầu là huyền thoại trong huyền thoại đó”.
DSML là bản anh hùng ca của bộ đội đường ống xăng dầu trong những năm chiến tranh ác liệt !
Xin chúc mừng thành công của Hồ Sỹ Hậu và xin giới thiệu Dòng sông mang lửa với bạn đọc. / .

 



VÀI KỶ NIỆM VỚI NGHỆ SĨ NHIẾP ẢNH  ĐOÀN CÔNG TÍNH

 Tết 1973 là cái Tết Hoà bình đầu tiên sau Hiệp định Pa ri. Sau bao năm xa nhà vì bom đạn địch đánh phá, tôi được về quê ăn Tết. Sáng ngày mồng 4, tôi lên đường ra Vinh để mua vé tàu ra Hà Nội. Trên chuyến tàu năm đó, tôi tình cờ và may mắn được gặp và làm quen với hai người bạn đường đặc biệt. Đó là hai nhà báo quân đội:  Đoàn Công Tính và Khương Thế Hưng.
    Anh Khương Thế Hưng, người Quảng Nam là con trai đầu của nhà thơ Khương Hữu Dụng. Anh người tầm thước, da bánh mật, khi nói miệng cười rất có duyên. Năm đó anh đã gần 40 tuổi nhưng chưa xây dựng gia đình. Cuộc đời anh Hưng là những trang huyền thoại. Anh rất đa tài. Trong kháng chiến chống Pháp, anh chiến đấu ở chiến trường cực nam Trung Bộ (Ninh Thuận, Bình Thuận). Sau hoà bình lập lại (1954) anh hoạt động trong đoàn văn công Liên khu 5, vừa sáng tác nhạc, vừa biên đạo múa, vừa làm thơ, viết văn. Thế nhưng, trong kháng chiến chống Mỹ, anh lại tham gia binh chủng đặc công, là chính trị viên một tiểu đoàn đặc công nổi tiếng bám trụ kiên cường, chiến đấu ở chiến trường Quảng Ngãi. Trong đợt Tổng tiến công Mùa Xuân Mậu Thân 1968, anh bị thương nặng, được ra Bắc điều trị, sau đó được về báo Quân đội nhân dân, làm phóng viên chiến trường.
Trái với vẻ ngoài của Khương Thế Hưng, Đoàn Công Tính người dong dỏng cao, da trắng, thư sinh. Năm ấy anh khoảng 30 tuổi, đã có vợ, mới có con. Đoàn Công Tính là phóng viên nhiếp ảnh. Trước khi biết anh , tôi đã được xem rất nhiều bức ảnh anh chụp về người lính, về chiến trường. Những bức ảnh đó thường được đăng trên các báo Nhân Dân và Quân đội nhân dân.
Cả hai anh vừa từ Đông Hà, Quảng Trị về , còn nóng hổi không khí chiến trường. Các anh về Hà Nội để nhận công tác mới : Tham gia Phái đoàn quân sự bốn bên vừa được thành lập sau hiệp định Pa ri. Tình cờ, tôi lại được ngồi cùng với các anh trong một toa tàu, trên hai ghế đối diện nhau. Các anh kể chuyện chiến trường, còn tôi thì kể chuyện hậu phương, chuyện cơ quan, chuyện sơ tán. Đến bữa ăn trưa, tôi bóc bánh chưng, quà tết quê hương mời các anh , còn các anh thì bóc lương khô, tiêu chuẩn lương thực của người lính đi công tác để chiêu đãi tôi. Ở trên tàu , người ta dễ thông cảm và dễ thân nhau lắm, nhất lại là những ngày hoà bình đầu tiên, không khí còn bừng bừng sắc Xuân !
Hồi đó, tàu chạy còn rất chậm . 8 giờ sáng khởi hành từ ga Vinh, nhưng 7 giờ tối mới đến ga Phủ Lý. Đến đây, Đoàn Công Tính chia tay chúng tôi. Vợ anh, chị Vân Yến, bác sỹ công tác ở bệnh viện Quân y tại  Phủ Lý, đang chờ . Chị vừa mới sinh cháu đầu. Còn lại tôi và Khương Thế Hưng cùng về Hà Nội. 9 giờ đêm chúng tôi xuống ga Hàng Cỏ, tôi xin địa chỉ và số điện thoại cơ quan của anh, để liên hệ về sau. Năm 1975, ngay sau ngày giải phóng Miền Nam, tôi nhớ có lần, tôi đã mời anh tới nói chuyện về chiến dịch Hồ Chí Minh ở cơ quan tôi lúc bấy giờ còn ở ngoài bãi Phúc Xá. Giọng anh sang sảng. Anh kể chuyện chiến trường rất hấp dẫn. Cả hội trường chật nich người, ngồi nghe suốt 4 tiếng đồng hồ mà không có một ai ra ngoài, mặc dù hôm ấy trời rất nóng.
Khương Thế Hưng mất năm 1999 vì bạo bệnh, khi mới ở tuổi 65. Sau này, khi đọc sách báo, tôi mới phát hiện thêm một điều thú vị về anh. Anh chính là anh M , người yêu của bác sỹ Đặng Thuỳ Trâm. Trong nhật ký, bác sỹ Đặng Thuỳ Trâm thường nhắcđến anh M, tức là viết tắt bút danh Đỗ Mộc, Nguyên Mộc của anh. Có lẽ anh xây dựng gia đình muộn vì ám ảnh của mối tình đầu này chăng?
Còn Đoàn Công Tính, sau chuyến tàu năm ấy, tôi không có dịp gặp anh. Trước khi anh xuống tàu, vì rất vội nên tôi cũng không kịp hỏi địa chỉ. Thế nhưng, giữa anh và tôi lại có cái duyên gặp gỡ rất lạ. Năm 1977- 78, tôi tìm hiểu người yêu công tác ở một cơ quan nọ. Khi chúng tôi sắp tổ chức lễ thành hôn, tôi mới phát hiện ra rằng, người vợ sắp cưới của tôi và chị Vân Yến vợ anh là hai chị em rất thân nhau. Bác sỹ Vân Yến sau những ngày làm việc ở bệnh viện Phủ Lý đã xin về công tác ở một cơ quan dân sự ở Hà Nội, phụ trách  y tế cơ quan. Trong ngày cưới của hai chúng tôi, chính Đoàn Công Tính đã tặng chúng tôi cả một cuộn phim và chụp ảnh toàn bộ lễ cưới. Nếu biết rằng, thời buổi bao cấp ấy, phim ảnh vô cùng hiếm, người đến chụp ảnh ở hiệu ảnh Quốc Tế  Bờ Hồ còn phải đăng ký trước để lấy tích kê, thì mới thấy rằng món quà của anh đối với chúng tôi quý giá biết ngần nào !
Năm 1983, anh chị chuyển cả gia đình vào sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Vợ chồng tôi cùng anh Vương Trí Nhàn, nhà phê bình văn học, bạn anh, ra ga Hàng Cỏ tiễn chân (và chuyển giúp hành lý lên tàu, vì anh chuyển cả gia đình nên rất nhiêu đồ đạc cồng kềnh) . Tàu chuyển bánh rồi, chúng tôi trở về nhà, lòng bâng khuâng nghĩ rằng, từ nay phải xa những người bạn quý.
Từ đó, mỗi khi có dịp vào công tác tại Thành phố Hồ Chí Minh, tôi đều ghé thăm anh chị. Ngược lại, hai anh chị mỗi khi có dịp ra Hà Nội công tác đều ghé gia đình tôi. Năm 2001, anh xuất bản tập ảnh phóng sự về chiến tranh Việt Nam, có tên là Khoảnh khắc. Cuốn sách được Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết lời đề tựa. Anh mang sách ra tặng tôi. Anh còn tìm gặp những cựu chiến binh năm xưa, những người từng được anh chụp ảnh, để tặng. Thật là một việc làm tình nghĩa. Nếu chúng ta biết rằng mỗi cuốn sách ảnh của anh có giá bìa là 250.000 đồng, giá hơn nửa chỉ vàng lúc ấy ! (năm 2001 giá vàng 4 số 9 là 475.000 đ/chỉ) . Nhưng giá trị cuốn sách không chỉ ở chỗ ấy. Nhiều Liệt sĩ của chúng ta hi sinh khi chưa kịp để lại một bức hình, đối với người thân của họ thì tập sách ảnh của anh là vô giá.
Năm 2007, tôi vào Thành phố Vũng Tàu dự đám cưới đứa cháu ruột. Xong việc , tôi về Thành phố Hồ Chí Minh thăm anh chị. Sau 17 năm trời, đây là lần đầu tiên tôi trở lại thành phố đô hội này. Anh Tính tranh thủ đưa tôi đi thăm một số nơi, giữa đường phố Sài Gòn chật như nêm. Ở Hà Nội tôi đã quen với cảnh đường chật người đông nhưng Sài Gòn còn đông gấp bội. Tôi ngỏ ý, trước đây tôi đã mấy lần đến tham quan dinh Độc Lập nhưng hồi ấy chưa mở cửa tầng hầm, lần này tôi muốn được trở lại xem. Anh Tính đưa tôi tới đó nhưng không may lại gặp phải hôm người ta không mở cửa tầng hầm cho khách tham quan. Anh dẫn tôi vào gặp chị Bùi Thị Hằng, Phó Giám đốc Nhà bảo tàng. Chị Hằng người Đức Thọ, Hà Tĩnh, là cháu ngoại nhà thơ yêu nước Phan Điện (Phan Điện là bố của hai vị bộ trưởng Phan Anh, Phan Mỹ trước đây). Chị Hằng tặng mỗi người hai đĩa phim tư liệu : “ Ngày 30- 4 ở dinh Độc Lập” và “ Chuyện về những người lính xe tăng 390” ( Sau này về Hà Nội, hai đĩa này được nhiều người mượn về xem và sao lại) . Sau đó, khi biết nguyện vọng của hai anh em(thực chất là của riêng tôi) chị gọi một cô hướng dẫn viên trẻ tên là Thu dẫn hai anh em đi thăm hầm ngầm dưới dinh. Chị ưu ái hai vị khách đặc biệt như thế đấy.  Thế mới biết, ở Sài Gòn, anh Tính quan hệ rộng như thế nào. Khi hai anh em chia tay, chị Hằng còn hát “Đi mô cũng nhớ về Hà Tĩnh”, tôi biết chị có ý tiễn riêng tôi (Vì chị và tôi cùng đồng hương Hà Tĩnh) .
Rời dinh Độc Lập, anh Tính đưa tôi đến trước tượng đài Bác Hồ ở vườn hoa trước cửa trụ sở Uỷ ban nhân dân Thành phố để tranh thủ chụp một tấm ảnh kỷ niệm. Khi đi qua toà nhà Quốc hội cũ (nay là Nhà hát Thành phố) anh Tính hỏi có dừng lại chụp ảnh không. Lúc này đã là 11 giờ trưa, mà 13 giờ đã phải có mặt tại sân bay Tân Sơn Nhất , không thể dềnh dàng được nữa. Hai anh em đành đèo nhau về nhà ăn cơm. Ăn xong, anh thuê một người lái xe ôm chở tôi ra sân bay. Vì cả buổi sáng đèo tôi đi chơi,bây giờ anh đã mệt. 12 h45, tôi từ giã anh chị, lên xe ôm ra sân bay Tân Sơn Nhất. Đến nơi, móc tiền ra giả anh xe ôm, anh cười bảo là anh Tính đã giả trước rồi. Cảm ơn anh Tính, chị Yến đã quá chu đáo. Cảm ơn cả anh xe ôm Sầi Thành nữa bởi tính chân thật của anh. 13h30, tôi lên máy bay về Hà Nội.
Mấy ngày sau, tôi nhận được một chiếc phong bì dày gửi bảo đảm từ thành phố Hồ Chí Minh. Đó là những bức ảnh anh chụp trong ngày anh đưa tôi đi chơi . Anh chu đáo như thế đấy.
Đoàn Công Tính là một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài danh. Anh đã nhận được Giải thưởng lớn kèm Huy chương vàng của tổ chức Quốc tế các nhà báo OI J (cho bức ảnh Đánh chiếm căn cứ Đầu Mầu) ; giải Nhất của Hội văn nghệ Hà Nội 1970 ( cho bức ảnh Trên đường hành quân) ;giải nhất của Hội nhà báo Việt Nam 1973 (cho bức ảnh Trên đồi không tên) ; giải Nhất của Tổng cục chính trị 1970 (cho bức ảnh Tiến bước dưới Quân kỳ); giải thưởng Hội nhà báo Thành phố Hồ Chí Minh (cho bức ảnh Người cửa sông) v.v. . .Năm 2005, tập ảnh Khoảnh khắc vinh dự được nhận Giải thưởng ảnh Châu Á Xa ga mi ha ra của Nhật Bản.  Hiện nay anh đang nung nấu ý định xây dựng một Bảo tàng tư nhân về chiến tranh Việt Nam. Đi đâu anh cũng để ý sưu tầm, nhặt nhạnh các hiện vật từ quả mìn, “cây nhiệt đới”, vỏ bom bi, bom B 52 v.v. . .Những vật bình thường không ai để ý đến, nhiều khi đối với anh lại là quý giá. Chúc anh đạt được thành công như ý. / .                                                                

SỰ TÍCH VỀ CHIẾC XE ĐẠP CỦA NHÀ VĂN PHÙNG QUÁN

Mấy hôm nay đọc một số tác phẩm có nhắc đến nguồn gốc chiếc xe đạp của nhà văn Phùng Quán. Đó là các tác phẩm Ký ức vụnChuyên đời vớ vẩn của Nhà văn Nguyễn Quang Lập và Chuyện Phùng Quán đăng tải trên trang mạng của nhà thơ Ngô Minh.
Đây là một đoạn trong bài Sự tích chiếc xe trâu của Phùng Quán : “Đến chơi nhà Trần Dần, anh thấy có tờ họa báo Phụ nữ Liên Xô, vừa lật được vài trang thấy thông báo về thể lệ cuộc thi viết về Lê Nin. Ngó xuống phần giải thưởng , giải khuyến khích là đồng hồ báo thức, bút máy và một vài thứ khác. Lập tức anh về nhà viết ngay, quyết giành cho được cái giải khuyến khích. Chừng hai ngày anh viết xong cái truyện Như con cò vàng trong cổ tích. Tất nhiên anh không lấy tên thật. Anh thư vào Nghệ An cho chú em họ đang làm công nhân lâm trường gì đấy, xin phép được lấy tên anh ấy. Sở dĩ anh lấy tên chú em họ , vì chuyện thi cử anh không dám mượn tên mấy ông bạn nhà văn anh vẫn mượn tên, hơn nữa, lấy tên một người thuộc giai cấp công nhân  chắc người ta sẽ ưu tiên hơn” (Trích Chuyện đời vớ vẩn, Tạp văn của Nguyễn Quang Lập). Còn theo nhà thơ Ngô Minh thì người mà Phùng Quán mượn tên không phải em họ mà là em vợ Phùng Quán, có tên là Vũ Quang Khải, công tác tại  một Lâm trường ở Nghệ An.
Phùng Quán đã gửi một truyện ngắn dự thi, chỉ mong được cái giải khuyến khích,  được cái đồng đồng hồ báo thức cho con ngủ dậy đúng giờ để đi học. Không ngờ, ông đã được giải Nhất, giải thưởng là chiếc “xe trâu”  – xe đạp thồ Liên Xô.
Là người có tham gia dự thi năm ấy và có được giải, được mời vào Đại sứ quán Liên Xô nhận giải , tôi xin được bổ sung thêm một số chi tiết.
Cuộc thi này do Hãng thông tấn Liên Xô Nô vôt xti tổ chức cho bạn đọc, bạn viết trong tất cả 12 nước Xã hội chủ nghĩa anh em lúc bấy giờ. Cuộc thi mang tên Sáng tác về đề tài Lê Nin và đất nước Liên bang Xô viết nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh V. Lê nin (1870- 1970) . Thông báo về cuộc thi được đăng tải trên Họa báo Liên Xô và báo Phụ nữ Liên Xô (cũng là báo ảnh, mà trước đây ta thường gọi là họa báo).Đây là 2 ấn phẩm của Liên Xô được lưu hành ở Việt Nam, nhưng cũng không phổ biến lắm (cán bộ cỡ như thế nào đó mới được đặt mua dài hạn, chứ không có bán ở thị trường) . Gửi bài dự thi cũng gửi về Ban Biên tập của Họa báo Liên Xô hoặc báo Phụ nữ Liên Xô.
Thể tài dự thi gồm Văn (truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản sân khấu), thơ (kể cả trường ca), nhạc (kể cả ca khúc và nhạc không lời), tranh và tượng, chủ yếu là ca ngợi Lê nin và cuộc sống tươi đẹp ở đất nước Liên Xô. Cuộc thi được phát động vào đầu năm 1969 và kết thúc vào đầu năm 1970. Tổ chức tổng kết và trao giải vào ngày 17.4.1970.
Giấy báo trúng giải và giấy mời nhận giải được gửi đến trước một tuần lễ.
Nhận được giấy mời vào Đại sứ quán Liên Xô nhận giải thưởng, hồi hộp và lo lắng suốt cả tuần liền. Lo nhất là kiếm đâu được bộ com lê . Vào Đai sứ quán của người ta cũng như sang đất nước của người ta rồi, ăn mặc lùi xùi sao được. Hồi ấy cả cơ quan hầu như chẳng ai có com lê (mỗi người một năm được phát 4 mét phiếu vải, đủ may một bộ quần áo mặc thường ngày, lấy đâu mà may com lê). Những người có được đi nước ngoài thì được đến kho của Bộ Tài chính mượn một bộ, khi về lại mang giả. Mượn mãi không được. Cũng may, hôm trao giải thời tiết mát mẻ, chỉ mặc áo sơ mi bỏ trong quần, chân diện đôi giày da, thế là lịch sự lắm rồi. Đến nơi, mới thấy mọi người cũng như mình, nhiều người còn đi dép cao su nữa chứ. Thế là an tâm.
Lễ trao giải diễn ra vào 19 h ngày 17.4.1970 tại Hội trường Câu lạc bộ của Đại sứ quán, có khỏang vài trăm người tới dự.  Có đại diện Bộ Văn hóa, một số nghệ sĩ (nghệ sĩ ngâm thơ, ca sĩ, nhạc công để trình bày tác phẩm được giải), các tác giả được giải, cùng cán bộ và nhân viên Đại sứ  quán, có cả ông Đại sứ  Sec ba cốp, Đại sứ Liên Xô tại Việt Nam.
Hồi ấy không kể văn thơ hay nhạc họa, tất cả các tác giả trúng giải được xếp vào 3 loại:
Loại A, có 3,4 người gì đó, (vì mỗi thể loại được một giải), giải thưởng là một chiêc xe đạp thồ Liên Xô. Chiếc xe đạp này khung bằng sắt, gióng to, rất thô và nặng, vì vậy mới gọi là “xe trâu”. Cỡ vành 680 hay 700 gì đấy nên rất cao (xe đạp Thống nhất của ta cỡ vành là 650), giá khoảng 300 đ, (giá vàng khoảng 70, 80 đ/chỉ, nhớ không chính xác lắm).  Đối với thời điểm đó thì đây cũng là một tài sản có giá trị.
Tôi được giải loại B (có 4,5 người đồng hạng), giải  thưởng là một chiếc đồng hồ đeo tay  Ra ket ta giá trị khoảng 50 – 60 đ gì đó (lương kỹ sư khởi điểm của tôi là 63 đ). Tác phẩm dự thi của tôi là một bài thơ có tên là Tôi đã gặp Lê nin, ca ngợi sự  nghiệp của Lê nin. Bài thơ này được nghệ sĩ ngâm thơ Trần Thị Tuyết (Đài Tiếng nói Việt Nam) trình bày, sau đó có một phiên dịch người Nga dịch ra tiếng Nga. Còn sau này có được người Nga in lại trên các sách báo của họ hay không thì tôi không được biết.
Loại C, rất đông, giải thưởng là một bộ đĩa hát , cũng có thể là đồng hồ để bàn hay bút máy, tùy theo tác phẩm dự thi (đại khái giá trị vật chất chỉ khoảng 15 – 20đ). Ví dụ như Nhạc sĩ Hoàng Đạm, dự thi một ca khúc về Lê nin và được giải thưởng là một bộ đĩa hát. Sở dĩ nhớ trường hợp của Nhạc sĩ Hoàng Đạm vì hồi ấy ông đã nổi tiếng với ca khúc Thanh Hóa anh hùng, được phát trên đài luôn. Nhạc sĩ Hoàng Đạm lại là người duy nhất trong số những người được giải diện đủ bộ com lê ca vát đến nhận giải.
Tất cả các giải thưởng loại  B và C đều không thấy có giấy chứng nhận được giải . Riêng loại A cần phải có vì chiếc xe đạp phải đến cơ quan công an đăng ký xin biển số mới sử dụng được (như đăng ký xe máy bây giờ). Mà muốn đăng ký được ở cơ quan công an thì phải có giấy tờ, hồ sơ gốc.
Bây giờ nghĩ lại thấy giải thưởng thật buồn cười.  Nhưng hồi ấy những người được tặng cũng lấy làm hãnh diện  lắm, đi đâu cũng được bạn bè, người quen bắt tay chúc mừng và đòi “khao”.
Các tác phẩm thơ và ca khúc đoạt giải được chọn để trình bày tại chỗ. Các tác phẩm tranh tượng thì trưng bày xung quanh tường và trên lối đi. Truyện ngắn và kịch bản thì chỉ được đọc tên, chứ không có thời gian trình bày. Lễ phát thưởng và trình bày tác phẩm diễn ra khoảng 3 giờ từ 19h đến hơn 22h. Tất nhiên, nhà văn Phùng Quán phải chở người em vợ đến nhận giải hộ, còn bản thân mình thì phải đứng ngoài vỉa hè chờ suốt hơn ba gio dong ho cha trach ong sot ruot la phai.
Chuyện xẩy ra đến nay đã ngoài 40 năm, còn nhớ được gì thì ghi lại đây làm tư liệu. Chỉ tiếc rằng ngày ấy không biết có Nhà văn Phùng Quán cũng dự thi. Càng thương  cuộc đời Phùng Quán, viết văn mà không được lấy tên mình, lại phải nhờ người này người khác đứng tên. Thật đáng buồn cho một thời !
*

 

 

 

 



ĐỌC “NHÂN THẾ TÌNH TANG” CỦA MAI HỒNG NIÊN

Nhà thơ Mai Hồng Niên là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội. Anh và tôi vốn cùng quê huyện Can Lộc, Hà Tĩnh. Nay do tách một số xã để  lập huyện mới mà xã Tân Lộc quê anh sáp nhập với một số xã khác thành huyện mới Lộc Hà. Thế nhưng, với Mai Hồng Niên, vẫn chỉ  có Can Lộc . Các tập thơ  của anh đều ghi quê quán là Tân Lộc, Can Lộc, mặc dầu huyện Lộc Hà được thành lập từ 2007, đến nay đã được 6 năm. Bởi theo anh, Lộc Hà chẳng qua là do con cháu một ông quan to muốn được giữ chức Phó Chủ tịch huyện nên mới đẻ ra huyện mới Lộc Hà, gây ra biết bao khốn khổ phiền lụy cho người dân.
Là đồng hương, thỉnh thoảng  họp mặt đầu năm, tôi vẫn thường gặp anh. Tại các buổi họp mặt đó, anh hay lên đọc thơ. Thế nhưng tôi vẫn chưa bao giờ chủ động bắt chuyện làm quen. Không phải tôi rụt rè gì, mà chỉ vì tôi không muốn đường đột, thấy người có tên có tuổi thì lân la làm quen.
Hôm Hội Nhà văn tổ chức tọa đàm về cuốn tiểu thuyết Dòng sông mang lửa của Hồ Sỹ Hậu (29.3.2013), tôi đến nơi thì anh đã ở đó rồi. Hồ Sỹ Hậu chỉ vào một người có mái tóc bạc phiêu bồng lãng tử mà hỏi tôi: “Có biết ai đây không?”. Tôi trả lời ngay: “Nhà thơ Mai Hồng Niên, đồng hương với tôi đấy”. Thế là bắt tay. Thế là làm quen. Tôi bảo: Tôi rất thích thơ anh (tôi nói tên một số bài thơ anh mới sáng tác gần đây), tôi thường vào các trang mạng của các nhà văn, nhà thơ tìm đọc thơ anh. Sẵn  có tập thơ “Nhân thế tình tang” mới xuất bản, anh rút ra đề tặng tôi. Đấy là lần đầu tiên Mai Hồng Niên tặng thơ tôi, mặc dầu thơ anh tôi đã đọc từ lâu rồi.
Về nhà, tôi mang tập thơ cho một ông bạn mượn đọc. Ông bạn mới đọc được mấy bài đã vội lên ngay hiệu sách Tràng Tiền tìm mua. Mấy ông bạn láng giềng ở Khu A tiện thể cũng nhờ mua hộ. Khu A là khu tập thể của Văn phòng Chính phủ. Các ông bạn ở đây, trước kia đã từng là những quan chức làm ở cục nọ, vụ kia trong Văn phòng Chính phủ, thậm chí có người khi đương chức còn làm trợ lý, thư ký cho những nhân vật đặc biệt, đi nước ngoài như đi chợ. Các ông gần Thượng Giới  hơn chúng ta nhiều. Ấy vậy mà các ông rất thích chuyền tay nhau đọc thơ Mai Hồng Niên. Thỉnh thoảng có những lúc ngồi với nhau uống nước chè, đàm đạo với nhau về văn chương thơ phú, lại lấy thơ Mai Hồng Niên ra đọc và bình. Một vị Giáo sư,  nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo trước đây thì bảo: “Thơ thế mới là thơ chứ. Sự kiện gì cũng thành thơ  mà lại rất sâu sắc, rất hay. Thật là uyên bác”. Mà đúng thế thật. Những chuyện thời sự như  Vinashin, Vinalines, sập cầu Cần Thơ, Dương Chí Dũng bỏ trốn, “Bầu” Kiên bị bắt,  Đoàn Văn Vươn  bảo vệ đất đai, đám cưới phô trương khoe của của Thị Liễu… anh đều có thơ, mà thơ hay, sâu sắc , góc cạnh.
Thơ Mai Hồng Niên là tiếng nói dân dã, nặng lòng với cuộc đời, đau đáu với thân phận con người. Đọc thơ anh cả những thế hệ mai sau đều có thể biết được bức tranh hiện thực của xã hội ngày hôm nay. Thơ Mai Hồng Niên đã phản ánh sâu sắc, nhạy bén, thẳng thắn, kịp thời bức tranh hiện thực, những sự kiện đặc biệt của xã hôi. Mai Hồng Niên chia sẻ sâu sắc mọi góc cạnh của đời sống xã hội, mọi số phận của con người trong cuộc mưu sinh, cảnh báo cho người đời suy ngẫm về nhân tình thế sự, với lời thơ mộc mạc chân quê mà thấm đậm tình người. Anh là người thành công nhất về mảng thơ nhân tình thế sự. Mai Hồng Niên xứng đáng được gọi là Thư ký của thời đại (Trích nhận định của một số Nhà phê bình văn học về thơ Mai Hồng Niên, chỉ lấy ý  không trích dẫn nguyên văn). Mai Hồng Niên đặc biệt thành công khi lên án những kẻ “công bộc” của dân nhưng tham ô, tham nhũng, thoái hóa , biến chất, những hiện tượng mua quan, bán chức (ngày nay gọi là hiện tượng chạy chức, chạy quyền, một hiện tượng phổ biến ), những tiêu cực, thối nát  trong chốn quan trường. Người ta dùng đủ mọi thủ đoạn, không kể gì phẩm giá con người , miễn là đạt được mục đích cuối cùng, ví dụ  như  chuyện một ông quan đầu tỉnh ở một địa phương nọ, trước khi về hưu muốn truyền ngôi cho con, nhưng người con trai đã trót lỡ tằng tịu với một người con gái để lỡ mang bầu. Ông quan sắp về hưu không ngần ngại “hi sinh thân mình để cứu con” bằng cách nhận ngay cái thai ấy là của mình, để ông con được “sạch sẽ” kế thế vào quyền cao chức trọng. Hay như chuyện một ông cán bộ “cốp”, vợ mới chết chưa đầy năm đã vội lấy vợ mơí mà cô vợ này lại là người tình của con trai mình:
Vợ cũ chết mấy tuần trăng
Mới nghỉ hưu đã hung hăng máu rừng
Con nuôi thành vợ dễ không
Hai đời vợ, bốn lần chồng gặp nhau…
Rồi thì chuyện một ông cán bộ muốn lên chức đã không ngần ngại  Tặng vợ để “làm quà cho sếp” . Trước những câu chuyện thương luân bại lý như vậy trong chốn quan trường, MHN đã phải thốt lên:
Tướng công Uy Viễn về đây
Cũng xin bái tạ thời này kiếp quan.
Những chuyện như thế thật hi hữu xưa nay, nhưng vải thưa làm sao mà che được mắt thiên hạ, dưới ngòi bút Mai Hồng Niên đã hiện lên như có đèn flat rọi vào những ngóc ngách bẩn thỉu của chốn quan trường.  Nhà thơ cảnh báo: nếu anh không giữ được phẩm chất làm người (chứ chưa nói đến phẩm chất người lãnh đạo) thì:  “Với nhân dân, một lũ thằng cả thôi” .
Mai sau có thể nhiều bài thơ, nhiều tập thơ nhạt nhạt nhòa nhòa của các nhà thơ,  trong đó có cả những nhà thơ (được coi là) lớn, sẽ bị  đào thải bởi thời gian, sẽ bị người đời quên lãng. Nhưng tôi tin rằng, những bài thơ gai góc , sắc cạnh của Mai Hồng Niên sẽ còn sống mãi trong lòng bạn đọc, chính ở mảng đề tài này! Những bài thơ như  Chuyện tình Ông Tổng Cóc, Món quà tặng Sếp, Thuyền quyên ứ hự chưa già… sẽ còn sống mãi với thời gian như chuyện cổ tích, như thơ Hồ Xuân Hương (1).
Sau đây xin giới thiệu một số bài thơ của Mai Hồng Niên, rút từ tập “Nhân thế tình tang” (Nxb Hội nhà văn, 2012) mà anh vừa tặng tôi.

*

 



VỚI MAI HỒNG NIÊN VÀ “QUÊ MÌNH XỨ NGHỆ”

Tôi biết Mai Hồng Niên (MHN) đã lâu, đọc thơ anh cũng đã nhiều. Tôi cũng đã từng chọn đăng thơ anh trên trang mạng của mình từ mấy năm  trước (Bài Tâm tình của người xứ Nghệ qua những bài thơ hay, lên mạng tháng 3 – 2011). Ấy thế nhưng, thực sự làm quen với anh thì chỉ mới gần đây thôi. Đấy là vào hôm cả hai cùng đến dự buổi Tọa đàm giới thiệu cuốn tiểu thuyết “Dòng sông mang lửa” của Hồ Sỹ Hậu tại trụ sở Nhà xuất bản Hội nhà văn. Chuyện đó tôi đã kể lại trong bài “Đọc Nhân thế tình tang của Mai Hồng Niên”, ở đây không nhắc lại nữa.
Ngay lần gặp nhau ấy, tôi cũng không ghi lại số điện thoại của anh (một việc rất đơn giản), để liên lạc về sau. Anh cũng vậy. Bỗng gần đây, anh bất ngờ gọi điện cho tôi: “Tôi phải hỏi Hồ Sỹ Hậu mới có số điện thoại của anh. Xin báo để anh biết, tôi vừa in một cuốn sách tập hợp những bài viết phê bình , giới thiệu thơ tôi, trong đó có chọn bài của anh. Hôm nào sách in xong, tôi sẽ mang đến tặng anh
Cú điện thoại của MHN làm tôi bất ngờ và thú vị. Số là, bài giới thiệu của tôi về tập thơ “Nhân thế tình tang” của anh, tôi viết chỉ để đăng lên trang mạng của mình, không gửi cho báo nào, cũng không đăng ở trang mạng nào khác cả. Mà bài này tôi cũng viết sơ lược, mang tính chất như một lời dẫn, lời mở đầu, cốt để đăng mấy bài thơ của anh mà tôi tâm đắc (tôi đã chọn đăng đến 9 bài trong tập thơ này). Tôi không ngờ anh đã vào trang mạng của tôi, đọc và sau đó lại chọn in vào sách của anh. Không bất ngờ và thú vị sao được!
Chừng nửa tháng sau, MHN lại điện thoại cho tôi, báo tin anh đã in xong sách. Anh muốn mang đến tặng tôi nhưng lại đang ốm, không đi được. Tôi bảo, để tôi đến anh, nhân tiện thăm “cơ ngơi” của anh ở Hàng Buồm, nơi anh đã “thai nghén” ra những bài thơ hay mà anh thường đề dưới bài thơ, kèm theo năm tháng.
Đến 53 Hàng Buồm, tôi rất bất ngờ vì đây là một ngôi nhà mặt phố, chứ không phải ngõ ngách gì cả. Chợt nghĩ: MHN có nhà ở mặt phố, một con phố cổ sầm uất nhất nhì Hà Nội, mà mỗi mét vuông có giá đến tiền tỷ (1), sao anh tài quá vậy? Đứng trước nhà, gọi điện cho anh ra đón. Phải mất một lúc lâu lâu mới thấy anh xuất hiện ở cửa. Anh bảo gửi xe ở bà hàng nước vỉa hè phía đối diện rồi dẫn tôi vào. Và đây lại là điều bất ngờ thứ 2 của tôi. Để tới nhà anh, phải đi qua một cái ngõ dài  hàng trăm mét, sâu hun hút. Ngõ ở trong nhà, tức đi qua nhà để vào ngõ. Đây lại là điều mà tôi không ngờ tới. Phải tới mấy chục hộ cùng chung một số nhà này. Đến cuối ngõ thì có cầu thang dẫn lên tầng 2. Thì ra đây lại là một chung cư 2 tầng, với mấy chục hộ sinh sống. Nhà của MHN là một căn phòng ở tầng 2. Nhà báo Vũ Lương, người bạn lâu năm của MHN đã tả về ngôi nhà này: “Đã 40 năm có lẻ, anh “bám trụ kiên cường”, như một chứng nhân cho sự tồn tại đến thê lương của những người dân được sống trong Phố Cổ. Hàng Buồm… như bao con phố nhỏ khác, sầm uất bề ngoài nhưng mấy ai biết đằng sau nó bao trăm, bao ngàn cư dân đã từng sống và đang sống chen chúc nhau hít thở loại khí trời đặc quánh hơi người và mùi của trăm thứ bà rằn, còn trong các phòng tối om người ta chỉ còn cách nhờ cậy vào mấy chiếc bóng điện thay cho ánh mặt trời…Vậy mà anh đã ở đây, chấp nhận tất thảy để sống, để làm việc, để viết nên nhiều dòng thơ , nhiều bài thơ thấm đẫm hơi thở cuộc sống, mênh mang tình đất tình người…”  Nhà ở phố cổ của MHN là như vậy .
MHN lấy ra cỡ một chục cuốn “Trên chiếu văn , anh Văn Cao nói về thơ MHN” để tặng tôi. Đây là tập sách anh vừa mới in, tập hợp những bài phê bình, giới thiệu thơ của anh, trong đó có bài của tôi . Hình như anh có ý giả “nhuận bút” (bằng sách) cho tôi hay sao ấy. Tôi bảo: “Tôi không cần nhiều đến thế đâu, chỉ cần 2 cuốn, một cho tôi, một cho cô bạn, thế là đủ. Nếu anh còn cuốn “Quê mình xứ Nghệ” thì cho tôi một cuốn, nếu không còn thì thôi”. Anh lấy ra một cuốn rồi đề tặng tôi. Một tập thơ dày, đóng bìa cứng rất trang trọng. Có một điều đặc biệt mà khi anh ghi xong lời đề tặng, tôi mới để ý tới. Đó là, lần trước anh tặng thơ tôi là ngày 29-3, còn lần này lại đúng vào ngày 29-9. Trong vũ trụ bao la, trái đất vừa bay đúng một nửa vòng quay, quanh mặt trời! Lại một điều lý thú, mà trước khi đến nhà anh, tôi đâu có để ý gì đến ngày với tháng…
*
Tôi cầm tập thơ Quê mình xứ nghệ (QMXN) mà cảm thấy nằng nặng trên tay. Nặng về trọng lượng, tập thơ dày dặn đến 300 trang in. Nhưng còn nặng hơn nữa, sức nặng của suy tư, tình cảm mà anh dồn nén trong thơ. Như tên của nó, tập thơ viết về xứ Nghệ, dành cho người Nghệ, dành cho những người yêu xứ Nghệ trên đất nước này mà anh góp nhặt trên 30 năm làm thơ (tính theo năm tháng anh ghi dưới mỗi bài thơ)
MHN có một bài thơ viết cho bạn nhưng tôi nghĩ cũng là viết cho anh, viết về tuổi thơ của anh:
Tuổi thơ lớn lên giữa núi biếc, non xanh
Cây đa đầu làng, mái đình cuối xóm
Cánh vạc, con cò chập chờn trong tưởng tượng
Mùa lúa, vụ khoai rơm rạ mái tranh nghèo.
Đó là một miền quê nghèo, thiên nhiên khắc nghiệt. Ai đã từng ở xứ Nghệ, không thể không ám ảnh về những trận gió Lào. MHN viết nhiều về gió Lào, gió Lào như một nỗi ám ảnh trong thơ anh: “ Năm tháng tuổi thơ là gió Lào bụi đỏ” , rồi thì: “Cây lưa thưa lá, cháy cong gió Lào” , và “Gió Lào nhuộm chín màu da”. Từ miền quê này anh lớn lên , trưởng thành cầm súng đánh giặc rồi về công tác ở Hà Nội . Sống phần lớn thời gian ở Hà Nội nhưng anh không nguôi nhớ về miền quê nghèo.
Cái nghèo do thiên nhiên khắc nghiệt, đã đành. Lại còn cái nghèo do chủ trương đường lối của một thời. Đã có một thời người ta quá nóng vội, chủ quan duy ý chí, cứ tưởng rằng, chỉ cần có tinh thần cao là có thể nhảy vọt một cái lên thiên đường chủ nghĩa cộng sản, là thế giới đại đồng, không biên giới quốc gia, không quân đội, không nhà tù, là “làm theo sức lực, hưởng theo nhu cầu”… Nghĩa là chỉ cần có tinh thần phấn đấu quyết tâm thôi là đủ. Quê hương Bác, quê xứ Nghệ thì tinh thần cách mạng lại càng triệt để. Có thể đoan chắc rằng, những câu khẩu hiệu này chỉ xuất hiện/hay chỉ có ở xứ Nghệ: “ Thay trời, đổi đất, sắp xếp lại giang sơn” và “Mo cơm quả cà với tấm lòng cộng sản, chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội”… Chính những câu khẩu hiệu đó đã làm khổ người dân cả một thời. Đang yên đang lành, người ta bắt bỏ cả nhà cửa, vườn tược đã có từ đời ông, đời cha, để rồi lên núi khai hoang, lập làng mới, còn làng cũ thì biến thành đồng ruộng (!) Để “sắp xếp  lại giang sơn” mà lại. Thế mới có cảnh trái khoáy đối với nhà nông: “Đưa dân lên núi thâm canh mùa vàng”. Có “Phải đâu dân Nghệ ưa nghèo” nhưng mà   “Mấy mươi năm vẫn dăn deo quả cà” là vì những lý do trời ơi như thế. Quan càng hăng hái, mạnh dạn, triệt để thì quan càng leo cao, vào Trung ương, chỉ khổ dân đen phải chịu biết bao nhiêu hậu quả. “Mo cơm nếp” ngày xưa, trong kháng chiến chống Pháp (hình ảnh quen thuộc trong thơ Trần Hữu Thung), bây giờ bỗng trở thành “cổ tích” vì chỉ còn trong hoài niệm, cơm nếp trở thành món xa xỉ, làm gì có  mà ăn. Người nghèo đi tha phương cầu thực. Sang trọng như nhà giáo thì phải một buổi đứng lớp, một buổi về chạy xe ôm. Nhưng không có xe máy để làm phương tiện xe ôm mà phải dùng xe đạp, xe đạp ôm, tức là phải bán sức lao động, thời ấy gọi là xe đạp lai: “Sáng giảng bài, chiều đi xe đạp lai”, chở thuê lấy tiền  mà MHN mỉa mai chua chát gọi là “nhuận sức” : “Không có tài viết văn làm thơ/ Đạp xe lai nửa ngày, cứ gọi là nhuận sức”. Càng xây dựng, càng tiến lên chủ nghĩa xã hội thì cuộc sống càng đói khổ, đói khổ đến bệ rạc. Nền kinh tế sa sút đến mức, người ta đặt mục tiêu phấn đấu sao cho “năm nay cố gắng bằng năm ngoái, năm sau cố gắng bằng năm nay” :
Hòa bình rồi đâu còn nữa chiến tranh
Những năm tháng trước đây làm gì đến thế
Hạt gạo thành hạt vàng để con người nhỏ bé
Sống với nhau như chim sẻ lạc đàn.
Rồi thì chuyện nhập tỉnh chia tỉnh. Sau ngày thống nhất nước nhà, để tiến lên làm ăn lớn Xã hội chủ nghĩa, người ta đem sáp nhập 2, 3 tỉnh làm một tỉnh lớn, để có tiềm năng  phát triển độc lập về kinh tế. Những Hà Sơn Bình, Hà Nam Ninh, Hoàng Liên Sơn…ở miền Bắc, miền Trung thì Bình Trị Thiên, Nghĩa Bình, Phú Khánh, Thuận Hải…, trong Nam thì Đồng Nai, Sông Bé, Hậu Giang, Cửu Long, Minh Hải… ra đời trong thời gian này. Đó là một sự “góp gạo thổi cơm chung” mà  ngay từ đầu đã “cơm không lành, canh chẳng ngọt”. Bình Trị Thiên thì vì Thừa Thiên đông người, nhiều cán bộ hơn, lấn át cả Bình và Trị, nên người ta nói Thiên Trị Bình, chứ đâu phải Bình Trị Thiên. Nghệ Tĩnh thì vì Nghệ An lớn hơn Hà Tĩnh nên “Vinh dự” cả. Đấy là dân gian người ta chơi chữ. Tiếng Nghệ Tĩnh nói dấu ngã và dấu nặng không phân biệt, Vinh dự có nghĩa là Vinh (tức Nghệ An) giữ hết cả. Suốt 15 năm “góp gạo thổi cơm chung” cả thị xã Hà Tĩnh không xây dựng được một công trình nào. Tất cả đều tập trung vào Vinh hết. Mâu thuẫn giữa các địa phương ngày càng gay gắt. Cho đến cuối thập niên 80 đầu 90 thì tất cả các tỉnh bị “ép duyên” đều đồng loạt xin được “ly hôn”. Chuyện kể rằng, năm đó có một đoàn cán bộ lãnh đạo tỉnh Nghĩa Bình (do Quảng Ngãi và Bình Định sáp nhập lại) kéo ra Trung ương xin tách tỉnh, vì rất nhiều tỉnh đã tách rồi. Ông Phạm Văn Đồng khi ấy không còn ở cương vị Thủ tướng nữa, nhưng ông vẫn là Cố vấn tối cao của Trung ương.  Ông Đồng đã trả lời: “Thì các anh cứ thư thư chờ khi nào tôi chết đã, rồi hãy tách tỉnh. Các anh làm thế ngay bây giờ, đau lòng lắm”. Sở dĩ ông đau lòng vì ông là một trong những nhân vật chủ chốt trong việc quyết định nhập tỉnh trước đây, mà ông lại là người Quảng Ngãi, người ta “nhổ toẹt” vào cái quyết định trước đây, ngay trên quê hương ông, hỏi không đau lòng sao được. Nhưng đau đẻ làm sao chờ được sáng giăng, người ta làm sao chờ được đến lúc ông Đồng chết. Năm 1989 thì Nghĩa Bình tách tỉnh thành hai. Nghệ Tĩnh quê Bác thì có kiên trì hơn, nhưng cũng chỉ chịu đựng được đến năm 1991 thì tách tỉnh. Ngày nhập tỉnh thì vui vẻ, cờ mở trống giong, tưởng như mọi tương lai huy hoàng xán lạn đang chờ phía trước. Nhưng ngày tách tỉnh thì hết sức bẽ bàng:
Có quê hương bỏ quê hương
Mười lăm năm cảnh đoạn trường là đây
Khi đi trống giục cờ bay
Ngày về phố vắng đường lầy cỏ hoang
Mười lăm năm đoạn trường mà MHN nhắc đến đó, không phải là 15 năm lưu lạc đời Kiều mà chính là 15 năm nhập tỉnh (1976- 1991). Đó là cảnh “Tự gây nên thác, nên ghềnh cho nhau” của một thời lạc quan tếu, duy ý chí. Người ta nói, “nhiệt tình cộng với sự ngu dốt thì thành phá hoại”. Không ai phá ta cả mà tự ta phá ta. Đất nước cứ quanh quẩn trong cái xiềng như thế cho mãi đến những năm 1990 mới bắt đầu đổi mới, mở cửa. Một luồng gió lạ ùa vào, mang theo cả những cái tốt lẫn cái xấu, cả hoa thơm nhưng lại cả rác rưởi. Khi đóng thì đóng quá chặt, nhưng khi mở thì lại mở bung ra, như nhà không cửa. Vì thế mới có những cảnh:
Bệnh viện có quầy bán bia,
Khu triển lãm có hàng thịt chó
Rồi lại cảnh:
Vừa nghe tiếng ru của bà
Lại xập xình nhạc ABBA giải buồn.
Không thiếu những cảnh nhố nhăng:
Những cuộc diễu hành đám cưới ở Vinh
Xe máy dàn ngang xoáy cơn lốc mặt phố.
Mở cửa thì đời sống kinh tế có nâng lên, nhưng khoảng cách giàu nghèo lại càng doãng rộng ra. Bắt đầu xuất hiện một tầng lớp “trọc phú học làm sang”, sống vì tiền, sống trên tiền, với những Thị Hến “Làm cơn địa chấn, cưới con bằng vàng”. Rồi thì một tầng lớp quan lại mới giàu lên nhanh chóng một cách bất minh. Đã làm quan thì thời nào cũng có tham nhũng. Nhưng thời bao cấp, tham nhũng ít và nhỏ, có lẽ vì ngày ấy quan lại trong sạch hơn, mà cũng có thể, thời bao cấp cả xã hội nghèo khổ, quốc khố rỗng không, hằng năm lại phải vác  rá đi ăn xin các nước anh em trong phe XHCN (thu nhập bình quân đầu người trong những năm bao cấp khoảng 100 đô la/năm, bây giờ đạt khoảng 1.600 đô la, tức gấp 16 lần!), chẳng có gì để mà tham nhũng. Còn bây giờ thì tham nhũng đã thành quốc nạn. Mà dễ tham nhũng nhất chính là đất đai. Không phải một con sâu nữa mà là một bầy sâu: “Quan là tham, gian giảo với lọc lừa”. Dự án đẻ ra dự án, mà thực chất là:
Bán đất, bán biển, bán làng
Dồn dân vô rú, khai hoang kiếm lời.
Nhà giáo ngày xưa nghèo nhưng thanh cao. Nhà giáo ngày nay thì:
Cổng trường thành chợ bán mua
Điểm cao thấp phải đếm đưa chữ tiền…
MHN sống ở Hà Nội nhưng tấm lòng luôn đau đáu với quê hương. Cái anten đặc biệt của anh luôn hướng tới những sự kiện vui buồn ở quê và  luôn phản ánh kịp thời với những gai góc, góc cạnh của nó. Người ta gọi anh là thư ký của thời đại, đúng thế. Những câu chuyện về một miền quê nhưng cũng là chuyện chung đất nước cả  một thời kỳ lịch sử không hiếm chuyện xót xa, cười ra nước mắt !

Trong câu chuyện thân tình, MHN “khoe” với tôi, có bài thơ của anh được giả nhuận bút đến 100 triệu đồng kia đấy . Tôi nói đùa: Thế thì bằng kỷ lục Màu tím hoa sim của Hữu Loan rồi (bài thơ Màu tím hoa sim của nhà thơ Hữu Loan được một doanh nhân mua bản quyền với giá 100 triệu đồng). Tôi mừng cho anh. Anh là người sống được bằng thơ. Làm thơ, viết văn chẳng ai giàu. Cơm áo không đùa với khách thơ. Sống được bằng nghề là quý lắm rồi. Sống được bằng nghề để không phụ thuộc vào ai, không phải vì cơm áo gạo tiền, không phải uốn ngòi bút vì một lý do nào đó, để làm nhà thơ “Trọng nghĩa khinh tài cốt cách văn chương”, như Nguyễn Công Trứ ngày xưa, “làm cây thông đứng giữa trời mà reo”, không sợ quyền uy, không ngại phơi bày sự thật, dù sự thật có thể đụng chạm đến ai đó và gây rắc rối cho bản thân mình. Viết ra những điều tâm huyết, viết cho mình, viết cho đời, chứ không phải uốn ngòi bút phục vụ một thế lực nào cả. MHN đã làm được điều đó.  “Anh cậy nhờ thơ để nói điều nhân thế”. Và tôi thích thơ anh, tôi quý tác phẩm của anh cũng chính ở điều đó. Bạn đọc chuyền tay nhau đọc thơ anh, phô tô nhân bản thơ anh cũng chính vì điều đó (2).
PDK
Chú thích: (1). Đất phố cổ Hà Nội vùng xung quanh Hồ Gươm có giá 800 – 900 triệu đồng/m2 (thời giá cuối năm 2013)
(2): Bài này sau đó Nhà thơ Mai Hồng Niên đã chọn đăng vào tập thơ “Quê mình xứ Nghệ” (Nxb Hội Nhà văn, in lần thứ 2, Hà Nội , 2014)
*


.


ĐỌC TUỔI THƠ HÀ NỘI NGÀY XƯA TƯỞNG NHỚ NHÀ VĂN LÊ BẦU
Nhà văn Lê Bầu là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên Hội nhà văn Hà Nội. Các tác phẩm chính: Thông reo, Đi thực tập, Dòng sữa trắng, Hoàng hậu Vàng Anh, Những năm tháng trôi qua, Độc hành…Ngoài sáng tác, ông còn là một dịch giả tiếng Trung có uy tín

Tôi quen biết nhà văn Lê Bầu từ dạo ông còn ở số nhà 105 phố Phùng Hưng. Đó là một căn phòng rộng chừng 12 mét vuông, được ngăn đôi bằng cót ép. Ông một nửa, nhà thơ Huyền Tâm tác giả “Lúa tháng năm kén tằm vàng óng” một nửa. Nhà không có buồng tắm cũng chẳng có khu vệ sinh. Ngoài chiếc giường đơn kê sát vách và cái bàn làm việc chất đầy sách báo kê cạnh cửa sổ thì không gian trong nhà chỉ còn đủ để giải một chiếc chiếu đôi. Bạn bè khách khứa đến chơi, ông đều tiếp trên chiếc chiếu đôi này. Nghe nói có lần cơ quan nọ tặng ông một chiếc quạt cây, nhưng nhà chật, để trong nhà thì quạt thốc hết gió ra ngoài, ông phải để ngoài hè phố Phùng Hưng cho thổi thốc vào.Thấy bất tiện quá, một thời gian sau lại phải gửi về quê.
Ít lâu sau, khu nhà 105 Phùng Hưng được nhà nước lấy lại để làm bảo tàng hay di tích cách mạng gì đấy (Nhà 105 nguyên trước đây là Trụ sở báo Tin tức, cơ quan ngôn luận của Đảng thời kỳ trước cách mạng), ông được phân một căn hộ ở tầng 2, khu tập thể phố Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng. Căn hộ rộng đến 50 mét vuông, đối với một hộ độc thân như ông thì quả là rộng. Từ khi ông về khu tập thể phố Thanh Nhàn, tôi hay đến thăm ông hơn. Ông vẫn cứ lọ mọ một mình, nấu một bữa, ăn cả ngày. Tự đi chợ mua lấy rau, dưa, gạo thịt …cho mình. Có một lần tôi hỏi:
– Trước ở Phùng Hưng chật chội đành phải chịu, sao bây giờ nhà rộng thế này mà anh không đón một hai cháu đến đây ở với cho vui, nó phục vụ cơm nước cho?
Ông trả lời:
– Nó phục vụ mình, hay rồi mình lại phải phục vụ lại nó. Rách việc lắm. Tôi quen sống một mình từ xưa rồi, tự mình phục vụ lấy mình thôi.
Biết rằng, mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh, chẳng ai giống ai, tôi không hỏi gì thêm.
Nhà văn Lê Bầu là người của công việc. Lần nào đến chơi, tôi cũng thấy ông ngồi bên chiếc máy chữ cổ lỗ. Sau này, khi về KTT Thanh Nhàn ông được bạn bè tặng cho một chiếc máy vi tính, ông bắt đầu làm quen với vi tính, nhưng máy cũng trục trặc hỏng hóc luôn. Dù rất bận công việc, nhưng mỗi khi có bạn bè đến chơi, ông đều xếp công việc lại, “làm chén nước đã” . Bao nhiêu lần đến chơi, tôi đều thấy ông tỷ mẩn súc rửa ấm chén rồi pha lượt trà mới, chứ chưa bao giờ thấy ông đổ thêm nước vào ấm chè uống dở bao giờ. Ông có thói quen uống trà đặc, pha trong chiếc ấm da lươn bé tí, còn chén thì bằng cỡ “hạt mít” . Cứ thế, anh em ngồi đối ẩm hàng tiếng đồng hồ. Ông thường bảo, cứ thong thả, công việc thì hàng ngày, lúc nào mà chẳng được. Ông có giọng nói sôi nổi, trẻ trung như của tuổi thanh niên, với cái cười rất sảng khoái . Có một lần, tôi đang ngồi đối ẩm với ông thì có chuông điện thoại. Ông xin lỗi, rồi bắt máy, trả lời. Chỉ thấy ông thoải mái “Không sao, không sao!”, chả hiểu chuyện gì. Nói chuyện xong, ông mới nói lại với tôi. Chả là, có một tờ báo trong Nam đăng một bài viết của ông. Họ muốn đăng ảnh ông kèm với vài dòng “Lý lịch trích ngang”, mới hỏi ông về năm sinh. Ông nói ông sinh năm 1930, nghe xong cô biên tập viên, là một nhà báo trẻ mới ồ lên sửng sốt: Thế thì bác ngang tuổi ông nội cháu, thế mà cháu không biết lại gọi bằng anh. Cháu xin lỗi bác nhé. Cái câu “Không sao, không sao” là ông trả lời cho lời xin lỗi này. Ngồi nói chuyện với nhà văn Lê Bầu, ai cũng lây cái thoải mái, vui vẻ, cởi mở, sảng khoái của ông. Cứ tưởng chừng như mọi khó khăn, rắc rối, phức tạp trong cuộc sống đời thường không mảy may ảnh hưởng đến ông.
Một lần, chúng tôi được Tòa soạn một tờ Tạp chí bố trí cho đi du lịch Sa Pa, Lào Cai rồi sang Hà Khẩu (Trung Quốc). Chúng tôi đi chơi là chính. Riêng tôi mua được một chiếc đài Tàu, to bằng cái bật lửa ga, dùng pin, giá đâu 10 tệ (Khoảng 20 ngàn tiền Việt), về cắm vào tai nghe được mấy ngày thì vất. Các anh giỏi tiếng Trung như Lê Bầu, Dương Danh Di, Nguyễn Hải Hoành, Thái Hư thì đi lùng mua sách. Lê Bầu cõng về một ba lô đầy sách, mua hết đâu 600 tệ (khoảng một triệu hai trăm ngàn đồng tiền Việt, một khoản tiền lớn lúc ấy). Ông bảo đây là lương khô, dùng để “bán ăn dần”. Tất nhiên, không phải là về đem sách ra chợ trời bán, mà là đem về đọc, tìm nhặt trong đó những truyện ngắn hay, những bài viết lý thú thì dịch gửi cho các báo, tạp chí mà ông cộng tác. Văn hóa văn nghệ thì không bao giờ cũ. Với số sách đó, ông có thể để dành, dịch trong hàng chục năm. “Bán ăn dần” là như thế (trong bài Thay lời giới thiệu của nhà văn Bùi Ngọc Tấn viết cho cuốn Tuổi thơ Hà Nội ngày xưa, Bùi Ngọc Tấn có nhắc đến một chuyến đi Trung Quốc của Lê Bầu, thì chính là chuyến đi này).
Cuộc đời Lê Bầu có nhiều long đong, trắc trở. Bạn bè của ông “cùng một kiếp bên trời lận đận”, những Lê Mạc Lân, Hứa Văn Định, Nguyên Bình, Vũ Bão, Bùi Ngọc Tấn, Dương Tường, Châu Diên… một lớp nhà văn, nhà báo tài hoa, nhưng chẳng ai được suôn sẻ. Thậm chí có người như Bùi Ngọc Tấn còn bị ngồi tù đến năm năm trời, tù không án, bản thân người trong cuộc cũng chẳng biết vì tội tình gì mà bị tù giam cả. Có người phải bán máu để duy trì cuốc sống như Mạc Lân, Dương Tường (bán máu theo đúng nghĩa đen của từ này). Lê Bầu thì có lần bị người ta bí mật khám xét chỗ ở (lúc ông tá túc ở đền Ngọc Sơn), vì tình nghi ông dính líu chính trị chính em gì đấy. Ở một đất nước mà nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, ở đâu cũng có thế lực thù địch thì những nhà văn, nhà báo không chịu nịnh hót, quỵ lụy cấp trên, những người dám nói thẳng, nói thật như các ông, thường bị vu khống, chụp mũ này nọ là điều không tránh khỏi. Trong những chuyến đi tập thể, những lúc rảnh rỗi, trà dư (chứ không có “tửu hậu”) Lê Bầu thường kể chuyện mình, chuyện bạn, những câu chuyện về nhân tình thế thái, lắm khi cười ra nước mắt. Chúng tôi thường khuyên ông: Cuộc đời anh có nhiều câu chuyện lý thú lắm, ý nghĩa lắm, anh phải viết Hồi ký đi. Ông bảo, mình cũng có ý định đó. Đang chuẩn bị. Chúng tôi hồi hộp chờ đợi. Hồi ký của Lê Bầu, đọc sẽ thú vị lắm đây.
Chờ mãi mà không thấy Hồi ký Lê Bầu trình làng. Không phải ông lười viết mà vì ông quá bận. Bận dịch sách, viết báo trang trải cho cuộc sống hàng ngày. Ông nặng gánh lắm. Bạn bè thân thiết ví ông như một cái đầu tàu, ì ạch kéo đến 11 toa tàu. Tôi là thế hệ sau, nên không dám hỏi ông những điều có tính chất tò mò đời tư ấy. Nhưng chỉ biết rằng, ông làm việc, viết lách là để đảm bảo cuộc sống, cho sự tồn tại của 11 con người, gồm vợ con ông và các cháu nội ngoại, hiện đang sinh sống ở vùng quê ven thị xã Bắc Giang. Ông làm cật lực, làm không kể giờ giấc, vì 11 con người ấy. Viết hồi ký đối với ông như là chơi bời, khi nào rảnh mới làm. Thế rồi ông bất ngờ bị bạo bệnh (bệnh ung thư máu) không kịp hoàn thành hồi ký. Cuốn Hồi ký cuộc đời của ông, mới chỉ viết được phần đầu. Đó là phần viết về tuổi thơ ấu của ông, có nhan đề là “Dân dưới bãi” mà năm năm sau khi Lê Bầu mất, Nhà xuất bản Kim Đồng in ấn mới đặt tên là “Tuổi thơ Hà Nội ngày xưa”.(1)

*
Tuổi thơ Hà Nội ngày xưa” đưa ta về những năm 30 của thế kỷ trước. Lúc bấy giờ bãi Phúc Xá hãy còn là một mảnh đất hoang vu không người sinh sống. Bọn “đế quốc phong kiến độc ác” đã đem đất ấy “phân lô” rồi biếu không cho những bố cu, mẹ đĩ, những người dân phiêu bạt tứ tán từ các miền quê đói khát về Hà Nội lang thang, tá túc trên các vỉa hè, ngõ hẻm , mỗi người được một suất đất như thế mà không hề phải nộp một đồng một cắc nào. Nếu viết lịch sử về phường Phúc Xá thì họ chính lớp cư dân đầu tiên đến sinh sống ở đây. Gia đình Lê Bầu cũng được một lô đất như thế. Lô đất đủ rộng để gia đình ông dựng ba gian nhà, một gian để ở, còn lại hai gian cho hai gia đình thuê.
Vì là nơi gom góp tập hợp những người tứ tán, vô gia cư nên ở đây ai nấy đều nghèo, phải làm đủ các nghề nặng nhọc để kiếm sống. Người lớn bận làm việc cả ngày, trẻ con không có ai quản lý, chơi bời lêu lổng. Ngoan có, hư có. Cuộc sống các em lớn lên như cây hoang phát triển tự nhiên,không người uốn nắn. Đã là trẻ con thì phải có các trò chơi. Đó là các trò chơi dân dã mang từ các miền quê lên như đánh đáo, trốn tìm, đánh khăng, chơi bi… Trò chơi lành mạnh có, trò chơi xấu cũng có. Trò chơi lành mạnh như trò “nhảy cừu”, thực chất là “chơi mà học, học mà chơi”, một cách sinh động để ôn tập, để ghi nhớ các từ tiếng Pháp, có lẽ là trò chơi mới được du nhập từ ngoài vào. Trò chơi xấu như trò “dán đuôi” vào sau lưng người đi đường. Thực ra thì cũng là chơi cho vui thôi, chứ cũng chẳng hại ai.
Bên cạnh những trang kể về cuộc sống, trò chơi của thiếu nhi hết sức sinh động, Tuổi thơ Hà Nội ngày xưa còn kể về cuộc sống thiếu thốn khổ cực của những người lao động nghèo khổ dưới đáy xã hội. Đó là những người buôn thúng bán bưng, nhưng anh cu ly bat tê (khuân vác) ở các bến xe, những những người bán hàng rong. Có những người thật thà, làm ăn chân chất như vợ chồng Bính Kem nhưng cũng không thiếu những kẻ lưu manh, đầu gấu như Tí Bủng. Có những kẻ chuyên sống bằng lừa đảo như chị em Bính Lớn, Bính Con. Chúng ta lấy làm thú vị rằng, những trò lừa đảo như một người đi trước giả vờ đánh rơi ví rồi người đi sau nhặt được ngay trước mặt “con mồi” để bày trò chia chác. Hay trò “sản xuất” mật gấu giả bằng mật lợn trộn với xà phòng… rất thịnh hành trong thời gian gần đây thì ra đã có từ hàng thế kỷ trước, đã “xưa như trái đất”. Bên cạnh những cuộc đời lừa lọc, xấu xa đó lại nổi lên những tấm lòng chân chất, những con người lương thiện. Như bà Cau bán nước . Bà luôn luôn dặn cậu bé Bầu: “Đứng xa chúng nó ra. Hỏng việc của chúng nó, chúng nó đánh chết” Chúng nó ở đây là chị em Bính Lớn, Bính Con chuyên sống lừa lọc. Qua lời dặn của bà Cau, ta còn thấy được nỗi lo lắng của bà, không chỉ sợ “hỏng việc của chúng nó, chúng nó đánh chết” mà bà còn lo một mối lo sâu xa hơn: Lo cậu bé Bầu đi theo sẽ có nguy cơ tiêm nhiễm phải lối sống gian manh lừa lọc của bọn xấu.Hay như ông Cấn, hàng ngày cục cằn gắt gỏng nhưng lại rất quan tâm đến cậu bé Bầu. Hôm cậu bé đi thi, ông còn đón đường cho cậu tiền ăn quà và còn động viên :Cố gắng thi cho đỗ. Mà một cậu bé hàng xóm thì đỗ hay không thì có liên quan gì tới ông. Còn cô Bính Kem thì rất sòng phẳng, mỗi ngày trả cậu bé Bầu môt chinh để được uống một bát nước tiểu để … chữa bệnh.
Lê Bầu lớn lên trong một xã hội như thế. Ông bố Lê Bầu là một người lao động nghèo khổ, dưới đáy xã hội . Ban đầu ông làm cu li bát tê, tức là mang vác, sắp xếp hành lý cho các hành khách đi xe ô tô ở bến tàu, bến xe. Nhưng ông là người có chí phấn đấu vươn lên, không cam chịu số phận. Từ cu li bát tê, ông chuyển sang chung vốn buôn bè. Thất bại. Ông lại chung vốn mở một cửa hàng xay bột làm bánh. Chí hướng của ông là làm sao cho vợ con được mát mày, mát mặt. Đối với con cái, ông cũng là người nghiêm khắc. Ông luôn dạy con:” Nhà mình nghèo thì nghèo thật , nhưng cấm không được xin xỏ bất cứ ai tiền nong quà cáp, cấm không được thấy người ta ăn mà đứng chầu mồm. Cho cũng không được lấy.” Đó chính là triết lý sống của người xưa, “Đói cho sạch rách cho thơm” mà ông truyền cho con trai một cách rất cụ thể, của một người không được học hành. Tuy không có thời gian kèm cặp con, nhưng ông đã cho con trai theo học đến nơi đến chốn với quan niệm lúc bấy giờ là “không có chữ thì khổ lắm.” Cho đến những năm 40 của thế kỷ trước, ông đã có một cửa hàng làm bánh ở Bắc Giang, lại mở thêm một cửa hàng (tạm gọi là chi nhánh) ở Lạng Sơn nữa. Như vậy cũng tạm gọi là có bát ăn, bát để. Rồi gia đình ông dọn lên Bắc Giang, cậu bé Lê Bầu xa bãi Phúc Xá từ đấy.
Có một điều thú vị đối với tôi là 30 năm sau, vào những năm 70 của thế kỷ trước, tôi lại được sống ở bãi Phúc Xá trong khoảng thời gian 7,8 năm trời. Lúc bấy giờ bãi Phúc Xá đã đông vui, tấp nập lắm rồi. Có nhiều cơ quan, trường học, khu tập thể ở đấy. Tôi nhớ, nhà văn Nguyễn Khải cũng ở khu tập thể ngoài bãi Phúc Xá, gọi là khu tập thể K95 của quân đội. Tôi cũng đã được chứng kiến cảnh lụt lội hàng năm ở Phúc Xá. Đặc biệt trận lụt thế kỷ vào năm 1971 nhà ngập đến mái, phải khoét lỗ trên mái để chui ra, chui vào. Những năm ấy, hồ Phúc Xá vẫn còn. Đường từ bãi Phúc Xá vào phố hay từ phố ra bãi, vẫn chỉ có hai con đường, một ở đầu bãi là đường Tân Ấp, một ở cuối bãi là từ dốc Bến Nứa đi xuống, không có tên (nay là ngõ 187 đường Hồng Hà). Giữa hai con đường ấy chính là hồ Phúc Xá. Dân từ bãi lên phố hay từ phố xuống bãi có thể đi theo hai con đường trên, cũng có thể đi đò qua hồ. Có một bà già chở đò, gọi là bà Giao. Bà có một ngôi nhà bè, đúng như nhà văn Lê Bầu đã kể , có lẽ đó là di tích cuối cùng của những ngôi nhà bè có từ thời Lê Bầu. Ngôi nhà bè này đóng ở chính giữa hồ, chúng tôi quen gọi là “Hạm đội bà Giao”. Thuyền của bà buộc vào bè, từ bên bãi hay từ bờ đê, có ai gọi đò là bà lại từ “hạm đội” xuất phát đi chở. Ở Phúc Xá nhiều nhà có thuyền nhỏ, ngày thường nép sát vào vách nhà, đến ngày ngập lụt mới lấy ra, để chủ động đi lại, và cả chở khách kiếm tiền. Từ ngày khánh thành công trình thủy điện Hòa Bình thì bãi Phúc Xá hầu như không còn cảnh lụt lội hàng năm nữa.
Vật đổi sao dời, hồ Phúc xá nay không còn. Hồ đã bị lấp vào đầu những năm 2000, do một dự án giãn dân của Thành phố Hà Nội. Các con ngõ 41, 75, 91, 105, 115, 131, 151, 163, 175 nối từ đường Hồng Hà ra bãi Phúc Xá, chính là đi qua lòng hồ ngày xưa. Đường 20 ngày xưa, nay là đường An Xá. Các con đường 5, đường 10 ngày xưa, nay là các con ngõ nhỏ, ngang dọc kẻ ô vuông giữa đường An Xá và đường Phúc Xá. Nhà văn Lê Bầu ra đi đã được 5 năm, nhưng những trang văn ông để lại vẫn cuốn hút chúng ta, với những chi tiết lạ lùng, hấp dẫn. Gấp tập sách lại, tôi vẫn như thấy ông đâu đó, với bộ quần áo màu gụ, chan hòa, xuề xòa, giản dị giữa bạn bè , và như đang kể chuyện với chúng ta, bắt đầu với câu khẩu ngữ quen thuộc :
  - Rằng thì là…

Những ngày chớm đông 2014
*












TRÒ CHUYỆN VỚI NGUYÊN TỔNG BIÊN TẬP ĐINH KHẮC VƯỢNG
Nhà báo Đinh Khắc Vượng là Phó TBT Thường trực tạp chí TGTT từ năm 1994 -2007, là Tổng biên tập từ năm 2007 đến nay. Ngoài TGTT là tờ tạp chí “ruột”, anh còn là Phóng viên- Biên tập viên báo Người giáo viên nhân dân, (báo Giáo dục và Thời đại), tạp chí Thế Giới Mới, Giáo viên và nhà trường, Giáo dục thể chất, Một cửa sổ nhìn ra thế giới, và Phó Tổng biên tập báo Dân Trí (giai đoạn 1998- 2001). Đầu năm nay, vì căn bệnh hiểm nghèo, anh đã viết đơn xin từ chức và trân trọng giới thiệu anh Đào Nam Sơn, Phó Tổng biên tập với Thường vụ Trung ương Hội Khoa học Tâm lý – Giáo dục làm người kế nhiệm..
*
Anh Đào Nam Sơn, Phó Tổng biên tập phụ trách Tạp chí TGTT, có nhã ý giao cho tôi một nhiệm vụ “đặc biệt” và rất khó khăn là viết một bài về nguyên Tổng biên tập Đinh Khắc Vượng, người đã gắn bó gần nửa đời mình với những niềm vui, nỗi buồn, những thăng trầm của Tạp chí TGTT. Biết viết thế nào đây về hơn 20 năm đóng góp cho nền báo chí nói chung và cho tờ tạp chí TGTT thân thiết của anh? Biết viết thế nào đây về căn bệnh hiểm nghèo của anh, khiến anh phải “giữa đường đứt gánh” đành phải trao lại trọng trách, đồng thời cũng là một gánh nặng , cho người kế nhiệm.
Anh Đào Nam Sơn dẫn tôi sang nhà riêng của anh ở gần Trụ sở Tòa soạn. Anh nằm trên giường tiếp tôi. Lần đầu tiên anh tiếp tôi ở tư thế này. Anh không dậy được nữa rồi. Cũng biết là anh bị mắc căn bệnh hiểm nghèo từ trước (bệnh ung thư gan) nhưng không ngờ sức khỏe của anh từ sau Tết Con Dê này lại “tụt dốc” nhanh đến thế. Lâu lâu tôi không có bài cộng tác cho TGTT nên ít đến. Dạo trước Tết Ất Mùi, tôi có đến Tòa soạn gặp anh, anh vẫn đi lại, nói cười bình thường. Cố quên đi bệnh tật, cố vượt lên bệnh tật để mà sống, để mà làm việc. Ngày mồng 6 Tết , ngày làm việc đầu tiên của năm mới, chị Thuần vợ anh còn dìu anh sang Tòa soạn để chúc Tết anh chị em. Nhưng từ ngày 8 tháng Giêng (âm lịch – tức 26.2.2015) trở đi thì anh đã phải nằm một chỗ, không đi lại được nữa . Tôi cầm theo cuốn sổ tay, có ý định để anh ghi vào đó mấy dòng thủ bút, để làm lưu niệm, nhưng anh đã không còn viết được nữa. Người nhiều năm “tả xung hữu đột” , tất nhiên là trên mặt trận báo chí, bây giờ nằm đây, da mặt trắng bợt bạt, tay chân tong teo. Được cái, trí tuệ của anh vẫn minh mẫn, giọng nói của anh vẫn khỏe, vẫn âm vang khúc chiết như ngày nào.
Còn nhớ, cách đây trên 20 năm, vào đầu những năm 1990, lúc ấy anh đang là Phóng viên thường trú của tạp chí Thế Giới Mới tại Hà Nội, còn tôi thì bắt đầu tham gia viết bài, cộng tác cho tờ tạp chí này. Tôi quen anh từ đó. Tháng 6.1994, anh cùng một số nhà giáo và những người làm công tác giáo dục có uy tín như GS Phạm Tất Dong, Ngô Hào Hiệp, Nguyễn Ngọc Sơn, … đứng ra chủ trương thành lập tờ Tạp chí TGTT, một tờ tạp chí riêng, là cơ quan ngôn luận của Hội Tâm lý Giáo dục Việt Nam. Chính anh là người đã đề nghị đặt tên tờ tạp chí là THẾ GIỚI TRONG TA. Lúc đó, nhiều người không đồng tình, cho rằng cái tên nghe vô lý, khó hiểu. Thế giới thì bên ngoài, chứ sao lại là trong ta? Nhưng càng dùng quen thì càng thấy đơn giản, dễ hiểu. Thế giới trong ta chính là thế giới nội tâm của con người. Người xưa nói “con người là một tiểu vũ trụ” . Thế giới bên trong con người chẳng bao la, phong phú lắm sao. Ngay cái Măng sét của tạp chí cũng do anh đề xuất, và từ khi ra đời đến nay, đã trên 20 năm, cái măng sét đó chưa hề một lần thay đổi. Nó mềm mại, lung linh, uyển chuyển và huyền ảo như thế giới nội tâm của con người vậy!
Đến nay tạp chí đã gần tròn 21 tuổi, 13 năm đầu GS Phạm Tất Dong làm Tổng biên tập tạp chí. GS Phạm Tất Dong tại thời điểm ấy đang là Phó Trưởng ban Khoa giáo Trung ương, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội KHTL- GD Việt Nam, mặc dù bận quá nhiều việc nhưng GS Phạm Tất Dong vẫn giữ phần hồn của TGTT, nghĩa là tất cả các bài lớn nhỏ, ảnh bìa, ảnh trang trong … GS đều đích thân đọc kỹ. Chỉ những bài được TBT ký duyệt thì các anh Vượng, Ngọc Sơn mới được đưa lên mặt báo. GS thường xuyên chỉ đạo: “TGTT phải giữ vững tôn chỉ, mục đích nhưng phải hấp dẫn; chỉ có hấp dẫn mới mời gọi được bạn đọc trong cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa những tờ báo giấy, báo in chất đầy ở ngoài sap báo

Theo những chỉ đạo đầy sắc sảo ấy, các anh Đinh Khắc Vượng, Nguyễn Ngọc Sơn, Đào Nam Sơn, Khắc Vinh ra sức suy nghĩ, tìm tòi để cho ra những chuyên mục, những cuộc thi, những cuộc trao đổi khoa học nhẹ nhàng, hấp dẫn. Không chỉ có nội dung, hình thức của một tờ Tạp chí, anh Vượng còn có một trách nhiệm hết sức nặng nề của người quản lý: Đó là vấn đề tài chính. Hay nói một cách nôm na là nỗi lo “cơm áo gạo tiền”. Nói tốt nói đẹp gì chẳng biết, nhưng nếu tạp chí không bán được, tia ra ít dần đi , lương lậu cho cán bộ, nhân viên tòa soạn sẽ ít và nhuận bút cho các cộng tác viên cũng ít đi, số người viết bài cộng tác sẽ giảm, thì tạp chí sẽ chết dần chết mòn. Cơ chế thị trường khắc nghiệt lắm. Thế nhưng, từ ngày ra đời, Tạp chí TGTT phát triển liên tục và đi lên không ngừng. Đỉnh cao là vào những năm 2004- 2005, số lượng phát hành đạt được 13 vạn cuốn /1 kỳ. Đó là số lượng phát hành đáng mơ ước của các tạp chí phát hành trên cả nước ta..
Ăn nên làm ra, lương lậu của cán bộ công nhân viên, bien tập viên cũng kha khá. Nhuận bút cho cộng tác viên cũng vào loại trung bình khá trong mặt bằng chung của làng báo chí. Đặc biệt, anh Vượng còn hay tổ chức các đợt tham quan nghỉ dưỡng mỗi năm một lần cho cán bộ công nhân viên và các cộng tác viên thân thiết. Có năm đi Vân Nam, có năm đi Quảng Tây (Trung Quốc), còn đa số các năm đi tham quan, nghỉ dưỡng trong nước. Có thể kể một số nơi mà chúng tôi đã từng đến: Khu du lịch Tam Đảo, Vườn Quốc gia Cát Bà, Khu du lịch suối nước khoáng Thanh Thủy, Vườn Quốc gia Cúc Phương, rồi Sa Pa “thành phố trong sương”, rồi Tam Cốc- Bích Động “ Hạ Long trên cạn” , rồi tua Du lịch đường thủy đến các di tích danh thắng ven sông Hồng…. Trong cuộc đời mấy chục năm viết báo của mình, tôi cũng đã cộng tác với nhiều tờ báo, tạp chí, nhưng tôi chưa thấy tờ báo, tạp chí nào đối xử nồng hậu đối với đội ngũ cộng tác viên như thế. Cùng lắm thì mỗi năm, vào những ngày cận Tết, người ta mời các anh em cộng tác viên “ruột” đến gặp mặt, chúc Tết rồi biếu cho mỗi người một cái phong bì ăn tết. Như thế cũng đã là quý lắm rồi. Viết như thế để thấy được tình cảm thân thiết, gắn bó và sự trân trọng giữa Tòa soạn TGTT mà cụ thể là anh Vượng đối với các cộng tác viên. Trong các chuyến đi như thế, các cộng tác viên có dịp giao lưu, làm quen, đàm đạo, trao đổi với nhau. Tôi đã có dịp giao lưu, làm quen với Nhà Yô ga- nhà báo kỳ cựu Thế Trường , người nổi danh từ những năm tôi còn ngồi trên ghế nhà trường phổ thông trung học; Nhà ngoại giao- Dịch giả Dương Danh Di, người đã có 17 năm làm Tổng lãnh sự quán của ta bên Quảng Châu, Trung Quốc; nhà văn Lê Bầu, nhà văn Nguyễn Bắc Sơn, các nhà giáo duc- GS Phong Lê, GS Nguyễn Khắc Phi, các anh Nguyễn Hải Hoành, Thái Hư… trong những dịp như thế.
Để câu khách, nhiều tờ báo, tạp chí thường hay đăng tải những tin giật gân, những câu chuyện ly kỳ như những vụ án mạng: cướp của, giết người, hiếp dâm …mà anh Đinh Khắc Vượng và các anh trong Ban Biên tập không bằng lòng và xem đây là một kiểu câu khách không nên làm. TGTT chinh phục bạn đọc bằng những bài viết nghiêm túc nhưng không khô cứng, chuyên sâu mà không khó hiểu, phong phú mà không tạp nham… Chính Tổng biên tập Đinh Khắc Vượng đã đề xuất và cho mở rất nhiều chuyên mục đặc biệt, nhiều cuộc thi độc đáo như thi Viết thư cho người yêu, Thi Vịnh đôi đũa, thi viết Những mẩu chuyện sâu sắc tuổi thơ, thi Những mẩu chuyện về ứng xử… Lần lượt được tổ chức, thu hút hàng chục vạn người tham gia. TGTT đã biến độc giả thành tác giả, thành cộng tác viên của tạp chí một cách tự nhiên như thế.
Cuộc thi viết “Thư và nhật ký viết cho người yêu” có lẽ là đề tài độc đáo nhất trong văn học Việt Nam. Sáng tác mà không như sáng tác. Ngày nay, những người xa nhau có nhiều cách liên lạc với nhau : Điện thoại di đông, lên mạng Chát Oline, những người cách xa nhau nửa vòng trái đất cũng có thể liên lạc với nhau như ngồi ngay trước mặt. Nhưng thử tưởng tượng, chỉ vài ba chục năm về trước thôi, phương tiện liên lạc duy nhất với nhau chỉ là thư từ. Những người yêu nhau vì hoàn cảnh chiến đấu, công tác phải xa nhau, muốn trao gửi tình cảm cho nhau chỉ nhờ có lá thư. Lá thư là tình cảm trao gửi, là dồn nén tâm tư, càng xa nhau thì càng nồng nàn, cháy bỏng. Mà trong cuộc đời này, không ai là không trải qua một thời tuổi trẻ say mê, một thời yêu đương nồng thắm. Chính vì vậy, cuộc thi đã thu hút được hàng chục vạn bạn đọc tham gia. Cuộc thi “Thư viết cho người yêu” kéo dài đến 7 năm, qua 7 đợt thi mà bài vở gửi về không lúc nào ngớt. Qua 7 đợt thi, 7 lần trao giải, tòa soạn đã chọn lọc được một số tác phẩm tiêu biểu, in thành hai tập sách “51 bức thư tình hay nhất” và “Sợi tơ trời”,  với lượng phát hành hàng vạn cuốn. Đã có một số nhà xuất bản “ăn theo” rồi ấn hành những tác phẩm như “Thư tình chọn loc”, “100 bức thư tình nổi tiếng” …mà đa phần các bức thư được cóp nhặt từ hai cuốn sách này.
Rồi cuộc thi viết Những kỷ niệm sâu sắc tuổi thơ. Tuổi thơ là bình minh của một đời người. Cái “ miền thơ ấu” đó qua đi nhưng còn để lại dư vị, để lại những hồi ức đẹp trong mỗi chúng ta. Cuộc thi viết những kỷ nệm sâu sắc tuổi thơ thu hút hàng ngàn người tham gia. Những người đã đi qua tuổi thơ đều có những kỷ niệm hay, kỷ niệm đẹp về lứa tuổi thần tiên đầy trong sáng này.
Một vật hết sức bình thường như đôi đũa ta ăn cơm hàng ngày cũng trở thành nội dung cuộc thi: “ Thơ vịnh đôi đũa”. Trên thế giới có nhiều cách và “ dụng cụ” để đưa cơm và thức ăn vào miệng. Một số nước Nam Á và Đông nam Á ăn cơm bằng tay, tức là dùng tay “ bốc” cơm mà ăn. Các nước Châu Âu ăn bằng dao , bằng dĩa. Còn dân tộc ta và một số nước Đông Á như Trung Quốc, Triều Tiên, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan ăn cơm bằng đũa. Đôi đũa, trong văn hoá đời sống người Việt trở thành một hình tượng văn học. Đũa là phải ngay thẳng “ vợ dại không hại bằng đũa vênh” , đũa trong quan hệ vợ chồng: “ Làm người như đũa có đôi”. Với TGTT, đũa trở thành một đối tượng để ngâm vịnh. Nói về đôi đũa bình thường, nhưng là nói về đời sống văn hóa của con người. Hàng ngày độc giả đã gửi thơ về “ vịnh đôi đũa” rất nhiều. Toà soạn đã tập hợp lại, in thành tập thơ “ Vịnh đôi đũa” phát hành đến 5.000 bản, bán hết veo. Đó chính là TGTT đã biết lấy một vật tầm thường, nâng lên thành hình tượng văn học.
Các cuộc thi khác mà TGTT phát động đều được bạn đọc hưởng ứng nhiệt tình, và đều đạt được kết quả hơn mong đợi. Chính những cuộc thi như thế đã khai thác được tiềm năng vô tận trong mỗi con người. Có nhiều người nhờ tham gia những cuộc thi như thế mà trở thành cộng tác viên của TGTT. Anh Vượng tâm sự: “TGTT đã tự làm nổi mình bằng các cuộc thi, đố vui, thảo luận như vậy mà đi vào lòng bạn đọc một cách nhẹ nhàng. Có người nói TGTT là tờ báo dễ đọc, giản dị, gần gũi, không lên gân, lên cốt, đấy chính là khoa học tâm lý, khoa học đi vào lòng người.”
TGTT còn một mảng quan trọng nữa, đó là đi vào phục vụ đội ngũ giáo viên. Công tác bồi dưỡng đội ngũ giáo viên từ bậc tiểu học đến trung học phổ thông là một công việc thường xuyên và quan trọng. Hàng năm, mỗi giáo viên có 2 tháng học tập, bồi dưỡng nghiệp vụ. Còn trong 9 tháng giảng dạy vẫn phải không ngừng tự học, tự bồi dưỡng, tự nâng cao trình độ bản thân mình. TGTT số chuyên đề, mỗi tháng ra một kỳ, đã thỏa mãn nhu cầu này của đội ngũ giáo viên. TGTT đặt ra những vấn đề cụ thể, chuyên sâu của từng môn học, từng phân môn. Bài viết thường do các giáo sư, các giáo viên dạy giỏi, lâu năm, có nhiều kinh nghiệm trực tiếp viết về công việc của mình, về kinh nghiệm đứng lớp của mình, nên rất sinh động, rất thiết thực. TGTT đã “biến” các giáo viên thành những nhà báo, viết về công việc hàng ngày của chính họ. Nó chính là diễn đàn để các thầy cô giáo trao đổi, phổ biến kinh nghiệm giảng dạy cho nhau. Đã có nhiều công trình cho thấy, những giáo viên ham mê học hỏi tìm tòi trong sách báo thì bài giảng hay hơn nhiều, phong phú hơn nhiều so với những giáo viên lười đọc sách báo.TGTT số Chuyên đề với số lượng phát hành hàng chục ngàn bản mỗi kỳ, phổ cập đến các trường phổ thông cấp 1 và 2 trên toàn quốc trở thành tờ báo nghề duy nhất chuyên đi sâu vào chuyên môn nghiệp vụ của người giáo viên đứng lớp, góp thêm một kênh quan trọng trong việc đào tạo bồi dưỡng thường xuyên cho đội ngũ giáo viên phục vụ đổi mới và phát triển sự nghiệp giáo dục phổ thông. Trải qua hơn 20 năm tồn tại và phát triển, tuy có lúc thăng lúc trầm, cả các số chính trương và phụ trương đều có mặt khắp các tỉnh thành trong cả nước, rồi theo chân người Việt Nam ra nước ngoài, sang cả Anh, Pháp, Mỹ, Nhật, Ca na đa, Đức, Thuỵ Điển, đến tận Li bi xa xôi. Đó là công lao, là dấu ấn của người Tổng biên tập tài năng và tâm huyết bây giờ đang nằm trước mặt tôi đây.

Tôi hỏi :
– Anh có điều gì gửi gắm cho bạn đọc TGTT không ?
– Từ trước đến nay, bạn đoc và các cộng tác viên đã nhiệt tình ủng hộ TGTT. TGTT sống được, tồn tại và phát triển được là nhờ sự ủng hộ của các bạn. Điều đó làm tôi rất xúc động. Mong rằng bạn đọc và các cộng tác viên tiếp tục ủng hộ TGTT như trước đây.
– Còn đối với người kế nhiệm ?
– Cho đến lúc này, trước khi bàn giao cho anh Đào Nam Sơn, TGTT có con số phát hành là 2 vạn số /mỗi tháng, kể cả chính trương và phụ trương (tức số chuyên đề) , đứng đầu bảng trong các số tạp chí có cùng khuôn khổ. Mong rằng, anh chị em đoàn kết, cố gắng, phấn đấu để tự khẳng định mình. Tôi biết, trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, các loại báo nói, báo hình, báo mạng phát triển như vũ bão, thì báo viết tồn tại được, phát triển được là vô cùng khó khăn.
Nói câu này, anh rơm rớm nước mắt. Tôi biết, anh đang ray rứt , trăn trở lo cho tờ tạp chí “ruột” của mình, lo cho người kế nhiệm và các cộng sự. Trọng trách đang đè nặng trên vai họ. Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ…
*
Thấy “quấy rầy” anh đã lâu, gần hai tiếng đồng hồ rồi, anh cũng đã mệt. Nhân có mấy người khách đến thăm , tôi xin phép ra về. Nắm tay anh mà lòng bâng khuâng, mà dâng trào cảm xúc. Biết nói gì với anh. Một lời động viên ư, một lời an ủi ư ? Chỉ là khách sáo, chỉ là giả tạo. Hơn ai hết, anh biết rõ căn bệnh của mình. Tôi ra về mà lòng mang mang xúc cảm. Về nhà, tôi mở máy tính, ngồi một mạch đến 2 giờ sáng để viết vội những dòng này, kịp gửi đến bạn đọc thân thiết của TGTT…
.
Hà Nội đêm 10 rạng 11.4.2015

*








GẶP MẶT NHÂN DỊP 25 NĂM NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ VÀ TÌM HIỂU PHẢ HỌ NGUYỄN CỦA ÔNG NGUYỄN VĂN THÀNH
Mùa Xuân thật lắm tơ vương… Ngay trong một buổi  sáng ngày 8.3.2015 (tức 18 tháng Giêng âm lịch)  Duy Kha tôi có đến  3 cuộc “gặp mặt” đầu năm mà cuộc gặp nào với tôi cũng quan trọng cả:
– Gặp mặt Hội đồng hương Song Lộc tại Hà Nội.
– Gặp mặt Hội hưu trí ngành Vật tư Khu vực Hà Nội.
– Gặp mặt nhân dịp 25 năm nghiên cứu Lịch sử và tìm hiểu Phả họ Nguyễn của ông Nguyễn Văn Thành.
Ông Nguyễn Văn Thành là nhà Nghiên cứu lịch sử có nhiều cống hiến. Năm nay ông đã 86 tuổi, cái tuổi Thượng thượng thọ. Tổ chức cuộc gặp mặt hôm nay vừa là mừng thọ, vừa là mừng công , một sự kiện quan trọng đối với ông và con cháu ông. Ông đã lọc cọc đạp xe đạp đến đưa giấy mời cho tôi ngay từ hôm mùng 3 Tết. Vì vậy, tôi đành nuối tiếc mà gác lại hai cuộc gặp mặt trên để tham gia cuộc gặp mặt thứ 3, tổ chức tại Khách sạn EASTIN EASY, số 27, Quốc Tử Giám, Hà Nội.

Những ngày đầu năm, Hà Nội trời đầy mây, mưa phùn rả rích, độ ẩm  trên  90%, ướt át cả tuần lễ, có việc phải ra đường, rất ái ngại. Thậm chí có bài báo còn giật một cái tít rất giật gân: “Người Hà Nội phát điên vì mưa phùn kéo dài nhiều ngày, độ ẩm tới gần 100%” . Bài báo viết: “Đường sá lầy lội, bẩn thỉu, nền nhà thì nồm, quần áo phơi cả tuần vẫn ẩm và hôi rình, đồ điện tử “chập mạch”…là những điều ám ảnh người dân Hà Nội suốt những ngày mưa phùn kéo dài”, (theo kenh14.vn) . Mà có lẽ còn kéo dài hàng tuần lễ nữa ! Rằm tháng Giêng vừa rồi, Ngày thơ Việt Nam tổ chức tại Văn Miếu, tôi đã phải bỏ không đi. Đó là tình hình thời tiết bất tiện trong những ngày này.
Có lẽ cũng vì lý do trên mà hôm nay, số người tham dự Tọa đàm không nhiều. Tuy nhiên, những nhân vật chủ chốt, những cây đa, cây đề trong giới Sử học mà ông Thành mời, tôi đều thấy có mặt gần như đầy đủ. Đó là các nhà nghiên cứu, các Giáo sư  cao niên: GS Phan Văn Các, GS Chương Thâu, TS Đinh Công Vĩ, TS Nguyễn Cát Điền, các nhà nghiên cứu, cùng  bạn bè, con cháu ông Nguyễn Văn Thành.
Buổi gặp mặt bắt đầu vào lúc 8 giờ. Từ 8h00 đến 8h30 là các tiết mục văn nghệ “cây nhà lá vườn” do Đội văn nghệ của CLB Di sản thơ văn truyền thống & Hán Nôm trình diễn.
Đọc tham luận tại buổi tọa đàm có:
– GS Phan Văn Các với bài: Ông Nguyễn Văn Thành, một người say mê nghiên cứu Lịch sử
– GS Nguyễn Đình Chú (Vắng, ủy nhiệm TS Đinh Công Vĩ đọc thay): Có một nhà khoa học bình dân như thế.
– GS Chương Thâu: Tại cuộc họp Mừng công, mừng thọ bác Nguyễn Văn Thành.
– TS Nguyễn Cát Điền: KS Nguyễn Văn Thành trên con đường cội nguồn – dòng họ.
– Lý Văn Thăng: Nhà phả học Nguyễn Văn Thành với tác phẩm Sự tích Chử Đồng Tử
– Phan Duy Kha: Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thành như tôi biết (có đăng kem dưới đây.
– Dương Đình Nhàn: Cụ Nguyễn Văn Thành – Một con người của công việc.
– Nguyễn Hải Trừng: Những cuốn sách bổ ích về cội nguồn.
….
Các bản tham luận đã nêu bật lên được những đóng góp quý báu của Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thành đối với việc nghiên cứu Lịch sử Việt Nam và đặc biệt là đối với việc tìm hiểu về Phả họ Nguyễn.
Sau đây là toàn văn bài Tham luận của Phan Duy Kha viết vào tháng 5.2014 đọc tại buổi gặp mặt:
*
NHÀ NGHIÊN CỨU NGUYỄN VĂN THÀNH NHƯ TÔI BIẾT
Tôi vốn là kỹ sư Trắc địa- Bản đồ nhưng đam mê Lịch sử. Vào những năm 2000-2003, tôi cùng TS Đinh Công Vĩ và TS Lã Duy Lan gom góp các bài vở từng in trên các báo chí, của 3 người, in chung một cuốn sách nhan đề “Nhìn lại lịch sử” (Nxb Văn hóa – Thông tin, 2003). Từ quen biết TS Đinh Công Vĩ mà tôi quen biết Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thành. Bác Nguyễn Văn Thành vốn là một kỹ sư hóa chất. Cũng như tôi, nghiên cứu lịch sử đối với ông chỉ là nghề “tay ngang” sau khi đã về hưu. Là nghề “tay ngang”, chúng tôi không được học tập , nghiên cứu một cách bài bản. Không được trang bị một “kiến thức nền” thật chắc chắn. Bù lại, chúng tôi có lòng đam mê sâu sắc với lịch sử.
Từ ngày quen biết, mỗi lần in được cuốn sách nào tôi lại mang đến tặng ông. Ngược lại, những tác phẩm mới của ông, kể cả những cuốn sách nhiều tác giả mà trong đó có đăng bài của ông, ông đều đem tặng tôi. Vừa để mừng cho nhau, vừa cũng là sẻ chia , cung cấp tư liệu cho nhau. Từ những cuốn sách, những bài viết của ông đã bổ sung cho tôi nhiều tư liệu lịch sử, nhiều chi tiết thú vị. Với vốn hiểu biết về Hán- Nôm, khi nghiên cứu di tích lịch sử nào ông đều đến tận nơi xem xét, đọc văn bia, thần tích, thần phả, bổ sung nhiều chi tiết thú vị. Xin lấy một vài thí dụ cụ thể.
Là người Việt Nam, chúng ta ai cũng biết truyền thuyết Chử Đồng Tử- Tiên Dung. Nhưng có lẽ ít ai để ý rằng, tại sao quê Chử Đồng Tử ở bên kia sông Hồng mà bãi Tự Nhiên, nơi hai người gặp nhau lại ở bên này sông Hồng? Là người nghiên cứu, bỏ công tìm hiểu nhiều về thời đại Hùng Vương, thế nhưng tôi vẫn thắc mắc, không lý giải được, là: Tại sao quê hương Chử Đồng Tử là làng Chử Xá, bên kia bờ sông Hồng (Tả ngạn). Thế mà bãi Tự Nhiên, nơi Tiên Dung quây màn tắm rồi tình cờ gặp Chử Đồng Tử vùi mình trong cát, lại ở bên này sông Hồng (Hữu ngạn). Chả lẽ Chử Đồng Tử lại bơi vượt sồng Hồng để gặp Tiên Dung? Thì đây, để trả lời câu hỏi này, tác phẩm “Sự tích Chử Đồng Tử” của Nguyễn Văn Thành (Nxb VH- TT, 2003) đã trả lời thấu đáo. Trước kia, bãi Tự Nhiên ở bên kia sông Hồng, thuộc huyện Khoái Châu. Việc bãi Tự Nhiên nhập vào Hữu ngạn là do sự đổi dòng của sông Hồng, mà sự việc ấy xẩy ra cách đây cũng chưa lâu : “Vì dòng sông thường xuyên đổi dòng nên nhiều cánh bãi xưa kia dính liền với đất Khoái Châu thì nay lại dính liền với đất Thường Tín. Bãi Tự Nhiên là một ví dụ điển hình nhất. Vào cuối Lê đầu Nguyễn, bãi Tự Nhiên là đất của tổng Vĩnh Hưng, huyện Đông An, phủ Khoái Châu, xứ Sơn Nam Thượng. Điều này đã được ghi rõ trong sách “Các Trấn, Tổng, Xã danh bị lãm” là sách viết đầu thế kỷ 19. Ngay trong đền Thượng của xã Tự Nhiên còn lưu nhiều bia công đức thời Lê. Các bia này đều nói bãi Tự Nhiên thuộc huyện Đông An, phủ Khoái Châu” (trang 12, sđd). Như vậy là, trước thời Nguyễn, bãi Tự Nhiên vẫn còn nối liền với đất Khoái Châu. Dòng sông đổi dòng, bãi Tự Nhiên liền mạch với phủ Thường Tín như ngày nay mới bắt đầu từ thời Nguyễn. Tôi đã về tham quan thực địa bãi Tự Nhiên và thấy dấu vết dòng chảy xưa kia ngay gần sát bờ đê phía Thường Tín, minh chứng cho điều đó.
Hay như sự tích về Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng. Sách “Việt điện u linh” của Lý Tế Xuyên ghi về ông rất sơ lược : “Theo sách Giao Châu ký thì Vương họ Phùng tên Hưng. Đời đời cha truyền con nối làm tù trưởng Biên khố ở châu Đường Lâm, gọi là Quan Lang, gia tư giàu có, sức rất là khỏe mạnh, có thể bắt hổ, vật trâu. Em là Hãi cũng có sức khỏe, có thể vác mười nghìn cân đá hoặc chiếc thuyền nhỏ nặng một nghìn hộc đi hơn 10 dặm. Những dân Di, Lạo đều sợ tiếng tăm” (Trích truyện Bố Cái đại vương, trong Việt điện u linh). Đại Việt sử ký toàn thư ghi còn sơ lược hơn: “Tân Mùi (791), mùa hạ, tháng 4, người ở Đường Lâm thuộc Giao Châu là Phùng Hưng dấy binh vây phủ. Chính Bình lo sợ mà chết. Trước đây Phùng Hưng vốn là nhà hào phú , có sức khỏe, có thể vật trâu, đánh hổ.Khoảng niên hiệu Đại Lịch (766- 780) đời Đường Đại Tông có loạn, cùng với em là Hãi hàng phục được các ấp bên cạnh , Hưng xưng là Đô Quân, Hãi xưng là Đô Bảo, đánh nhau với Chính Bình, lâu ngày không thắng được. Đến đây dùng kế của người làng là Đỗ Anh Hàn , đem quân vây phủ . Chính Bình lo sợ phẫn uất thành bệnh ở lưng mà chết. Hưng nhân đó vào đóng ở phủ trị , chưa được bao lâu thì chết. Con là An tôn
Tuy nhiên, khi đọc Thần tích đình Thịnh Hào , bản dịch của Nguyễn Văn Thành (Nxb Văn hóa- Thông tin, 2013) thì ta mới thấy, nguồn gốc, thân thế của Phùng Hưng được đề cập chi tiết hơn nhiều. Tổ tiên 7 đời của Phùng Hưng là Phùng Trí Cái đã từng vào triều cận vua Đường Cao Tông (618-626) từ năm Vũ Đức. Trí Cái sinh Gia Cát. Gia Cát sinh Dương Năng. Dương Năng sinh Kiệu Năng. Kiệu Năng sinh Kiến Khởi. Kiến Khởi sinh Hạp Khanh. Phùng Hạp Khanh chính là thân sinh của Phùng Hưng. Đặc biệt, Thần tích còn cho ta biết, Phùng Hạp Khanh đã từng tham gia cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan vào năm 722. Qua đây ta lại thấy sự liên quan thú vị giữa Mai Hắc Đế và Phùng Hưng.
Về chiến công của Phùng Hưng, các tài liệu sử sách của ta ghi rất sơ sài. Việt điện u linh ghi: Khi đó quan đô hộ là Cao Chính Bình đem quân dưới trướng đến đánh họ Phùng không nổi, tức giận thành bệnh mà chết.Phùng Hưng vào phủ Đô hộ coi việc được 7 năm thì mất. Đại Việt sử ký toàn thư thì ghi: Phùng Hưng dấy binh vây phủ (tức phủ Đô hộ) Chính Bình lo sợ mà chết. Tuy nhiên, Thần tích đình Thịnh Hào lại ghi rất chi tiết: “Vương (tức Phùng Hưng) thống lĩnh đại binh một vạn người, chỉ huy Chử Viêm, Bốc Chiêm, Điền Phương, Đoàn Viêm…gồm 28 tướng tiến thẳng về châu trừng phạt. Chính Bình cũng chỉ huy hơn 4 vạn tướng sĩ dưới trướng giằng co với quân của Vương, đại chiến suốt bảy ngày , thúc trống trông sang nhau. Sĩ tốt của Đường chết không đếm xuể, thây chất đầy đồng, máu chảy thành sông. Nước 2 sông Nhĩ Hà, Lô Giang vì vậy mà biến thành màu đỏ. Chính Bình thấy quân ta thế mạnh, không dám đánh, rút vào thành cố thủ. Vương bèn chia quân làm 8 mặt , họp các chư tướng lại, hợp binh vây chúng. Chính Bình lo lắng uất ức, thành bệnh mà chết. Rõ ràng là Thần tích đình Thịnh Hào ghi chi tiết hơn nhiều.
Nhưng có lẽ cồng hiến của Nguyễn Văn Thành, theo tôi, có ý nghĩa nhất là 6 tập “Cội nguồn” :
– Cội nguồn 1- in năm 1996
– Cội nguồn 2- 1997
– Cội nguồn 3- 1999
– Cội nguồn 4- 2001
– Cội nguồn 5- 2002
– Cội nguồn 6- 2004
Đây là tập hợp các bài viết của nhiều tác giả về dòng họ do Nguyễn Văn Thành và Đinh Công Vĩ đồng chủ biên, giới thiệu về Danh nhân và gốc tích các dòng họ Việt Nam. Để ra được những tập sách này, chính ông, Nguyễn Văn Thành đã tập hợp các tư liệu bài viết của nhiều tác giả, rồi cũng chính ông xuất tiền ra in, và tự phát hành. Ông thường nói đùa với tôi: “Mình tự bỏ tiền ra in ấn, phát hành, tiêu thụ được hết, không lỗ là may rồi”. Cũng có nhiều người ủng hộ ông. Có những dòng họ, khi bài giới thiệu về dòng họ mình đươc in trên “Cội nguồn” đã lấy một lúc vài ba trăm cuốn về phát cho con em trong họ, hoặc đặt trên các bàn thờ, coi như tư liệu quý truyền đời của dòng họ mình.
Xin lấy thí dụ một số bài viết ngay trong tập “Cội nguồn” 6, có nhiều bài viết cung cấp cho bạn đọc rất nhiều tư liệu phong phú về các dòng họ : Bình Ngô khai quốc công thần Nguyễn Công Duẩn và họ Nguyễn Gia Diên (của Nguyễn Văn Thành); Tùng Ảnh – Một địa chỉ văn hóa (của GS Phan Văn Các); Về gia phả họ Phan của Hoàng giáp Phan Chính Nghị (của Phan Duy Kha); Gia phong xứ Nghệ được thể hiện từ một số cự tộc ở huyện Can Lộc (của GS Chương Thâu); Lễ nghi Học sĩ Nguyễn Thị Lộ và dòng họ từ vùng quê Tân Lễ (của TS Đinh Công Vĩ) v.v…
Đóng góp của Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thành còn một mảng quan trọng nữa: Đó là tham gia viết bài cho các cuộc Hội thảo khoa học. Ông tham gia nhiều cuộc Hội thảo:

–Hội thảo về dòng họ với truyền thống văn hóa dân tộc
–Hội thảo về dòng họ Bình Ngô khai quốc công thần Lê Sao
–Hội thảo về Định Quốc công Nguyễn Bặc và vai trò lịch sử của ông
–Hội thảo về Trạng nguyên Lê Ích Mộc và quần thể di tích cảnh quan du lịch xã Quảng Thanh, Thủy Nguyên, Hải Phòng
–Hội thảo về Họ Tô và Phòng tuyến sông Cầu.
–Hội thảo về Hoàng Giáp Nguyễn Trung Ngạn
–Hội thảo về Thượng tướng Đại vương Lê Trung Giang ở Hoằng Ngọc, Hoằng Hóa, Thanh Hóa
–Hội thảo về Đặng Huy Trứ và họ Đặng tại Thừa Thiên- Huế  v.v…
Hội thảo về danh nhân nào, địa phương nào ông đều đều về tận nơi, xem xét, đọc văn bia, thần tích, thần phả, gia phả, hoành phi, câu đối… và có những tìm tòi, phát hiện mới.
Ở tuổi 86 nhưng nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Thành vẫn khỏe mạnh. Ông vẫn thường tham gia điền dã cùng TS Đinh Công Vĩ về các làng quê, đọc gia phả của các dòng họ, đọc văn bia, thần phả, thần tích của các đình, đền, miếu để tìm tòi, phát hiện nhiều tư liệu quý cho sử học nước nhà. Hàng ngày, ông vẫn thường đến bể bơi Ba Đình (ông có thẻ sinh hoạt CLB Ba Đình) để bơi lội, một môn thể thao mà ông rất thích. Và cũng là để rèn luyện sức khỏe, sự dẻo dai, bền bỉ cho công việc nghiên cứu.
Chúc ông có nhiều thành tựu mới và chờ đọc tác phẩm mới của ông.
*





NÚI CÀI, NGỌN NÚI TUỔI THƠ TÔI
Núi Cài là một ngọn núi nhỏ nhô lên giữa đồng bằng. Trong bản đồ Quốc gia tỷ lệ 1: 25.000 ghi độ cao là 159 mét. Đây là ngọn núi nằm ở huyện Can Lộc quê tôi, thuộc địa phận các xã Thanh Lộc, Yên Lộc, Trường Lộc, Song Lộc.
Là một ngọn núi nhỏ, nhưng núi Cài lại có nhiều tên chữ: Sạc Sơn, Nhạc Thốc, Nhạc Sạc, Nhạc Trác…Sách “ Nghệ An ký” của Bùi Dương Lịch mô tả : “…Mạch núi từ núi Bụt chảy xuống đến đây thì nổi lên. Hình ngọn núi tuyệt đẹp trông như dáng một ông lớn nghiêm trang. Các sông Cày, Nhe, Ninh, Hoàng lượn quanh phía đông và phía tây…”. Nếu Bùi Dương Lịch coi núi có dáng “ một ông lớn ngồi nghiêm trang” thì các nhà sử học thời Nguyễn lại coi núi Cài như dáng một con chim xòe cánh. “ Núi Nhạc Trác cách huyện lỵ Can Lộc 11 dặm về phía tây, hình như con chim xoè cánh nên có tên như thế” ( Đại Nam nhất thống chí).Cũng có sách ghi tên núi là Phượng Sơn, Phượng Lĩnh. Trong “ Mai đình mộng ký” Nguyễn Huy Hổ khi nhớ về quê nhà, có viết: “ Phúc Giang, Phượng Lĩnh là nơi quê nhà”. Con chim xoè cánh đó chính là con chim Phượng Hoàng ( Phượng Sơn, Phượng Lĩnh: Núi Phượng Hoàng).
Đó là trong sách vở. Còn đối với người dân quê tôi thì cái tên nôm na vẫn là núi Cài, cái tên dân dã quen thuộc và thật đáng yêu. Dưới chân núi Cài, về phía đông có một làng mang tên Kẻ Cài. Làng mang tên núi hay núi mang tên của làng, chẳng ai biết. Chỉ biết rằng đó là cái tên cổ, có từ xa xưa, thuở mới lập làng, lập nước. Sườn núi phía đông có một hòn đá nhô lên như hình người, được gọi là hòn vọng phu ( trông chồng). Thực ra đây không phải là  “trông chồng” mà phải gọi là  “ trông người yêu” thì mới chính xác. Truyền thuyết kể rằng, ngày xưa, giữa núi Cài và núi Hồng( Tức Ngàn Hống hay Hồng Lĩnh) còn là biển cả mênh mông. Lúc ấy, Ngàn Hống còn là một hải đảo. Một lần, có một chàng trai đánh cá ngoài đảo Ngàn Hống ghé thuyền vào bến Kẻ Cài, gặp người con gái đẹp rồi hai người yêu nhau. Từ đó, đêm đêm hai người thường hò hẹn gặp nhau.Đêm tối mịt mùng , người con gái Kẻ Cài trèo lên sườn núi, cầm đuốc làm hiệu cho người yêu biết hướng mà cập bến.Có lẽ đây là một truyền thuyết đặc biệt nói về cây đèn biển xưa nhất của Việt Nam ta. Một đêm mưa to gió lớn, chàng trai vẫn theo ánh đuốc, vượt biển sang với người yêu. Giữa chừng không may anh bị sóng cuốn trôi. Người con gái đứng trên sườn núi, cầm đuốc đứng chờ, chờ mãi, trong mưa gió bão táp rồi hoá thành đá… Truyền thuyết phản ánh một hiện thực lịch sử: Xưa kia, vùng đất này vẫn còn là một eo biển. Dòng sông Lam chảy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam từ biên giới Việt – Lào, qua Thanh Chương, Nam Đàn rồi chảy thẳng ra biển Đông qua cửa Sót. Mãi sau này, sông mới đổi dòng, cái eo biển dần dần bị cát bồi lấp mà biến thành đồng bằng, chỉ còn để lại một con sông nhỏ là sông Nghèn mà đoạn qua đây gọi là sông Cài. Thơ Nguyễn Du có câu:
Hồng Sơn cao ngất mấy trùng
Đò Cài mấy trượng thì lòng bấy nhiêu.
Đò Cài là con đò qua sông này, nơi đi về quen thuộc của danh nhân xưa.
Người dân quê tôi coi “ trai tài” là những người học hành đỗ đạt. Từ thuở nhỏ cắp sách đến trường tôi đã nghe một câu đối nói về những trai tài gái sắc quê hương:
Kiệt Thạch tam khoa, tam tiến sỹ
Thường Nga cửu thế, cửu cung phi
Nghĩa là: Làng Kiệt Thạch ( tức Kẻ Cài, dưới chân núi) nổi tiếng học giỏi, ba khoa thi thì ba người lên tiếp đậu tiến sỹ. Còn làng Thường Nga ( nay là Nga Lộc) nổi tiếng có nhiều gái đẹp, 9 đời liên tiếp có 9 cô gái được tuyển làm cung phi. Ba tiến sỹ của làng Kiệt Thạch dưới chân núi Cài đã được sử sách ghi lại. Đó là các ông Hoàng Hiền, đỗ tiến sĩ khoa Mậu Tuất ( 1478) ; Nguyễn Cung, đỗ Nhị Giáp tiến sĩ ( tức Hoàng Giáp) khoa Quý Sửu ( 1493) và Thái Kính đỗ tiến sĩ khoa Tân Mùi (1511). Còn 9 nàng cung phi đất Thường Nga thì tiếc thay không thấy sử sách nào ghi chép lại. Thời nhà Nguyễn ở đây còn có ông Nguyễn Văn  Trình đỗ tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1898) và ông nguyễn Quýnh đỗ phó bảng. Bia khoa giáp ghi: Kiệt Thạch ở phía đông Sạc Sơn, trên bờ Kỳ Thuỷ, văn chương rỡ ràng ,nhân tài lớp lớp” Nếu ta lấy đỉnh núi Cài làm tâm , quay một vòng tròn tưởng tượng bán kính 3 km, ta sẽ gặp nhiều dòng họ lớn, nhiều đời khoa bảng, cống hiến cho đất nước nhiều danh nhân văn hoá. Ở phía nam Sạc Sơn là làng Yên Huy, tên cổ là Sa Nê (nay là xã Yên Lộc) với Dương Trí Dụng đỗ Tiến sĩ khoa Ất Sửu (1565) ,Dương Trí Trạch đỗ Tiến sĩ khoa Quý Mùi (1619) . Phía tây nam là làng Trường Lưu (nay là Trường Lộc) quê hương của dòng họ Nguyễn Huy, với Nguyễn Huy Oánh đỗ Thám hoa khoa Mậu Thìn (1748) Nguyễn Huy Quýnh đỗ Tiến sĩ khoa Nhâm Thìn (1772) , Nguyễn Huy Tự đỗ Tiến triều tác giả truyện Hoa Tiên và Nguyễn Huy Hổ với tác phẩm Mai Đình mộng ký. Về phía tây Sạc Sơn là làng Lai Thạch (nay là xã Song Lộc) quê hương của Nguyễn Tâm Hoằng đỗ Tiến sĩ khoa Mậu Tuất (1478, cùng khoa với Hoàng Hiền) và Phan Kính đỗ Thám hoa khoa Quý Hợi (1743). Còn ngược lên phía tây bắc là Làng Mật (nay là Kim Lộc) quê hương của La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, người được Quang Trung kính cẩn tôn làm thầy. Còn người chú của Nguyễn Thiếp là Nguyễn Hành đỗ Tiến sĩ khoa Quý Sửu (1733) . Thật là lạ lùng , khi có nhiều dòng họ, nhiều nhà khoa bảng, nhiều danh nhân tập trung trong một bán kính hẹp 3 km xung quanh núi Cài – Sạc Sơn như thế. Người xưa đã từng gọi hiện tượng đó là “ Sạc Sơn tứ diện giai công hầu” ( Sạc Sơn bốn mặt đều có công hầu) . Phải chăng, đất thiêng sinh người tài (địa linh nhân kiệt) hay chính người dân quê tôi vốn nghèo nên giàu ý chí học hành, lập thân dựng nghiệp. Và công hầu khanh tướng là kết quả của một quá trình học tập rèn luyện vượt khó, vượt khổ lâu dài, như một vị Thám hoa quê tôi đã từng ghi trong văn bia cách đây gần 3 thế kỷ “ Nhà nghèo, giấy bút, đồ dùng cái gì cũng thiếu, thường phải lộn mặt giấy cũ để làm văn, không có đèn học thì phải chờ ánh trăng đêm mà đọc sách” . Cuộc đời các danh ngân xưa là những tấm gương sáng cho đời sau noi theo. Và phải chăng, lớp sau học lớp trước , từ đời này truyền sang đời khác, tinh thần chịu đựng gian khổ, ý chí phấn đấu học tập vươn lên , tạo thành một truyền thống tốt đẹp của con người quê tôi , một miền quê được coi là hiếu học. Sự hiếu học đó đã tạo thành một tầng lớp trí thức kẻ sĩ mà tiếng tăm vang dội đến tận Kinh thành Thăng Long, đến nỗi hồi ấy có câu “Bút Cấm Chỉ, sĩ Thiên Lộc” (Bút tốt thì ở ngõ Cấm Chỉ ở Kinh thành Thăng Long, còn kẻ sĩ đỗ đạt nhiều thì ở Thiên Lộc. Thiên Lộc là tên huyện Can Lộc thời Lê).
Núi Cài gắn bó với tuổi thơ tôi. Mỗi buổi sang , tôi thường ra ngõ đón ngọn gió đồng và chờ mặt trời mọc nhô lên đỉnh núi , như đón đợi một điều gì đó tốt lành, mới mẻ đến với tuổi thơ tôi. Còn cha tôi thì nhìn về Núi Cài, Núi Hống mà đoán mưa nắng. Nếu “ Núi Hống đeo đai, Núi Cài đọi mũ” thì ắt hẳn trời mưa(1) là bài học vỡ lòng người dạy tôi về cách nhìn trời mà đoán thời tiết. Còn những buổi chiều nồm nam gió thổi, lũ trẻ chúng tôi thường ra đầu làng chơi thả diều và nhìn về phía đông ngắm cảnh nắng chiều chiếu vào núi Phượng, dậy lên màu tím phớt hồng với những đường nét tuyệt vời. “ Phượng Sơn tịch chiếu” đã trở thành một cảnh đẹp đi vào văn chương sử sách. ( Phượng Sơn tịch chiếu: nắng chiều chiếu vào núi Phượng)
Đã qua lâu rồi tuổi thơ vô tư và trong trẻo, tuổi của những ước mơ và khát vọng, cái tuổi thần tiên của mỗi đời người. Có một điều lạ là, cứ mỗi lần nhớ về tuổi thơ, tôi lại tưởng tượng đến hình ảnh ngọn Núi Cài, và mỗi lần nhìn thấy ngọn núi Cài , tôi thường nhớ về thời thơ ấu. Núi Cài là một phần máu thịt của tuổi thơ tôi. Tuổi thơ không bao giờ trở lại, còn Núi Cài vẫn sừng sững đứng đó đợi tôi.
Ơi, ngọn núi của những khát vọng trong lành , thơ trẻ. Đối với tôi , núi mãi mãi như có tâm hồn.
*

 



HỌ PHAN CỦA TÔI

Họ Phan có ở rất nhiều vùng trong nước. Đã có một cuốn sách Họ Phan trong cộng đồng dân tộc Việt Nam do tác giả Phan Tương chủ biên (Nxb Văn hoá – Thông tin, Hà Nội, 1997) . Ở đây , tôi chỉ đề cập đến một chi họ Phan nhỏ của tôi, ở miền quê Song Lộc , Can Lộc, Hà Tĩnh.
Phần mở đầu cuốn Gia Phả họ Phan, do cha tôi dịch từ chữ Hán ra chữ Quốc ngữ có một đoạn như sau:
“Bản gia phổ này tôi lược sao di tích của Tổ tiên, cố, cao và ông cha để lại bằng chữ quốc ngữ để mai sau con cháu nghiên cứu tìm hiểu sự tích của Tổ tiên , ông cha trong họ và chi ta. Tôi viết  sao ra đây, theo bản chữ Hán của thời Cố Tốn và Cố Hàn để lại thì Tổ tiên ta trước đây ở xã Phan Xá huyện Nghi Xuân. Tiên tổ khảo tiền bản tổng Tổng Chánh di cư đến xã Nguyệt Ao thôn Nguyễn Xá, xóm Quỳnh Côi lập cơ nghiệp.
Mãi cho đến đời chắt ông Tổng Chánh lại đến lập cơ nghiệp tại đây, tức là chỗ ở hiện nay. Cho nên từ đó về sau này con cháu làm ăn đinh tài thịnh vượng. Để tưởng niệm đến Tổ tiên, nên hàng năm đầu Xuân cả họ Đại Tôn con cháu tập trung tế lễ. Còn bốn chi, theo từng chi một để lệ vào 15 -7 âm lịch hàng năm”
Trên đây là phần mở đầu bản gia phả của chi họ Phan của tôi, một chi nhỏ trong họ Phan Đại Tôn hiện ở xã Song Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh. Chính câu “ Tổ tiên ta trước đây ở xã Phan Xá, huyện Nghi Xuân. . .” đã thôi thúc tôi tìm hiểu về nguồn cội.
Trong quá trình cộng tác với ông Phan Tương để viết cuốn “ Họ Phan trong cộng đồng dân tộc Việt Nam” , tôi may mắn được tiếp xúc với nhiều cuốn gia phả của các dòng họ Phan trong cả nước. Riêng gia phả họ Phan ở Phan Xá (nay là xã Xuân Mỹ, Nghi Xuân ,Hà Tĩnh) mà 10 đời đầu do chính ngài Hoàng giáp Phan Chính Nghị soạn từ năm 1526 thì sau khi cuốn sách  “Họ Phan. . .” ra đời mới đến tay những người biên tập. Người gửi tài liệu này là ông Phan Minh Sô hiện sinh sống ở Đà Nẵng. Ông Phan Minh Sô thuộc họ Phan Bảo An ( làng Bảo An, huyện Điện Bàn ,Quảng Nam) . Họ Phan Bảo An là một chi tách ra từ họ Phan Phan Xá. Tôi liền viết thư lien lạc với ông Phan Minh Sô để hỏi tình hình. Ít lâu sau tôi nhận được thư của ông Phan Minh Sô, giới thiệu địa chỉ của ông Phan Văn Tấn nay ở Đội 7, xã Xuân Mỹ , Nghi Xuân, Hà Tĩnh,  là hậu duệ của ngài Phan Chính Nghị. Ông Phan Văn Tấn là một giáo viên hưu trí, là người rất nhiệt tâm với cội nguồn. Nhận được thư tôi , ông Tấn đã phúc đáp,  trong đó có đoạn đáng chú ý : “ Trong phổ hệ tộc Phan (Phan Xá) có bài “Thư Phan gia” của ngài Thượng tướng quân Phan Khắc Từ đời thứ 13 (cháu đích tôn 4 đời của ngài Phan Chính Nghị) có đoạn ghi: “Chí trung gian tao biến, hữu nhất chi xuất vu La Sơn Lai Thạch” . Có nghĩa là đến khoảng trung gian, gặp tai vạ thình lình lại có một chi lên La Sơn Lai Thạch” ( Bấy lâu tôi đang tìm hiểu về La Sơn Lai Thạch mà chưa rõ) .Tôi nhận thấy rằng vào khoảng đời thứ 10, 11 gì đó do sự tàn khốc của quân Mạc đốt phá , cướp bóc của cải của nhân dân , truy lùng bắt ngài Phan Chính Nghị, nên nhiều người phải bỏ quê hương ra đi” (Trích thư ông Phan Văn Tấn, ngày 23- 7- 1998). Có thể ông Tổ họ tôi là con cháu của ngài Phan Chính Nghị đã phải ly quê để trốn tránh nhà Mạc trong trường hợp đó ? Dù sao thì đây vẫn chỉ là suy luận. Trường hợp họ Phan của tôi không giống như trường hợp họ Phan Bảo An. Khi đoàn đại diện họ Phan Bảo An tìm về Phan Xá để nhận họ thì giữa gia phả của hai giòng họ rất khớp nhau. Đó là , các bậc thuỷ tổ của họ Phan Bảo An là Phan Đa Lôi, Phan Đa Lư có tên trong gia phả họ Phan Phan Xá do ngài Phan Chính Nghị lập ( Phan Chính Nghị đời thứ 10, còn các ông Đa Lôi, Đa Lư ở đời thứ 3, thứ 4) . Vì vậy việc nhận họ là chắc chắn, không phải phân vân gì.
Còn gia phả họ Phan của tôi thì chỉ ghi là ở gốc ở Phan Xá, chứ không ghi được tên cụ Tổ là gì. Trong gia phả họ Phan Phan Xá cũng chỉ ghi có một chi chuyển lên La Sơn Lai Thạch mà không ghi là nhánh nào, cụ Tổ li quê đó tên là gì, đó là điều khó khăn cho việc kết nối gia phả sau này. Mặt khác, địa danh Lai Thạch mà gia phả họ Phan Phan Xá đề cập là tên tổng ngày xưa. Phạm vi tổng này rất lớn, bao gồm đến 6 xã ngày nay. Trong 6 xã đó cũng có nhiều họ Phan. Ngoài họ Phan của tôi ra, không biết có họ Phan nào chuyển cư từ Phan Xá lên không. Vào tháng 2 – 2002, ông Phan Văn Tấn có tìm về quê tôi để tìm hiểu gia phả. Cũng vì lý donhư thê mà việc nhận họ chưa thực hiện được .Cũng cần phải thấy một điều rằng, hai trường hợp ly quê đến vùng đất mới lập nghiệp của các vị Tổ ngày xưa có hoàn cảnh hoàn toàn khác mhau. Ở Phan Bảo An thì đi theo mệnh lệnh của triều đình, việc đi đó là đường đường chính chính. Việc ghi chép tên và địa chỉ của kẻ ở người đi là hoàn toàn công khai. Còn việc ly quê của ông Tổ họ Phan Song Lộc của tôi (nếu đúng như thế thật) là trốn chạy truy nã. Vì vậy việc ghi chép tên tuổi ở gia phả gốc cũng như gia phả của những người ly hương không thể rõ ràng ,đầy đủ được (có trường hợp còn phải thay tên đổi họ). Nay tôi xin ghi thêm ra đây, như một dấu hỏi lớn, để các thế hệ, những người tâm huyết với cội nguồn tiếp tục quan tâm tìm hiểu . Tôi cũng xin in nguyên văn bức thư của  ông Phan Văn Tấn để những ai sau này có điều kiện thì tìm hiểu thêm .
Ngay sau khi bài viết này của tôi được đăng lên mạng thì anh Phan Xuân Phúc, một hậu duệ của Ngài Phan Chính Nghị đã gửi Phản hồi cho tôi:
Kính chào bác Phan Duy Kha !
Trước hết tôi xin phép được tự giới thiệu với bác tôi là hâu duệ đời thứ 22 của ngài Thủy tổ Nghệ An trại chủ, đời thứ 13 kể từ ngài Phan Chính Nghị của tộc Phan Phan Xá nhưng hiện nay đang công tác sinh sống ở xa quê, là một người đam mê với lịch sử, đặc biệt tấm lòng luôn hướng về cội nguồn, truyền thống tốt đẹp của dòng tộc.Vì vậy tôi hay “lang thang” tìm các thông tin trên mạng. Hôm nay tình cờ đọc được bài của bác đăng ngày 13.12.2010 viết về họ Phan của Bác, tôi thấy thật là may mắn, hiện tôi là một trong 14 người của tộc Phan Phan Xá được giao quyển Phổ hệ Tộc Phan Phan Xá-phái II do ông Phan Văn Tấn tục biên năm 2004 ( tiếc rằng nay ông đã mất). Tôi đã đọc kỹ phần viết về họ Phan ở Song Lộc Hà Tình nói về một nhánh họ Phan chạy lên vùng La Sơn-Lai Thạch:”Chí trung gian tạo biến hữu nhất chi xuất vu La Sơn Lai Thạch” và Gia phả họ Phan trên đó (Song Lộc) có câu mở đầu là: ” Tổ tiên ta nguyên trước đây ở xã Phan Xá, huyên Nghi Xuân di cư đến xã Nguyệt ao, thôn Nguyễn Xá, xóm Quỳnh Côi lập nghiệp”.Trong gia phả có ghi tên của bác đã liên lạc với ông Phan Tấn.
Tôi đã nhiều lần về quê nhân dịp lễ thủy tổ và biết là họ
Phan ở Song Lộc năm nào cũng cử đoàn về dự, tôi rất xúc động và cảm phục nhưng tiếc rằng chưa có điều kiện để diện kiến các bác. Nhân đây xin mạo muội hỏi và trao đổi với bác mấy điều là có gì mong bác lượng thứ và chỉ giáo: Thứ nhất: họ Phan Đại tôn ở Song Lộc hiện giờ thời ngài thủy tổ là ai ?bác có biết rõ họ Phan của bác lập nghiệp ở tổng Lai Thạch giai đoạn nào triều vua nào ? biết được thông tin như vậy và kết nối với các thông tin khác nữa tôi nghi chắc cũng dần dần tìm ra
Thứ hai:Xin hỏi việc Tiến sỹ Phan Đình Tá khi nhà Lê trung hưng đã hạch tôi ông vì theo Mạc và cà nhà bị tru di tam tộc có đúng không ? . Theo như gia phả họ Phan Phan Xá và trên thực tế thì con cháu của Ngài Phan Chính Nghị vẫn sinh sống bình thường ở quê khi Ngài bị Nhà Mạc ép ra kinh đô nhậm chức nên việc đàn áp truy nã ở vụ này chắc là không có ,
Thứ ba: Tôi muốn hỏi Đình nguyên thám hoa Phan Kính có phải người tộc Phan mình không ? Tôi đang phân vân họ Phan Song Lộc(của ngài Phan Kính) và họ Phan Phan Xá có phải là cùng một thủy tổ không ? là vì trong gia phả của ho Phan ( ngài Phan Kính) Song Lộc có ghi là con cháu của Ngài Nghệ An trại chủ tước Quan nội hầu thời nhà Trần quê ở xã Đa Hoạch huyện Thiên Lộc và trong gia phả tộc Phan Phan Xá(do ngài Phan Chính Nghị soạn) cũng ghi ” Thủy tổ là Thủ lĩnh Nghệ An trại chủ tước Quan nội hầu thời nhà Trần nguyên gốc ở xã Đa Hoạch huyện Thiên Lộc, khi ngài ra làm quan một số con cháu ở theo ngài ra Nghi xuân lập nghiệp đa số ở lại quê..” .Nhưng trong phổ hệ tộc Phan Phan Xá ghi ngài sinh được 2 con trai là ngài Quang và ngài An(hai ngài đều cư trú ở Nghi Xuân) không nói đến con cháu ở quê Đa Hoạch, có thể trong gia phả chỉ ghi tên con cái theo ngài ra Nghi Xuân thôi,
Trên đây có vài dòng mạo muộilàm phiền bác. Một lần nữa có gì không phải mong bác thông cảm và thứ lỗi. Hy vọng được bác giành chút thời gian xem qua.
kính chúc bác và gia đình mạnh khỏe. gặp nhiều điều tốt lành
Quảng Trị, ngày 04 tháng 6 năm 2014
Phan Xuân Phúc
Cuộc trao đổi giữa anh Phan Xuân Phúc và tôi còn dài dài, có rất nhiều điều thú vị, nay chỉ xin ghi lại một Phản hồi mà thôi.

 

MỘT CHUYẾN THAM QUAN ĐẶC BIỆT

Cuối niên học 1962 – 1963, lúc đó tôi đang theo học lớp 9 ( tương đương lớp 11 ngày nay) trường phổ thông cấp 3 Trần Phú, huyện Đức Thọ  ( Hà Tĩnh). Nhà trường tổ chức cho học sinh đi tham quan quê Bác và quê  hương Nguyễn Du. Hồi đó, phương tiện giao thông đi lại khó khăn. Chúng tôi , những học sinh cấp 3, con em của quê hương Bác, nhưng chưa ai được về thăm ngôi nhà của Bác. Là đồng hương với Đại thi hào Nguyễn Du nhưng cũng chưa ai được về thăm quê hương của Người. Bây giờ, được nhà trường tổ chức cho đi tham quan quê hương của các bậc danh nhân, chúng tôi vô cùng hào hứng, dù là phải đi bộ giữa mùa hè nắng gắt.
Không phải như ngày nay, muốn tham quan địa danh nào, những người tổ chức chỉ cần một cú điện thoại đến một công ty du lịch hay công ty xe khách nào đó là sẽ có phương tiện như ý. Hồi đó chúng tôi muốn đi đâu, chỉ có một phương tiện duy nhất là….đôi chân. Trước khi đi , thầy hiệu trưởng tập trung 16 lớp khoảng 800 học sinh toàn trường lại phổ biến: Đoàn của chúng ta đi tương đối đông. Quãng đường lại rất dài, cả đi và về gần 100 km. vì vậy, thầy mong các em phải tương trợ lẫn nhau, đi đến nơi , về đến chốn. Các lớp phải kiểm điểm quân số cho chặt, không được để trường hợp nào rớt lại”.
Thế là một sáng đẹp trời, tháng 5 -1963 đoàn giáo viên, học sinh trường cấp 3 Trần Phú lên đường. Đoàn đi hàng một , theo đơn vị lớp, rồng rắn kéo dài khoảng một cây số, theo đường tắt qua các ruộng lúa, nương khoai , vượt qua hai con sông La, sông Lam , từ quê hương Trần Phú ( Đức Thọ, Hà Tĩnh), trực chỉ hướng về quê Bác ( Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An). Cũng phải nói thêm rằng, hồi ấy mỗi lớp có vài ba bạn con nhà khá giả, có xe đạp đi học. Cả trường có khoảng vài ba chục bạn, làm thành một tổ đi trước tiền trạm. Những bạn này phải đèo theo nồi niêu xoong chảo, tuỳ theo từng chặng đường mà dừng lại, nước nôi phục vụ cho đoàn. Vì vây, những bạn có xe lại vất vả hơn những người đi bộ. Mùa hè trời nóng, mồ hôi ra nhiều, chóng khát. Có quán nước nào đủ phục vụ cho gần 800 con người? Vì vậy, khoảng 2-3 giờ đi bộ( được 10-15 km) lại có một chặng dừng lại nghỉ ngơi uống nước. Chính các bạn có xe đạp đã đi trước , lien hệ với các nhà dân dọc đường để đun nước phục vụ cho cả đoàn. Vừa đi, vừa nghỉ như thế, đến trưa chúng tôi cũng đến quê Bác ( cách Đức Thọ khoảng 25 km).
Ở quê Bác chúng tôi thăm ngôi nhà 5 gian Bác sống thời thơ ấu ở làng Kim Liên,  ngôi nhà 3 gian bên quê ngoại Hoàng Trù, nơi Bác ra đời. Các cán bộ quản lý ở đây đã kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện cảm động về hai lần Bác về thăm quê. Lần thứ nhất vào ngày 16-6-1957 và lần thứ hai vào ngày 9-12-1961. Chúng tôi được xem chiếc khung cửi bà Hoàng Thị Loan từng dệt vải ngày xưa, xem chiếc võng gai Bác Hồ lúc nhỏ thường nằm, xem bộ phản gỗ ngày xưa cụ Nguyễn Sinh Sắc thường tiếp khách là những chiến sỹ cách mạng như Phan Bội Châu, Vương Thúc Quý, Đặng Nguyên Cẩn, Đặng Thái Thân, Tăng Bạt Hổ….chiếc án thư để đọc sách và uống trà, chiếc rương gỗ để đựng thóc, tủ để chén bát và chiếc mâm gỗ sơn son đã cũ sờn.
Chúng tôi còn muốn ở đây thật lâu nữa với tình cảm quyến luyến chẳng muốn rời chân. Nhưng chặng đường phía trước còn dài, không được phép dừng ở đâu lâu. 5 giờ chiều nắng đã nhạt, chúng tôi rời quê Bác lên đường. Đêm ấy, chúng tôi dừng lại mghỉ ở một ngôi trường cấp 2 thuộc huyện  Hưng Nguyên. Từ đây về Vinh còn khoảng hơn 1 giờ đi bộ nữa.
Sáng hôm sau,chúng tôi dậy sớm lên đường. Đến thành phố Vinh, địa điểm đầu tiên mà chúng tôi đến thăm là ngôi mộ của Đội Cung ( Nguyễn Văn Cung). Vào đêm 13-1-1941, Đội Cung đã cầm đầu quân sỹ nổi dậy chiếm đồn chợ Rạng ( Thanh Chương) rồi kéo sang chiếm đồn Đô Lương, sau đó kéo vào Vinh định chiếm tỉnh lỵ Nghệ An. Nhưng thực dân Pháp đã kịp thời đem quân đàn áp, dập tắt cuộc khởi nghĩa. Đội Cung và 10 thủ lĩnh nghĩa quân đã bị bắt và bị xử tử hình. Chúng tôi đứng quanh ngôi mộ của Đội Cung, nghe thầy giáo dạy sử kể về cuộc khởi nghĩa Đô Lương và cái chết bi phẫn của người thủ lĩnh nghĩa quân mà  lòng bồi hồi cảm khái, nghĩ về những ngày đất nước còn đăm chìm trong vòng nô lệ…
Rời ngôi mộ của Đội Cung chúng tôi đến Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh ở trung tâm thành phố Vinh. Bảo tang Xô Viết Nghệ Tĩnh được khánh thành ngày 15-1-1960, nằm trong khu thành nội, trên khu vực nhà lao Vinh trước đây. Chính nơi đây , trong thời thuộc Pháp là nơi giam cầm các chiến sỹ Xô Viết Nghệ Tĩnh bị giặc bắt. Bảo tàng Xô Viết Nghệ Tĩnh gồm 10 phòng khép kín lien hòan giới thiệu toàn bộ diễn biến của phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931, từ khởi đầu cho đến khi bị dập tắt. Ở đây có nhiều hiện vật gốc có giá trị như những chiếc trống Xô Viết, phương tiện  hữu hiệu để tập hợp đấu tranh, những giáo mác, gậy tầm vông, vũ khí trang bị của đoàn biểu tình, cơ sở in ấn tài liệu tuyên truyền của Đảng…
Ăn trưa xong,giữa cái nắng gay gắt tháng 5 của thành phố Vinh, chúng tôi đi bộ về phía Nam, sang phà Bến Thuỷ, hành quân về Tiên Điền quê hương Nguyễn Du.
Tại Tiên Điền, chúng tôi vào thăm nhà thờ Nguyễn Du, một nếp nhà đơn sơ như bao ngôi nhà thờ khác ở vùng quê tôi. Một cụ già vận áo nâu đã bạc, chiếc quần nâu mới nhuộm màu vàng hoe, là con cháu trực hệ của Nguyễn Du, giữ hương hoả nhà thờ mở cửa tiếp đoàn. Nhà thờ bày biện sơ sài, chỉ có bức hoành phi nghe nói là tặng vật của nguyễn Du thời ông đi sứ sang Trung Hoa (1813) là quý giá. Rồi cụ dẫn đoàn ra thăm mộ Nguyễn Du. Đi qua một lùm cây rậm ở bên kia đường, nơi có một gò cao, cụ trỏ bảo : “Trước đây, mộ cụ ở gò cao kia. Nhưng sau đó con, cháu lại chuyển về chân núi Hồng lĩnh, tức là vị trí hiện nay”. Chúng tôi lại đi tiếp khoảng một cây số đường mòn cát bụi nữa thì đến một vùng “ cát vàng cồn nọ, bụi hồng  dặm kia”. Một nấm đất nhỏ như bao nấm đất khác, thậm chí không có lấy một tấm bia. Vì là đất cát cằn khô nên cỏ trên mộ nửa vàng nửa xanh, đầu lá bị cháy quắt lại, thật đúng như câu thơ của Nguyễn Du tả mộ Đạm Tiên:
Sè sè nấm đất bên đường
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh
Thầy trò chúng tôi thắp hương cắm lên mộ, kính cẩn đứng vòng trong vòng ngoài , kính cẩn cúi đầu trước anh linh Đại thi hào dân tộc . Đã 5 giờ chiều, mặt trời xế về tây, khuất lấp dưới núi Hồng Lĩnh. Một cái gì quá đỗi đơn sơ, quá đỗi hiu hắt, khiến ai nấy se lòng. Nơi yên nghỉ của Đại thi hào dân tộc, của tác giả truyện Kiều bất hủ lại như thế này ư ?
Nghe nói vào năm 1957, có một đoàn làm phim Liên Xô định về thăm và quay phim về Đại thi hào Nguyễn Du , về nhà thờ và phần mộ ông, nhưng vì phần mộ đơn sơ quá, ta “không nỡ” , mới đành từ chối khéo. .
Tối hôm đó, chúng tôi nghỉ lại Tiên Điền để ngắm cảnh rừng phi lao dạt dào gió biển và cảnh “ Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa” . Đó là cảnh biển Cửa Hội “ Đan Nhai quy phàm” (1) một cảnh đẹp trong “ Nghi Xuân bát cảnh” được văn chương truyền tụng.
Sáng hôm sau chúng tôi ra bờ phi lao ngắm cảnh biển lần cuối cùng rồi vội vàng từ giã Tiên Điền: 40 cây số từ Tiên Điền về Đức Thọ đang chờ đợi chúng tôi ở phía trước. Ba giờ chiếu, đoàn về tới trường. Không ai bị rớt lại, không ai bỏ dở dọc đường. Chúng tôi không ngờ rằng đây là chuyến tham quan quy mô nhất của thầy trò Trường cấp 3 Trần Phú. Rồi chúng tôi ra trường. Các lứa học sinh sau này cũng không thể tổ chức được một chuyến đi như thế nữa. Bởi vì năm sau (1964) đế quốc Mỹ bắt đầu mở cuộc chiến tranh phá hoại đánh ra Miền Bắc. Vùng “Cán xoong” Nghệ Tĩnh càng ngày càng bị đánh phá ác liệt. Lớp học sinh đàn em của tôi, dẫu có mong ước được đi bộ một chuyến để đến thăm quê Bác, quê hương Nguyễn Du cũng không thể thực hiện được. Hàng ngày, thầy và trò vừa học vừa thay nhau lên trận địa phòng không phục vụ chiến đấu. Nhiều thế hệ giáo viên, học sinh lên đường nhập ngũ và không bao giờ trở về nữa.
Chớp mắt đã gần 50 năm. Chiến tranh đã lùi xa. Đất nước đã có nhiều đổi mới. Vinh đã trở thành một thành phố khang trang. Cầu Bến Thuỷ đã được xây dựng nối đôi bờ sông Lam. Nhà thờ Nguyễn Du đã được trùng tu. Lăng mộ của Đại thi hào cũng đã được tôn tạo, ốp đá bề thế. Tua du lịch từ thành phố Vinh đi quê Bác, Cửa Lò, Cửa Hội, Khu lưu niệm Nguyễn Du sẵn sàng đón khách với phương tiện tốt nhất. Chợt nhớ lại ngày cả thầy và trò đi bộ ngót 100 cây số để thực hiện một chuyến tham quan du lịch đặc biệt , cứ tưởng như chuyện cổ tích. . .

ĐÓN TẾT GIỮA RỪNG VIỆT BẮC
Chúng tôi, lớp Trắc địa K9 ( K9: Khóa thứ 9 của Bách khoa; còn  gọi là lớp Trắc lượng 64, 1964 là năm nhập trường) được về một bản nhỏ có tên là Nà Kéo, thuộc xã Kháng Chiến, huyện Tràng Định. Bản nằm bên sông Kỳ Cùng. Ban đầu anh em ở nhờ nhà dân, hàng ngày lên rừng lấy gỗ, tre, nứa, lá về làm nhà ở, hội trường, lớp học, nhà ăn, câu lạc bộ. . .Gỗ, tre, nứa, lá, không thiếu. Đặc biệt là vầu rất nhiều. Nhà ở của chúng tôi tương đối chu tất. Chúng tôi dựng một dãy nhà dài năm gian, mỗi gian chỉ ở bốn người, ai hợp với nhau thì tự chọn ở với nhau. Lại dựng cho các bạn nữ một căn nhà riêng cách không xa nhà ở của nam để các bạn được tự do thoải mái (cách không xa để các bạn khỏi sợ).
Chẳng mấy chốc mà đã tới Tết Nguyên đán. Đây là thời kỳ địch đánh phá mạnh, đường sắt, đường bộ đều bị hỏng, đi lại rất khó khăn. Vì vậy nhà trường chủ trương ăn Tết tại chỗ. Chỉ một số ít bạn gia đình ở Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang mới được về. Để đảm bảo một cái Tết vui vẻ, nhà trường đã lo cho học sinh rất chu đáo. Từ 24- 25 tháng Chạp, một chiếc bè nứa to , bơi xuôi theo sông Kỳ Cùng cập  bến các nhà ăn của các khoa, cung cấp gạo nếp, kẹo bánh, thuốc lá tiêu chuẩn Tết của sinh viên. Chúng tôi phân công nhau vào rừng lấy lá dong, tìm hoa đào, chặt tre kết cổng chào đón Tết. Mọi sự chuẩn bị thật rộn ràng. Ở một thửa ruộng ngay đầu bản, đoàn thanh niên khoa kết hợp với chi đoàn địa phương dựng một cây đu rất đẹp. Cây đu có sáu cột cao, trên đỉnh cắm một lá cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới. Không khí Tết lại càng náo nức.
Chiều 30 Tết , một đoàn đại biểu dân bản gồm các pá (bố) các mế (mẹ) các noọng(em gái) mang quà bánh ra úy lạo chúng tôi. Các pá, các mế cũng có con cháu đang công tác hoặc đang cầm súng chiến đấu xa nhà nên rất thương chúng tôi, coi chúng tôi như con, hỏi han han hoàn cảnh gia đình, điều kện ăn ở. . .tình cảm thật đầm ấm, cảm động. Chúng tôi như được sống lại trong tình cảm chan hòa giữa miền ngược, miền xuôi, giữa cán bộ và nhân dân như trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu. . .
Đêm giao thừa, tất cả sinh viên và thanh niên địa phương tập trung tại Câu lạc bộ.  Ở đây có tổ chức các trò chơi như tú lơ khơ, cờ tướng, cá ngựa. . .và cả một số trò chơi có thưởng như “ném đầu giặc Mỹ”. Một bức tranh vẽ một tên Mỹ miệng há to, răng lởm chởm. Người chơi đứng cách xa 5 mét, ném quả bóng bàn vào miệng tên Mỹ, ai ném quả bóng lọt vào miệng là được thưởng. Giữa Câu lạc bộ là một cành đào lớn , rất đẹp mà chúng tôi đã công phu tìm cắt từ rừng về. Trên cành đào cài những mảnh giấy nhỏ, ghi các từ thông dụng như: tu mu (con lợn), tu ma (con chó), kin khẩu (ăn cơm), kin nậm(uống nước). . .người chơi lên rút mảnh giấy nhỏ và dịch ra tiếng phổ thông. Ai dịch được 70- 80 % số từ là đạt yêu cầu, được thưởng. Đây là một trò chơi bổ ích và lý thú, giúp cho anh em học thêm được nhiều tiêng Tày, công cụ giao tiếp với đồng bào dân tộc, rất cần thiết với sinh viên lúc bấy giờ.
Ngày mồng 3 Tết, đội bóng sinh viên thi đấu với đội tuyển thanh niên địa phương. Tuy là những cầu thủ chân đất nhưng cũng cống hiến cho người xem những pha đẹp mắt. Tối mồng 3, Khoa Mỏ tổ chức liên hoan văn nghệ tự biên, tự diễn tại hội trường Bản Bon. Hôm ấy trời mưa dầm, đường dốc rất trơn nhưng sinh viên và dân bản đốt đuốc đi xem rất đông, chật kín hội trường. Chi đoàn Trắc địa K9 chúng tôi cống hiến một vở kịch ngắn do anh Đặng Hùng Võ (1) sáng tác, có tên là “Ông Táo lên trời”. Năm hết Tết đến, Táo sinh viên lên báo cáo với Ngọc Hoàng tình hình lao động, làm lớp, làm trường, tình hình khắc phục khó khăn của anh em trong hoàn cảnh sơ tán. Anh Dư, anh Hợi đóng vai Táo, tôi được phân công đóng vai Ngọc Hoàng, đội mũ mang râu kín mặt. Các lời thoại và các động tác kịch, đa phần do các ông Táo thể hiện, tôi chỉ biết vuốt râu và phán : “các ngươi bình thân” hoặc  “Ta chuẩn tấu” ấy thế mà mấy hôm sau vào bản ai cũng nhận ra tôi và chào vui : “Chào ông Ngọc Hoàng” . Ba ngày Tết trôi qua rất nhanh. Ngày mồng 4 Tết, những người được phép về ăn Tết ở nhà cũng đã lục tục đến. Hôm sau lại cắp sách đến lớp, vùi đầu vào học tập.
Từ ấy đến nay đã gần nửa thế kỷ trôi qua, nhưng mỗi dịp Tết đến Xuân về, tôi vẫn không nguôi nhớ về cái Tết năm ấy. Cái Tết đầu tiên xa nhà, cái Tết đầy ý nghĩa giữa lòng Việt Bắc, quê hương cách mạng. Nếu không có những năm tháng hào hùng của dân tộc, dễ gì được ăn những cái Tết như thế.
Chú thích: (1):  Anh Đặng Hùng Võ sau này là GS TSKH, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường.
*                                                                         

 



TẾT NĂM ẤY CHÚNG TÔI MỪNG THỌ CHA 80 TUỔI

Tết Mậu Thìn ( 1988) anh chị em chúng tôi tổ chức mừng thọ cha 80 tuổi. Cha mẹ tôi sinh được 5 anh chị em chúng tôi. Hai chị đầu lấy chồng ở quê, đã con đàn cháu đống. Anh tôi là con thứ 3 nhưng kể con trai thì là con cả. Tôi là con thứ 4. Sau tôi còn một chú em là liệt sỹ. Em tôi nhập ngũ năm 1969, đến năm 1972 thì hy sinh. Giấy báo tử chỉ ghi vẻn vẹn: “ Hy sinh tại mặt trận phía Nam”.

    Quê tôi là một vùng quê giàu truyền thống học hành, thi cử. Các bậc túc nho xưa cho rằng đó là do được chung đúc khí tốt của non sông :
          Trà, Sạc thiên thu chung tú khí
           Lam ,Hồng vạn cổ tráng long cơ
  ( Trà Sơn, Sạc lĩnh chung đúc khí tốt nghìn năm
     Sông Lam, núi Hồng vạn cổ cơ đồ hưng thịnh).
    Các bậc tiền nhân xưa như Phan Kính, Nguyễn Huy Oánh , hai vị đỗ Đình nguyên Thám hoa hai khoa thi liên tiếp nhau vào thời Lê, hiện tên còn đứng đầu trong văn bia ở Văn Miếu, Hà Nội. Rồi La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, bậc thầy của vua Quang Trung. Rồi nhà thơ Nguyễn Huy Tự với truyện Hoa Tiên, Nguyễn Huy Hổ với Mai Đình mộng ký… Một vùng quê giàu truyền thống văn học với bản sắc riêng mà nhiều người gọi là Hồng Sơn văn phái. Noi gương các bậc tiền bối, ngày nay con cháu cũng rất yêu văn chương. Quê tôi có câu lạc bộ thơ Lam Kiều lấy tên một nhà hoạt động cách mạng thời kỳ 1930-1931, tập hợp những trí thức, những nhà giáo về hưu yêu thơ. Vì vậy mà có những sự kiện gì đặc biệt ở quê, đều có thơ. Lần này cũng thế. Biết chúng tôi tổ chức mừng thọ cha, từ 27-28 tết, các “ nhà thơ” địa phương đã tìm tòi ý tứ,  gọt giũa ngôn từ , làm thơ mừng thọ cha tôi. Hai ngày mồng 1, mồng 2 tết, từ sáng đến khuya lúc nào khách cũng đầy nhà. Mồng 3 tết, rải rác còn khách ở xa, biết tin sau đến muộn. Chị dâu tôi tất bật suốt ngày. Còn anh em tôi thì chỉ việc ngồi tiếp khách cùng cha.
    Cha tôi sinh năm 1908. Theo lời kể của các bậc già cả trong làng thì năm 1930, trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, cha tôi đã tham gia một cuộc biểu tình rầm rộ vào huyện lỵ Can Lộc. Cuộc biểu tình đó, sau này đọc sử tôi được biết, diễn ra vào ngày 22-12-1930 và bị giặc xả súng đàn áp dã man, 42 người đã hy sinh. ( Ngày nay ở thị trấn Can Lộc đã xây dựng tượng đài  kỷ niệm những người hy sinh trong cuộc biểu tình này). Năm 1945, cha tôi vào Đảng rồi tham gia cướp chính quyền ở địa phương. Trong cải cách ruộng đất, gia đình tôi thuộc thành phần trung nông, không được chia thêm ruộng nhưng cũng không bị bớt đi. Năm 1956, sau sửa sai, cha tôi được bầu vào huyện uỷ Can Lộc, phụ trách công tác Mặt trận cho đến lúc về hưu ( 1968). Về quê, ông tham gia công tác và sinh hoạt tại chi bộ địa phương. Vì vậy mà trong thơ mừng thọ của chi bộ có câu:
               Công tư vẹn cả tình non nước
               Sự nghiệp hoàn thành, nghĩa Đảng- dân.
    Hội hưu trí thì mừng thọ bằng câu đối , cũng có ý mừng cha tôi đã hoàn thành nghĩa vụ với Đảng , với dân, để lại một tấm gương cho lớp con cháu hậu sinh :
    Tám chục mùa xuân rạng rỡ, nghĩa Đảng lo tròn, guốc xuân trở lại vườn Chu tử
    Trăm năm trong cõi vẻ vang, tình dân giữ vẹn , nhân quả lưu truyền lớp hậu sinh.
    Trong dòng họ, cha tôi là tộc trưởng của một chi họ Phan. Dòng họ cũng mừng thọ một đôi câu đối , ca ngợi sự sum vầy đoàn tụ, hạnh phúc của tuổi già:
     Xã hội buổi thừa hoan, ông đến 80, lan quế sum vầy vui cảnh Tết
     Họ hàng ta phấn khởi, bà vừa 77, lý hoè đoàn tụ một nhà Xuân .
    Dượng Thắng, chồng của dì tôi (dì là em ruột mẹ tôi) , gọi cha mẹ tôi bằng anh, chị thì mừng một bài thơ:
      Xuân đến mừng Anh , tuổi tám mươi
      Mừng chung song thọ cả hai người
      Trai quý gái hiền không mấy kẻ
      Dâu hiền rể thảo được như lời
      Cháu chắt hân hoan mừng thọ cố
      Phúc nhà ơn Đảng ,hưởng lộc trời
    Bài thơ kết bằng câu :
      Mừng Anh tuổi thọ, càng thêm thọ
      Chúc Chị mười mươi , vẹn cả mười
    Ông Phan Mạnh, giáo viên cấp 3, một người họ xa, gọi cha tôi bằng bác, đọc một bài thơ :
       Bát tuần song thọ thế gian hy
       Mừng bác xuân nay đã tới kỳ
       Tóc bạc, da hồng, khôn kẻ sánh
       Mắt tinh, tai tỏ, ít ai bì
      Vừa nghe đến câu ấy, cha tôi nói :
    –  Cháu sửa lại cho bác đi, chứ ai lại 80 tuổi rồi mà còn “ Mắt tinh tai tỏ ít ai bì” . Mắt bác còn thấy, tai còn nghe được là quý lắm rồi, chứ còn dám so sánh với ai .
    Ông Mạnh lễ phép thưa:
    –  Thưa bác, bác năm nay đã 80 tuổi rồi mà hàng ngày còn đọc sách và làm các việc khác , như thế cũng là hiếm. Cháu nói “ít ai bì” là ý nói đến tuổi 80 mà còn minh mẫn được như bác, hỏi có mấy ai được như thế, chứ không có ý so sánh với lớp trẻ. Rồi ông đọc tiếp :
       Hiếu trung hai chữ, lời vàng để
       Cần kiệm đôi đường tiểu sử ghi
       Nâng chén quỳnh tương mừng thọ khánh
       Lòng thành con tặng khúc Đường thi
    Năm ấy, quê tôi mới mắc điện. Điện lưới quốc gia đã về đến từng gia đình. Ánh điện sáng trưng, từ nhà hắt ra ngõ, bà con rất phấn khởi. Ông Trần Hữu Du, một cựu chiến binh, đã kịp thời “phản ánh” sự kiện này trong thơ mừng thọ cha tôi:
       Tám chục xuân thu đang vận hội
       Trăm năm trong cõi, vẫn đương thời
       Nhà cao , điện sáng, nhờ ơn Đảng
       Quạt gió, đèn trăng, cậy của trời

     Rồi ông kết bài thơ bằng câu :
        Lộc nước , phúc trời, vui tuế nguyệt
        Cháu con thành đạt, cũng ngang người
     Vừa đọc đến đây, anh tôi vội góp ý :
      –  Câu kết nghe cứ ngang ngang. Vả lại , có vẻ vỗ ngực tự cao, thiếu khiêm tốn. Mong nhà thơ sửa lại cho, chứ nếu không thì sợ mang tiếng.
     Ông Du nói :
      – Anh em các ông học hành , đỗ đạt cũng thuộc vào loại sớm ở quê ta, kể từ sau ngày hoà bình lập lại (1954) . Các cháu nội ngoại cũng học hành nên người cả. Tôi nói “ngang người” chứ có nói “hơn người” đâu mà ông sợ là tự cao, tự đại.  Tranh luận mãi, cuối cùng “ nhà thơ” chỉ đồng ý sửa từ “ngang người” thành “bằng người” mà thôi.
     Ông Nguyễn Huy Năm, một giáo viên về hưu, là hậu duệ đời thứ 4 của Nguyễn Huy Tự, cháu trực hệ  3 đời của Nguyễn Huy Hổ. Ông  đến mừng thọ cha tôi , nhấp một chén rượu, xong mượn giấy bút viết ngay một mạch :
        Xuân về mừng cố 80 Xuân
        Hưởng lộc trời cho đủ mọi phần
        Hai cố hãy còn bền  sức lực
        Cháu con rạng rỡ, đẹp tinh thần
        Công dân muôn vẻ tròn như một
        Nghĩa Đảng trăm bề vẹn cả trăm
    Tôi rất thích câu kết của ông :
        Vững bước trường sinh, cần hai cố
        Đài gương bóng toả, thọ thêm tuần.

Cố Phước ( quê tôi gọi người già cả bằng cố, tương đương như “cụ” ở miền Bắc) một hậu duệ đời thứ 7 của Đình nguyên Thám hoa Phan Kính. Tuổi cố cùng lớp tuổi cha tôi, tóc bạc phơ như cước. Cũng như cha tôi, cố là một trong số ít người hiếm hoi ở quê tôi còn thông hiểu chữ Hán. Cố mừng cha tôi bằng một bài thơ theo lối cổ thi, dùng nhiều ngôn ngữ, điển tích xưa như “tam dương khai thái” , “áng xuân đài” , “đài thọ vực”. . . mà bây giờ không ai dùng nữa, lớp hậu sinh như chúng tôi cảm thấy rất lạ lẫm :
   Vừa gặp hội tam dương khai thái
        Ánh thiều quang phơi phới khắp sơn hà
        Muôn cỏ cây đều nở lộc khai hoa
        Dân trăm họ ơn nước nhà giàu mạnh
        Mừng hai cố bát tuần thọ khánh
        Hội thăng bình dốc chen thừa hoan
        Trước thềm lai lấp lánh vẻ y ban
        Trên bầu lý quế non yên hiến thọ
        Sách có chữ “hữu phụ từ tất hữu hiếu tử”
        Có dâu hiền lại có rể thảo song song
        Lúc đương niên gánh vác việc non sông
        Trung với Đảng, hiếu với dân tròn hai chữ
        Về hưu trí nghỉ ngơi nhàn hạ
         Áng xuân đài thượng thọ bước lên
         Cuộc khánh diên đốt pháo kéo đèn
         Trời ban tuổi, nước ban thêm hưu bổng
         Đài thọ vực dần dà thủng thẳng
         Tám chin mười vô hạn biết bao la
         Gồm hai phúc lộc một nhà .
     Ông anh vợ tôi , anh Đôn Văn Biên ,từ Vĩnh Phúc xa xôi cũng gửi thơ vào mừng thọ theo đường bưu điện, làm cha tôi rất cảm động . Thơ anh có những câu :
          Đón Xuân mừng thọ ấm tuổi già
          Nghe lòng rộn rã tiếng chim ca
          Riêng chung vành vạnh tròn mơ ước
          Một gốc bao cành đỏ thắm hoa
.
          Vĩnh Phúc đường vào Hà -Tĩnh xa
           Tứ thơ xin kết một nhành hoa
           Chúc mừng hai cụ dư trăm tuổi
           Ngũ phúc lâm môn rạng vẻ nhà .
    Và còn nhiều nữa, không thể kể hết. Riêng thơ của con cháu nội ngoại mừng thọ ông bà cha mẹ, tôi không dám ghi ra đây , sợ mang tiếng “ cha hát con khen”
     Mấy ngày Tết, nhà tôi treo đầy thơ và câu đối. Câu đối viết trên vải đỏ và giấy đỏ. Thơ viết trên giấy trắng, giấy hồng. Ai đến mừng thọ cũng đọc rồi bình thơ, hoặc góp ý sửa chữa một vài từ chưa chuẩn, hoặc lấy giấy bút làm thơ, làm câu đối. Ba ngày Tết, nhà tôi như một câu lạc bộ, không khi nào vắng khách. Tưởng chừng như được sống lại không khí văn chương thời Tú Xương, Nguyễn Khuyến. Chúng tôi đều mệt nhưng rất vui. Niềm vui pha lẫn chút tự hào. Bởi không mấy ai mừng thọ cha mà được nhiều người tặng thơ đến thế. Quý lắm. Quý ở tình làng nghĩa xóm đối với cha tôi, đối với đại gia đình chúng tôi. Tình cảm đó không thể lấy tiền bạc mà mua được.
     Tối mồng ba Tết, khi đã vãn khách, tôi thức khuya đến 12 giờ đêm, ngồi chép lại toàn bộ thơ và câu đối vào một cuốn sổ, cất đi để làm kỷ niệm. Sáng hôm sau, mồng 4 Tết, bố con tôi đã phải dậy sớm , ra đường 1 để bắt xe về Hà Nội. Sáng mồng 5, tôi đã phải đến cơ quan, còn con trai đã phải đến trường. ..
*

 

 

 

NHỮNG CUỐN SÁCH CỦA TÔI

Tôi chưa bao giờ có ý định viết sách. Cho đến nay, tất cả các cuốn sách của tôi đều do tập hợp các bài báo mà thành. Tôi tham gia viết báo từ đầu những năm 1990. Thuở đầu tiên ấy, tôi thường viết bài cộng tác với tạp chí Thế giới mới ở mục Nhìn lại lịch sử và tạp chí Thế giới trong ta ở mục Tâm lý xã hội. Mỗi tháng cũng viết được đôi ba bài, nếu tập hợp trong mấy năm lại thì cũng tương đối nhiều.
Một lần vào hiệu sách Tràng Tiền, thấy có cuốn sách mới in, giở ra xem thì thấy trong đó có mấy bài của mình được chọn in vào sách. Chợt nghĩ,người ta sưu tầm bài của mình để in thành sách, vậy tại sao mình không tập hợp lại để in sách của chính mình. Nghĩ thế nhưng không biết muốn in sách thì phải bắt đầu như thế nào, gặp gỡ, làm việc với ai.
Cho đến năm 2002, Tiến sĩ Lã Duy Lan qua đọc báo gặp rất nhiều bài viếtcủa tôi, thấy cũng có cách viết “Nhìn lại lịch sử” giống như phong cách viết của ông ấy. Thế là ông rủ tôi cùng Tiến sĩ Đinh Công Vĩ tập hợp các bài viết lại để in một cuốn sách chung. Đó là cuốn Nhìn lại lịch sử (Nxb Văn hoá – Thông tin, 2003) . Sách đóng bìa cứng trang trọng, dày đến gần 1.200 trang in khổ lớn 14,5 x20,5 . Thật ra, với độ dày như trên ,mỗi tác giả có thể in được một cuốn sách riêng, nhưng các ông ấy bảo rằng phải in chung thành một cuốn sách dày cho có bề thế mới gây ấn tượng. Đây là cuốn sách mở đầu cho “phong trào” làm sách dày, sách khủng sau này. Trong cuốn sách trên, mỗi người đóng góp khoảng 30 bài viết. Riêng phần tôi , đó chính là những bài mà tôi tâm đắc nhất trong hàng chục năm cộng tác với tạp chí Thế giới mới ở mục Nhìn lại lịch sử.
Cuốn sách thứ 2 của tôi có tên là Lịch sử và sự ngộ nhận (Nxb Từ điển Bách khoa, 2008) sách dày 390 trang mà trọng tâm là những bài phản biện của tôi trước những hiện tượng ngộ nhận và cả mạo nhận trong Lịch sử. Đây là tập hợp những bài viết của tôi đã in trên các báo, tạp chí: Thế giới mới, Thế giới trong ta, An ninh thế giới, Khoa học và đời sống, Xưa và Nay từ khoảng năm 2003 cho đến lúc ấy. Cuốn sách ra đời được bạn đọc gần xa đón nhận. Các thư viện lớn trong nước đều có. Truy cập vào mạng thấy sách còn xuất hiện trong Thư viện Quốc gia Australia, Thư viện Quốc hội Mỹ và Thư viện Mở ( Open Library ) . Đang đà thuận lợi, tôi gửi một lúc hai bản thảo đến Nxb Lao động. Cả hai bản thảo đều được dùng, đó là cuốn Nhìn về thời đại Hùng Vương dày 254 trang tập hợp toàn bộ các bài viết của tôi về thời đại Hùng Vương từ trước đến nay . Và cuốn thứ 2, Trải nghiệm đờì người dày 224 trang, tập hợp toàn bộ các bài viết của tôi về đề tài Tâm lý xã hội. Cả hai cuốn đều được Nxb Lao động in đồng thời và phát hành trước sau co mot tuan
Năm 2010, Trung tâm văn hoá Tràng An lại in cho tôi cuốn Từ điện Kính Thiên triều Lê đến Tổng Hành dinh thời đại Hồ Chí Minh (Nxb Dân trí) , dày 280 trang, tập hợp tất cả các bài viết đã in trên các báo, tạp chí về đề tài Thăng Long- Hà Nội. Cuốn sách này được Tiến sĩ Đinh Công Vĩ viết lời bạt.
Còn nhớ, trước đây tôi chỉ mong in được một cuốn sách để lại cho đời. Nay gia tài đã có được 5 cuốn . Thật là ngoài sự mong đợi. Nếu chúng ta biết rằng, sách  nghiên cứu rất khó in, khó bán, nhiều người phải tự bỏ tiền ra in, rồi tự phát hành (tức là phải tự tìm đầu ra) hoặc phải chạy vạy tìm nhà tài trợ (của các cá nhân hoặc đơn vị ), đằng này bản thân không mất đồng nào, không phải tính toán gì, lại còn được hưởng nhuận bút và sách biếu, hỏi không mừng sao được.
Mỗi một cuốn sách ra đời sẽ có một đời sống riêng, ngoài ý muốn của tác giả. Số phận các cuốn sách của tôi sau này sẽ như thế nào, tôi không thể biết được .Người viết không mong gì tiền tài, địa vị, danh vọng, chỉ mong mỏi một điều là truyền được những điều mình tâm huyết đến với bạn đọc. Trong hàng ngàn người đọc, chỉ cần đôi ba người hiểu được điều mình muốn gửi gắm, tâm huyết với điều tác giả từng tâm huyết, như thế cũng đã hạnh phúc lắm rồi.
Đó là đôi điều tác giả muốn bộc bạch khi viết những dòng tâm sự này.
Hà Nội những ngày cuối năm 2010
*






TẠP CHÍ THẾ GIỚI TRONG TA GIỚI THIỆU SÁCH “TRẢI NGHIỆM ĐỜI NGƯỜI” của Phan Duy Kha ( Bài viết này đã được đăng trên tạp chí Thế giới trong ta số 343 ra tháng 12- 2009)
Bạn đọc gắn bó với TGTT từ lâu chắc không quên được khoảng thời gian từ 1995- 2003, xuất hiện rất nhiều bài viết của Phan Duy Kha về đề tài tâm lý xã hội như: Dại và khôn; Tản mạn về khen và chê; Rủi may và số phận; Tản mạn về giàu và nghèo; Lòng vả cũng như lòng sung; Lòng tham và tham nhũng; Con gà tức nhau tiếng gáyv.v. . .Có một điều đặc biệt là những bài viết đó của Phan Duy Kha đều được bạn đọc bình chọn là bài ưa thích nhất. Điều đó cho thấy rằng , bạn đọc TGTT rất quan tâm đến những bài viết của Phan Duy Kha và rất đồng tình với những vấn đề mà anh đặt ra.
    Mới đây, Phan Duy Kha đã sưu tập một số bài viết của mình đã từng in trên TGTT và đã từng được bạn đọc chú ý để in thành cuốn sách ” Trải nghiệm đời người” Cuốn sách thể hiện những suy nghĩ, trải nghiệm, cảm nhận của tác giả trước những vấn đề của xã hội, của con người; cho ta cách ứng xử đúng đắn trước những tình huống đặt ra trong cuộc đời. Tác giả không đao to ,búa lớn, lên lớp này nọ, mà thông qua trải nghiệm của bản thân mình, đưa đến cho bạn đọc một cái nhìn đúng đắn, một cách ứng xử đúng đắn. Bạn đọc từng tâm đắc với những nhận xét của anh, có tính chất như những câu châm ngôn về cuộc sống :Không ai mới sinh ra đã khôn. Người khôn là người biết đúc rút kinh nghiệm trong cuộc sống để tìm lấy cách xử lý đúng cho từng tình huống cụ thể” (Cảm nhận thời gian) ” Ai cũng có khuyết nhược điểm. Cần phải biết khắt khe với bản thân mình nhưng lại phải rộng rãi , độ lượng với mọi người. Tiên trách kỷ rồi mới đến hậu trách nhân. Điều đó giúp cho cuộc đời chúng ta tốt đẹp hơn, nhân ái hơn, ý nghĩa hơn,gắn bó hơn, ấm áp hơn giữa tình đồng loại” (Tản mạn về khen và chê) . ” Rủi và may hay hoạ và phúc, đó là sự ngẫu nhiên ở đời. Nhưng đối với những người có bản lĩnh thì trước những sự rủi ro đến với mình cũng không hề nản lòng, sự may mắn đến với mình cũng không hề phởn chí. Thắng không kiêu, bại không nản, đó là thái độ sống tự tin, bình tĩnh đón nhận cuộc đời, là ý chí vượt lên số phận” (Rủi may và số phận). Những câu châm ngôn đó có lẽ anh rút ra từ chính những trải nghiệm của cuộc đời anh, từ những kinh nghiệm sống của anh.
    Cuốn sách có thể nói là thành quả của Phan Duy Kha qua mười mấy năm cộng tác với TGTT, là “sản phẩm cây nhà lá vườn của TGTT. Đây là cuốn sách thứ ba của Phan Duy Kha được ra đời trong vòng hai năm qua, cùng với Trải nghiệm đời người là hai cuốn: Lịch sử và sự ngộ nhận (Nxb Từ điển Bách khoa, 2008) và Nhìn về thời đại Hùng Vương ( Nxb Lao Động, 2009) .
   Trải nghiệm đời người vừa mới ra đời đã được bạn đọc đón nhận và tìm đọc. Xin chúc mừng thành quả của một người gắn bó lâu năm với sự phát triển của TGTT và trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

LỜI TỰA CUỐN  “NHÌN VỀ THỜI ĐẠI HÙNG VƯƠNG”

Thời đại Hùng Vương, buổi bình minh của lịch sử dân tộc ta! Thuở ấy vua tôi cùng cày ruông, tắm sông, phong tục thuần hậu, chất phác với 18 đời cha truyền con nối.
 Hiên ngang thay, Phù Đổng diệt thù
Dũng cảm thay Sơn Tinh trị thuỷ!
Đẹp thay Chử Đồng Tử !Tình yêu như ngọc sáng gương trong.
 Giỏi thay Mai An Tiêm ! Lao động như dời non lấp biển.
 Vẻ vang 18 vương triều 
 Rực rỡ một thời thịnh trị 
Qua gian nan bao độ nổi chìm
Trải thử thách những hồi hưng phế
Chỉ công lao khai phá một thời kỳ
Mà ân đức trải dài trăm thế hệ !
( Chuc văn giỗ Tổ Hùng Vương- GS. Vũ Khiêu )
    Tiếc thay, thời đại ấy chúng ta chưa có chữ để chép thành văn (hoặc giả chưa phát hiện ra chữ viết)
    Tuy vậy 18 vương triều đó vẫn sống mãi trong truyền thuyết, trong lòng tự hào dân tộc của muôn lớp thế hệ con Lạc cháu Hồng. Với những truyền thuyết đẹp mà hào hùng, thời đại đó vẫn như hiển hiện trước mắt chúng ta.
    Tác giả không ngại tri thức nông cạn học vấn sơ thiển, hàng ngày vẫn suy nghĩ, nung nấu, tìm tòi để tìm cách giải mã những ẩn ý trong các  truyền thuyết , trong các lễ hội dân gian. Đây là tập hợp những bài viết của tôi trong mấy mươi năm trăn trở với đề tài này và đã được đăng rải rác trên các tờ báo, tạp chí trong nước. Cách hiểu của tôi có thể đúng, cũng có thể chưa đúng, cần phải trao đổi thêm. Nhưng đây là tấm lòng của một con dân đất Việt  trước ân đức khai sông mở núi của các bậc tiền nhân.
   Xin được bạn đọc cùng đọc và suy ngẫm.
   Xin cảm ơn Nhà xuất bản Lao Động đã tạo điều kiện cho cuốn sách này được ra đời và đến tay bạn đọc.
                                                                                        Hà Nội, tháng 7-2009
   (Trích trong cuốn “Nhìn về thời đại Hùng Vương” Nxb Lao Đông, Hà Nội, 2009,  tr 3,4)
*

 

TIẾP CÁC NHÀ BÁO ĐẾN PHỎNG VẤN VIẾT BÀI VỀ PHAN DUY KHA

Tôi viết báo kể cũng đã lâu, sách thì cũng đã in được dăm cuốn. So với các bậc “trưởng lão” thì chưa là gì nhưng so với bản thân thì đó cũng là một cố gắng lớn. Có một điều là, tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc nhờ người này, người nọ lăng xê tên tuổi của mình. Tôi hiểu, chất lượng bài viết mới là vấn đề mấu chốt. Người ta bốc anh lên tận mây xanh mà tác phẩm của anh chẳng ra gì thì chỉ gây phản tác dụng. Ngược lại, nếu bài viết tốt thì chẳng cần lăng xê gì người ta cũng tìm đọc. Hữu xạ tự nhiên hương mà. Nghĩ thế nên lòng tự nhủ lòng , hãy lặng lẽ đọc, lặng lẽ viết, chỉ mong sao ông Trời cho sức khoẻ và sự minh mẫn để mà viết là hạnh phúc rồi.
    Bỗng nhiên có một lần, trong hòm thư điện tử của con trai tôi có một tin nhắn lạ, làm cả nhà bất ngờ và ngạc nhiên: “Tôi là Nhật Minh ở báo Khoa học & Đời sống. Xin anh vui lòng cho xin số điện thoại của chú Phan Duy Kha, tôi muốn viết một bài Trò chuyện với chú. Xin chân thành cảm ơn.” (Tin nhắn xuất hiện vào ngày 10- 8- 2009) . Con trai tôi đọc tin nhắn rồi hỏi ý kiến bố. Tất nhiên là tôi đồng ý, nhưng vẫn cứ thắc mắc trong lòng. Không hiểu Nhật Minh là ai, và làm sao lại biết hòm thư điện tử của con trai tôi. Trước đây, vào khoảng các năm 2002- 2005, tôi có cộng tác với báo Khoa học & Đời sống ở trang Khoa học Xã hội và Nhân văn. Nhưng từ khi tờ báo bỏ trang chuyên mục này thì tôi không cộng tác nữa. Từ đó đến nay cũng đã 5 năm rồi. Hồi đó người trực tiếp nhận và biên tập bài vở của tôi là Phóng viên Tú Anh, và người phụ trách bộ phận này là nhà báo Nguyễn Như Mai. Bây giờ, Tú Anh đã chuyển sang báo Phụ nữ Thủ đô, còn nhà báo Như Mai thì đã nghỉ hưu rồi. Còn Nhật Minh thì chưa từng tiếp xúc. Con trai tôi đã cho số điện thoại qua hòm thư điện tử (mail) . Hôm sau, Nhật Minh gọi điện thoại cho tôi. Tôi thắc mắc hỏi, sao cháu lại có Mail của con trai chú để hỏi số điện thoại. Nhật Minh trả lời : Trước đây chú đã từng gửi bài từ hòm thư này mà. Thì ra thế. Lâu quá rồi tôi quên mất .Vào khoảng 2004- 2005, tôi chưa lập hòm thư riêng. Vì vậy, các bài viết của tôi đều gửi qua hòm thư của con trai. Bây giờ, Nhật Minh muốn lien lạc nên đã lục tìm lại hòm thư cũ. Tôi hẹn Nhật Minh chiều 13- 8 thì đến làm việc.
     15 giờ ngày 13- 8 ,Nhật Minh đến. Sau khi phỏng vấn lấy tài liệu xong, tôi bảo: Nội dung mà các bài viết, các cuốn sách của chú đề cập đến thì nhiều. Một buổi làm việc thì không thể kể hết được. Tốt nhất là chú sẽ tặng cháu một số cuốn sách của chú để cháu đem về đọc thêm. Những vấn đề tâm huyết của chú đều gửi gắm trong ấy cả. Bèn đem tặng Nhật Minh cuốn Lịch sử và sự ngộ nhân in năm 2008 và cuốn Nhìn về thời đại Hùng Vương vừa kịp lấy về lúc sáng.
    Nhật Minh là một nhà báo làm việc rất bài bản, chuyên nghiệp. Một tuần sau, bản thảo viết xong, Nhật Minh đem đến cho tôi đọc để bổ sung ý kiến và sửa chữa. Cùng đi với Minh là Thu Hằng, phóng viên ảnh. Trong khi Nhật Minh làm việc với tôi thì Thu Hằng tìm các góc độ để chụp ảnh. Vì vậy mà ảnh chụp rất tự nhiên. Hầu như các bức ảnh tôi dùng sau này đều lấy từ những bức hình này. Nhân có cuốn Trải nghiệm đời người vừa mới in (cuốn này in sau cuốn Nhìn về thời đại Hùng Vương đúng một tuần) tôi liền tặng Minh và Hằng mỗi người một cuốn. Mấy ngày sau, Nhật Minh gửi bài viết đã sửa chữa cho tôi qua hòm thư điện tử để tôi xem lại một lần nữa. Xem xong, tôi sửa chữa đôi chút rồi gửi giả lại cho Minh. Ngày 15- 9- 2009, bài viết được đăng trên báo Khoa học & Đời sống ở trang 14, trong mục Trò chuyện với nhan đề Tôi mê lịch sử. Ngày 16- 9 bài này được lên mạng Bee. net .vn( Khoa học & Đời sống Online) với nhan đề Hiểu sử xưa mới ngẫm được những việc thời nay .
    Bẵng đi một năm sau, vào ngày 5- 10- 2010, tự nhiên tôi lại nhận được điện thoại của một người không quen biết : “ Cho cháu hỏi, đây có phải là nhà chú Kha không ạ , cho cháu gặp chú Kha” . Hỏi cụ thể thì được trả lời: “ Cháu là Hoàng Trung Hiếu, phóng viên báo Việt Nam News, cháu muốn viết một bài về chú, vậy có thể gặp chú được không ạ ?”. Tôi hẹn Hiếu vào chiều ngày hôm sau, ngày 6- 10.
    Sáng ngày 6- 10, may mắn làm sao, cuốn sách Từ điện Kính Thiên triều Lê đến Tổng Hành dinh thời đại Hồ Chí Minh do Trung tâm văn hoá Tràng An ấn hành đã in xong. Giám đốc Bùi Phúc Hải gọi điện mời đến lấy sách.
    15 giờ, phóng viên Trung Hiếu đến. Hỏi Hiếu sao biết số điện thoại của chú ? Hiếu cho biết hỏi qua Toà soạn báo Khoa học & Đời sống . Ở đấy, người ta giới thiệu gặp Nhật Minh (qua điện thoại) . Hỏi có quen biết Nhật Minh không, Hiếu trả lời là không. Cũng như Nhật Minh, Hiếu đặt một số câu hỏi rồi ghi chép các câu trả lời vào sổ . Sau khi làm việc xong, cũng như Nhật Minh, tôi đem tặng Hiếu một số sách để Hiếu tham khảo thêm. Đó là các cuốn: Lịch sử và sự ngộ nhân, Nhìn về thời đại Hùng Vương, Trải nghiệm đời người và cuốn sách mới lấy về là : Từ điện Kính Thiên triều Lê đến Tổng Hành dinh thời đại Hồ Chí Minh. Hiếu nói : Hay quá. Cháu đi tìm cuốn Lịch sử và sự ngộ nhận mãi mà không thấy. Sao chú không cho tái bản đi? Tôi trả lời: Cái đó thuộc quyền của Trung tâm văn hoá Tràng An và Nxb Từ điển Bách khoa chứ chú có muốn cũng chẳng được.
    Làm việc xong, Hiếu rút máy ảnh Kỹ thuật số ra chụp một số kiểu ảnh . Chụp xong, Hiếu hiển thị cho xem, có nhiều ảnh được. Không hiểu sao sau này khi chọn in lên báo, Hiếu lại chọn ngay bức ảnh mà tôi không thích một tý nào cả. Đó là bức ảnh chụp rất gần nên mặt tròn, trông quá béo, không thật. Nhưng việc đã rồi, biết sửa sao được.
    Bài báo của Trung Hiếu được đăng trên báo Việt Nam News  số Chủ nhật ngày 24- 10- 2010, ở trang 5. Việt Nam News  là tờ báo của Thông tấn xã Việt Nam bằng tiếng Anh phát hành ra nước ngoài. Đem nhờ cháu Hà hàng xóm dịch ra , đầu đề là: Người vẽ bản đồ giúp kết nối các mảng lịch sử.  Điều buồn cười là, hôm sau vào mạng (vietnamnews.vnanet.vn) , thấy bài viết này đã lên mạng, nhưng khi bấm vào chỗ dịch ra tiếng Việt, thấy cái tít đọc rất ngô nghê: Bản đồ giúp nhà chế tạo phần cùng lịch sử (!) Thật là kỳ quặc, chẳng có ý nghĩa gì. Máy dịch tự động mà.
    Xin cảm ơn Nhật Minh, cảm ơn Thu Hằng, cảm ơn Trung Hiếu, những nhà báo trẻ, đã tâm huyết với lịch sử dân tộc, tâm huyết với những tác phẩm của tôi. Các bạn đã tặng tôi những món quà quý giá và sự động viên lớn lao.
*

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 



NGƯỜI ĐAM MÊ LỊCH SỬ

 Bài viết này của nhà báo Nhật Minh đã đăng trên báo Khoa học & Đời sống  số 111 ra ngày 15-9- 2009, với tiêu đề :” Tôi mê lịch sử”. Ngày 16- 9 được lên mạng be e.net với nhan đề: “Hiểu sử xưa mới ngẫm được những việc thời nay”  (PDK).

SỬ CỦA TA CON NHIỀU CÁI CHƯA THỐNG NHẤT ĐƯỢC

Phan Duy Kha là một kỹ sư đo vẽ bản đồ, nhưng ông lại là tác giả của những cuốn sách nghiên cứu, đặt ra nhiều vấn đề về lịch sử. Ông được đánh giá là nhà nghiên cứu lịch sử có tính độc lập cao. Điều đáng nói là tất cả những thành tựu ông đạt được hôm nay đều là do tự học .

Đọc sử sẽ chiêm nghiệm được nhiều điều

– Ông là cộng tác viên của nhiều báo về mảng lịch sử, nhưng hình như đó lại là nghề tay trái?

Trước đây khi tôi còn công tác tại Viện Thiết kế, Bộ Vật tư (nay là Bộ Công Thương) thì nghiên cứu sử là nghề tay trái, nhưng từ khi về hưu đây là nghề tay phải rồi (cười). Hiện tôi cộng tác với Khoa học và Đời sống, tạp chí Xưa và Nay, Thế giới mới, Thế giới trong ta… Nhưng đúng là trong giới sử học tôi là dân nghiệp dư. Tôi chưa qua một trường lớp nào về sử cả, mọi kiến thức đều do mình tự học, tự đọc mà có.

– Tôi thấy sử rất khó đọc, phải có một nền kiến thức nhất định nào đó thì mới đọc được các sách sử, vậy ông có gặp khó khăn gì khi tự học như thế không?

Từ nhỏ tôi đã yêu thích lịch sử. Vì thích nên rất say mê và không thấy khó.Tuy nhiên mãi đến lúc ra công tác mới có thời gian đọc nhiều. Cứ 1-2 tuần tôi lại vaof thư viện mượn sách một lần, toàn sách sử. Là dân trắc địa công trình, đi đâu tôi cũng mang sách theo. Sách sử thì nhiều, cả sử của ta, cả sử của Tàu ghi về ta… Phải đọc nhiều thì mình mới có cái gì đó trong đầu, rồi từ đó đọc cái khác mới có những nhận định đúng sai, hay dở…

– Theo ông, đọc sử hay ở chỗ nào?

Lịch sử liên quan đến cả một triều đại, một đất nước. Đọc sử mình biết được thời nào tốt hay xấu, ảnh hưởng như thế nào tới sự phát triển của dân tộc… mình xem rồi chiêm nghiệm được nhiều thứ lắm. Thời vua nào chon được người hiền tài thì thịnh trị, ví như thời Lê Thánh Tông, hoặc nếu dựa vào người xấu, kẻ xu nịnh thì sẽ suy tàn. Hiểu được lịch sử thì mình mới ngẫm được những việc thời nay.

– Đã thích thế, sao ông không thi vào ngành sử?

Tại hồi đó có ấn tượng con trai học khối C cứ yếu ớt thế nào ấy nên tôi mới nộp đơn thi Bách khoa. Giờ nghĩ lại, thấy thế cũng có cái hay vì nếu học trong môi trường sử học chính quy, chắc chắn tôi sẽ bị ảnh hưởng của người này, người khác, chứ không có được sự độc lập như hiện nay.

LUÔN TỰ TIN VÌ CÓ CĂN CỨ CỦA MÌNH

– Trong 3 cuốn sách đã xuất bản của ông đều có tên là Nhìn lại…, Nhìn về…,… ngộ nhận, có phải sở trường của ông là lật lại các vấn đề lịch sử?

Sử của ta còn nhiều cái chưa thống nhất được. Ví dụ như đánh giá về Hồ Quý Ly, có người cho ông là người có nhiều cải cách rất tiến bộ, nhưng có người đánh giá ông là độc đoán, không được lòng dân nên dẫn đến việc mất nước… Chưa thống nhất được. Hay như trường hợp của thái sư Lê Văn Thịnh, mãi gần đây chúng ta đã giải oan được cho ông về vụ án hóa hổ trên hồ Dâm Đàm… Mình đọc nhiều, đã có một chút kiến thức về lịch sử, nên khi thấy có vấn đề gì chưa đúng thì mình viết ra để bổ sung.

– Là dân ngoại đạo mà lại hay phản đề các giáo sư sử học, có bao giờ ông thấy thiếu tự tin không?.

Hoàn toàn không. Tôi luôn tự tin vì mình có lập luận, có căn cứ của mình. Dù đã đọc và nghiên cứu lịch sử từ rất lâu rồi nhưng mãi đến những năm 1994-1995 tôi mới bắt đầu viết báo. Do làm về khoa học kỹ thuật nên tôi nhìn cái gì cũng theo cách chính xác chứ không mơ hồ.

– Vậy vấn đề phản biện nào ông tâm đắc nhất?

Tôi nhớ năm 2002, sau khi cuốn sách Huyền thoại hay sự thật cội nguồn cha Rồng mẹ Tiên được phát hành, các nhà khoa học và giới nghiên cứu đã có phản ứng rất dữ dội vì nó đã bóp méo sự thật, lại đụng chạm đến vấn đề linh thiêng nhất là cội nguồn dân tộc. Ví dụ, tác giả đã đưa ra những luận thuyết phản khoa học như: Các vua Hùng đều mang họ Nguyễn; Kinh đô Phong Châu của các vua Hùng không phải ở Phú Thọ mà ở Văn Nội, Thanh Oai … Khi đó tôi đã viết bài “Cổ lôi Ngọc phả truyền thư”: cổ thư hay ngụy thư? đăng trên Khoa học và Đời sống, phân tích nguồn tư liệu mà tác giả cuốn sách khai thác là một ngụy thư (làm giả).

– Theo tôi biết thì ngay sau đó cuốn sách này đã bị thu hồi rồi mà?

Thì phát hành được 3 tháng, bị phản đối quá nên cuốn sách đó đã bị thu hồi. Nhưng còn một cuốn Việt Nam và cội nguồn trăm họ phát hành trước đó vẫn được lưu hành. Cuốn này cũng có những sai lầm tương tự cuốn kia… là dựa trên nguồn tư liệu từ bộ Cổ lôi ngọc phả truyền thư. Điều khiến tôi buồn là giới sử học chính thống đã không có tiếng nói gì về cuốn sách này.

– Tôi cũng có nghe nói về cuốn sách này. Hình như trong đó có khẳng định, người Việt có nguồn gốc ở Giang Nam (Trung Quốc). Còn ông lại cho rằng người Việt Nam có nguồn gốc nội tại?

Không, không phải cuốn sách này. Đây lại là giả thuyết của GS. Đào Duy Anh .Thực ra, phản bác lại giả thuyết này không khó. Nếu cho rằng dân tộc Việt chúng ta từ vùng bờ biển Giang Nam , vượt biển mà vào miền Bắc nước ta, thì các địa điểm mà họ định cư đầu tiên phải là các vùng duyên hải. Lý do gì mà sau một chặng đường dài vượt biển, họ còn bơi ngược dòng sông Hồng chảy xiết rồi mới tụ cư ở Phong Châu, Việt Trì, sau đó lại từ Phong Châu tràn xuống vùng đồng bằng như sự thật lịch sử đã được kết quả khai quật khảo cổ khẳng định. Hơn nữa,nếu chấp nhận có một cuộc di cư như thế thì vùng bờ biển Phúc Kiến, Quảng Châu, bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam (Trung Quốc) phải dày đặc người Việt, họ phải đổ bộ lên các địa điểm đó trước khi phát hiện ra miền Bắc Việt Nam. Vậy thì tại sao ở những địa điểm đó không có người Việt chúng ta. Từ những năm 1960-1970, kết quả khảo cổ học đã chứng minh rằng, người Việt chúng ta là chủ nhân của một nền văn minh phát triển liên tục từ Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn cách đây trên 4000 năm mà thời kỳ Hùng Vương chỉ là giai đoạn cuối của tiến trình đó.

– Tại sao một vấn đề có tầm quan trọng như vậy mà chúng ta vẫn không thống nhất được, cứ để mỗi người nghĩ một cách vậy sao?

Từ những năm 1969-1970 đã có 3-4 cuộc hội thảo về vấn đề này. Tôi chỉ là người củng cố thêm cho giả thuyết này thôi. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều người chịu ảnh hưởng của các cây đa, cây đề trong giới sử nước ta.

– Nghe ông nói chuyện về lịch sử tôi thấy rất hấp dẫn. Xin hỏi, trong gia đình ông có ai tiếp nối sự say mê lịch sử của ông không?

Tôi cũng muốn truyền lại sự say mê này cho con cháu. Nhưng tiếc là hiện nay, trong gia đình tôi chưa có ai thích ngành này cả. Con trai tôi hiện theo ngành công nghệ sinh học và ngành thương mại . Hy vọng cháu nội sau này sẽ thích (cười)

- Ông thường phải đi đây đi đó để nghiên cứu, vậy công việc của ông có ảnh hưởng gì đến cuộc sống gia đình không?
Tôi thường làm việc ở nhà và ở thư viện, thỉnh thoảng tôi đi các tỉnh thu thập tài liệu. Có lúc tôi được mời tham gia các chuyến đi nghiên cứu được miễn các phí. Còn những chuyến đi khác thì tôi tự lo liệu.
Tôi nhận được sự ủng hộ rất nhiều từ vợ tôi, bà Đôn Thị Mai, người đã giúp tôi đánh máy và sửa lỗi chính tả. Đôi khi tôi lấy bút danh  Đôn Mai là vì thế. Con trai duy nhất của tôi học công nghệ sinh học và thương mại, và bây giờ con tôi đang làm việc cho một Công ty cổ phần cung cấp thiết bị. Tôi hy vọng cháu tôi sẽ yêu thích lịch sử..

–   Xin cảm ơn ông, chúc ông luôn mạnh khỏe!

Box: Nhà nghiên cứu lịch sử Phan Duy Kha sinh năm 1946. Ông học ngành mỏ Trường đại học Bách khoa (1964-1968) Đã xuất bản 3 cuốn sách nghiên cứu: Nhìn lại lịch sử (2003), Lịch sử và sự ngộ nhận (2008), Nhìn về thời đại Hùng Vương (2009).

(Nhật Minh thực hiện)




LỜI BẠT CỦA TS ĐINH CÔNG VĨ VIẾT CHO CUỐN:  TỪ ĐIỆN KÍNH THIÊN TRIỀU LÊ ĐẾN TỔNG HÀNH DINH THỜI ĐẠI HỒ CHÍ MINH
Nha nghiên cứu lịch sử Phan Duy Kha nguyên là một kỹ sư đo vẽ bản đồ. Nhưng như  ông đã tâm sự với nhà báo Nhật Minh: “Từ nhỏ tôi đã yêu thích lịch sử. Cứ một vài tuần tôi lại vào thư viện mượn sách, mà toàn là sách lịch sử. Sau này, là dân trắc địa công trình, đi đâu tôi cũng mang sách theo: Sử của ta, sử của các tác giả nước ngoài viết về ta. . .”. Đến khi về hưu, Phan Duy Kha chỉ còn một việc duy nhất là nghiên cứu lịch sử: Chính sử và dã sử. Điều đó khiến ta không thể phân biệt được, lịch sử là nghề tay trái hay tay phải của ông? Và từ tất cả các nguồn tài liệu lịch sử phong phú, ông tự rút ra kết luận cho mình.
Độc lập suy nghĩ là một bản tính đáng quý. Phan Duy Kha đã nói: “ Ngày ấy tôi nộp đơn thi vào Đại học Bách khoa. Giờ nghĩ lại cũng có cái hay, vì nếu học và nghiên cứu trong môi trường sử học chính quy, chắc chắn tôi sẽ bị ảnh hưởng của người này, người khác chứ không có được chính kiến độc lập như hiện nay”. Mà có lẽ chúng ta đều biết rằng, viết theo khuôn sáo, lối mòn thậm chí theo sự phân công hẳn sẽ khó hay. Phan Duy Kha được độc giả đón nhận bởi những nhan đề và nội dung sách khá mới mẻ, gợi mở, hấp dẫn, đặc sắc mà người khác khó có thể có: “Nhìn lại lịch sử” ( Viết chung, Nxb Từ điển Bách khoa, 2008 ), “ Nhìn về thời đaị Hùng Vương” ( Nxb Lao Động, 2009 ) và “ Từ Điện Kính Thiên triều Lê đến Tổng Hành Dinh thời đại Hồ Chí Minh” (Nxb Dân Trí, 2010 ). Điều đó thể hiện bản lĩnh độc lập mà không cô lập của ông. Và từ nội hàm đến ngoại diên ấy đều một chất: “ Lòng đỏ môi ai cũng rượu  hong
Với bản chất ấy , với “ Trải nghiệm đời người” (1) bằng trí thông minh trời phú, lại đươc sinh ra ở vùng quê Song Lộc, Can Lộc,( Hà Tĩnh )- vùng đất địa linh nhân kiệt, Phan Duy Kha trở nên một cây bút sử học sắc sảo. Bút lực của ông rất sung mãn : Ngoài những cuốn sách nêu trên, Phan Duy Kha còn có hàng trăm bài viết trên các báo, tạp chí: Thế Giới Mới, Thế Giới Trong Ta, An Ninh Thế Giới, Khoa Học và Đời Sống, Xưa và Nay…
Về tác phẩm mới này- “ Từ Điện Kính Thiên triều Lê đến Tổng Hành Dinh thời đại Hồ Chí Minh” là tổng hợp nhiều bài viết của ông trên các báo chí, sách vở từ nhiều năm qua. Đây là một đề tài độc đáo trải dài hàng ngàn năm lịch sử. Người xưa có câu: “ Núi Nùng sông Nhị chốn này làm ghi”. Vùng đế đô nương tựa vào vùng đất cao ráo và núi non hùng vĩ phía tây, chân đạp sóng sông Nhị Hà là nơi tụ thuỷ mà núi Nùng là tâm điểm, trên đó dựng lên điện Kính Thiên thời Lê sơ và có thể cả điện Càn Nguyên thời Lý… Công trình kiến trúc nổi tiếng ấy nằm trên cái Rốn Rồng ( Long  Đỗ). Vậy phát ra khí thiêng sông núi nơi trái tim đất nước phải là từ Thần Long Đỗ. Người xưa ( và cả các triều đại xưa ) đã có lý khi tôn Thần Long Đỗ là “ Thăng Long đặc Thành Hoàng” để bảo vệ che chở Thủ đô , đã từng một thời đánh tan bùa phép của Cao Biền khiến ông ta phải kinh hồn. Cho nên các điện “ Kính trời” ấy  phải là trung điểm nằm trên cột mốc số không của nước nhà chứ không phải là hồ Hoàn Kiếm như người ta vẫn nghĩ. Sang thời Nguyễn, thành Hà Nội được xây dựng lại năm 1805. Theo Phan Duy Kha: “ Trục trung tâm Đoan Môn- Kính Thiên- thời Lê vẫn không đổi”. Nằm trên trục này có thêm Cột Cờ, Cửa Bắc. Trục Thần đạo của Cấm thành là trục Cột Cờ -Đoan Môn- điện Kính Thiên- Hậu Lâu- Cửa Bắc. Rõ ràng , cái nhan đề tác phẩm mới này của Phan Duy Kha xuất phát từ tâm điểm trái tim đất nước là có lý, có duyên. Để từ đó qua nhiều giai đoạn mà đi tới cái  “Tổng Hành Dinh hiện đại, vẫn trên cái nền của Cấm Thành, Phượng Thành hay Tử Cấm Thành cũ”.Ngay ở thời hiện đại, Tử Cấm Thành hay Tổng Hành dinh của cơ quan tối quan trọng vẫn được bảo vệ rất cẩn mật. Từ cái cốt lõi ấy, hậu thế sau này nếu không bị chi phối này khác, sẽ có nhiều khai mở phát hiện rất lý thú, thậm chí sẽ còn hơn cả những phát lộ về Hoàng thành Thăng Long ngày nay. Tác phẩm “Từ điện Kính Thiên triều Lê đến Tổng Hành dinh thời đại Hồ Chí Minh” của Phan Duy Kha không nói hết nhưng đã cho ta những suy ngẫm , hình dung về một “hậu Tổng Hành dinh”
Người xưa từng nói tới 3 vòng thành: Ngoài cùng là La thành, giữa là Hoàng thành, trong cùng là Phượng thành, Cung thành, hay Tử Cấm thành. Tôi đã đọc nhiều bài viết về các vòng thành Thăng Long, kể cả bài viết trong Hà Nội ngàn năm với đầu đề: “Ngàn năm còn đó Hoàng thành”. . . Cả những công trình nghiên cứu công phu gần đây. Nhưng viết cho đầy đủ, rõ ràng diên cách, nơi tiếp giáp, dấu tích, số liệu cụ thể các vòng thành đó như trong sách của Phan Duy Kha quả là hiếm thấy. Ông đã cẩn trọng nghiên cứu kỹ bản đồ thành Thăng Long trong bộ Hồng Đức bản đồ và bằng việc phân tích  vẽ bản đồ thành thạo vốn có được áp dụng vào sử học, gắn với những thời sự nóng hổi của khảo cổ học về thành Thăng Long mà có được những cống hiến đáng biểu dương ấy.
Vấn đề “Thập Tam trại” gắn với người dân vào làm ăn khai hoang ở tây Hoàng thành cũng được Phan Duy Kha nghiên cứu kỹ đưa ra các ý kiến (kể cả những phản bác) có lý có tình.
Phần lớn các bài viết trong tác phẩm “Từ điện Kính Thiên triều Lê đến Tổng Hành dinh thời đại Hồ Chí Minh” đều gắn bó chặt chẽ  với Thăng Long. Kể cả các bài viết Lý Thánh Tông yêu dân như con, Thiền sư Nguyễn Minh Không chữa bệnh cho vua, Cuộc đời éo le của Lý Chiêu Hoàng, Người giỏi ngoại ngữ hiếm có trong lịch sử, Trần Thủ Độ ở đỉnh cao quyền lực, . . .dù tiêu đề không nhắc tới Thăng Long, nhiều phần trong bài có vẻ không gắn với Thăng Long, vậy mà lại rất Thăng Long. Nhân vật, sự kiện . . .diễn ra không cứ phải nhắc tới Thăng Long thì ta mới hiểu là ở Thăng Long, của Thăng Long.
Theo Phan Duy Kha và tự mình kiểm nghiệm lại kỹ ,tôi thấy riêng trong năm 2009, báo Khoa học & Đời sống đã in 41 bài của ông, trong đó có 20 bài về Thăng Long. . .Ông còn viết về Số phận đặc biệt của Lê Ngọc Hân-nàng công chúa cao quý tuyệt vời của đất Long Thành gắn với bậc hùng tài minh quân Nguyễn Huệ. . .Cũng như người viết  lời bạt này, tác giả Phan Duy Kha thường đi vào những mặt éo le,  mặt trái, những phần tối khuất trong lịch sử. Đó là những đề tài mà nhiều nhà sử học hay ngần ngại. Nhưng cách phân tích, lý giải của Phan Duy Kha lại khó có thể bác bỏ.
Riêng với tác phẩm “ Từ điện Kính Thiên triều Lê đến Tổng Hành dinh thời đại Hồ Chí Minh” này phần lớn có nội dung mới mẻ, hấp dẫn và gắn liền với Thăng Long –Hà Nội. Trong lúc cả nước đang chuẩn bị cho Đại lễ kỷ niệm 1000 Thăng Long –Hà Nội,việc ra đời một tác phẩm như thế là cần thiết, có nhiều ý nghĩa. Hậu vận của nó chắc là tốt đẹp.Từ cái tâm Kính Thiên đó, hẳn nhiều điều mới mẻ, lạ lùng to lớn sẽ được mở ra. . .
Ngày cuối tháng Ba năm Canh Dần 2010
TS Đinh Công Vĩ
*







GẶP MẶT CỰU SINH VIÊN LỚP TRẮC LƯỢNG 64,
KỶ NIỆM 50 NĂM NGÀY TỰU TRƯỜNG (1964- 2014)
Ngày 14-9-2014, tai Nhà hàng HS.3 Khách sạn Kim Liên, số 7 Đào Duy Anh, Hà Nội, các cựu sinh viên lớp Trắc lượng 64 đã tổ chức Họp mặt nhân dịp Kỷ niệm 50 năm ngày tựu trường.
Nhớ lại, cách đây tròn 50 năm, chúng tôi háo hức nhận được giấy báo nhập học của Khoa Mỏ Địa chất, Trường Đại học Bách khoa, Hà Nội. Khóa của chúng tôi là khóa chiêu sinh thứ 9 của Trường , thường được gọi là K9 .
Ngày 5.8.1964, có một sự kiện lịch sử đặc biệt: Máy bay Mỹ xâm phạm vùng trời miền Bắc, mở đầu cho giai đoạn chiến tranh đánh phá ác liệt. Chúng tôi nhập học ngay sau những ngày đặc biệt này . Từ những ngày cuối tháng 8, anh em đã tề tựu đông đủ. Cả lớp có 33 anh chị em. Có một số đã từng là cán bộ, bộ đội được cử đi học như anh Bậc, anh Trực, anh Liêm, chị Phú, anh Giai (anh Giai nhập học được mấy ngày thì nghỉ học, trở về đơn vị). Số đông còn lại là học sinh phổ thông lên, sàn sàn tuổi nhau. Sau này, trong quá trình học tập, một số anh em học được một hai năm, do yêu cầu đào tạo, lại được chuyển đi học trường khác, ngành khác (Khâm, Tu, Chương, Võ …), nên cuối cùng chỉ còn 28 anh chị em.
Hồi ấy vào trường, chúng tôi được hưởng học bổng là 22 đồng, nộp tiền ăn mỗi tháng 15 đồng, như vậy mỗi tháng vẫn còn 7 đồng tiêu vặt, thỉnh thoảng cao hứng còn ra căng tin nhà trường tự thưởng cho mình bát phở sáng 5 hào. Hồi ấy, chưa chịu ảnh hưởng của chiến tranh phá hoại, kinh tế mới đi qua cái năm “Chào 61 đỉnh cao muôn trượng” nên các thứ lương thực thực phẩm còn phong phú và rẻ lắm. Chúng tôi ăn cơm “đại táo” mỗi tháng 15 đồng nhưng bữa nào cũng có 3,4 món, có thịt kho, đậu rán , các bà các chị nhà bếp lại phục vụ tận tình, chu đáo. Thực đơn thay đổi luôn luôn, không bao giờ hai bữa liền nhau mà lại trùng lặp. Tôi nhớ hồi đó bếp ăn khoa Mỏ là tốt nhất trong 5 bếp ăn của Bách khoa, bà Bếp trưởng là chiến sĩ thi đua hay lao động tiền tiến gì đó, còn được lên báo cáo điển hình toàn trường. Các anh cán bộ đi học lương cao thì báo ăn tiêu chuẩn tiểu táo, mỗi tháng 18 đồng, bữa bốn năm món, ăn không hết. Đó là đời sống vật chất. Đời sống tinh thần cũng rất được chú ý. Tối thứ 7, nhà trường hay mời văn công, văn nghệ về biểu diễn cho sinh viên xem. Có một lần, không biết đoàn gì nhưng có ca sĩ Bích Liên và ca sĩ Quốc Hương về biểu diễn. Ca sĩ Bích Liên lúc đó mới nổi. Chị hát song ca với một bạn diễn khác, giữa chừng bị đứt. Các chị hồn nhiên xin phép được hát lại từ đầu. Còn ca sĩ Quốc Hương đang hát thì bị mất điện. Cứ thế ông hát vo, không micro, không nhạc đệm mà cứ “Rừng ơi, ta đã về đây…” oang oang cả sân vận động nhà trường.Nhưng, cuộc sống “thần tiên” ấy chỉ kéo dài được một năm !

Tháng 11. 1965 do chiến tranh phá hoại ngày càng ác liệt, nhà trường sơ tán lên huyện Tràng Định, Lạng Sơn. Lần đầu lên Lạng Sơn, ai cũng bị lở ngứa toàn thân. Người sớm , người muộn.Người càng bị sau càng nặng hơn. Không có thuốc gì chữa khỏi. Lên xin thuốc bôi ở phòng Y tế nhà trường, nhân viên y tế bảo: Không có thuốc gì bôi khỏi đâu. Chúng tôi cũng bị lở đầy người đây này, chịu đựng một thời gian là khỏi thôi. Đấy là hiện tượng ngã nước, do lạ nước. Dây dưa đến 3 tháng sau mới khỏi hẳn. Lại lo, khi nào về đồng bằng, lại bị lạ nước, lại lở thế này nữa thì hãi thật (thế nhưng khi trở về đồng bằng, không ai bị lại cả). Lên Lạng sơn, chúng tôi tự làm lấy nhà để ở. Nhà bên sông Kỳ Cùng, phong cảnh hữu tình. Về những kỷ niệm ở Lạng Sơn này, tôi đã có bài “Đón Tết giữa rừng Việt Bắc” và “Bạn bè một thuở” đã in trong tập “Trải nghiệm đời người” và tôi cũng đã giới thiệu trên trang mạng của mình. Ở Lạng Sơn được một năm, đến tháng 9. 1966 lại chuyển về vùng Dâu- Keo, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh.
Tháng 6.1966, khi đang ở Lạng Sơn, gần nửa lớp do anh Liêm phụ trách (Gồm: Liêm, Giản, Tu , Hợi, Vinh, Tuyền , Kha, Hùng, Hậu, Võ , San, thầy Bính, Cán bộ giảng dạy bộ môn Địa chất thăm dò và anh Mãng, sinh viên khóa trước được nhà trường giữ lại làm phụ giảng), được điều động vào thực tập tại mỏ than Động Đỏ, Hương Khê, Hà Tĩnh, giữa những ngày chiến tranh ác liệt nhất. Ngày 15.6.1966, chúng tôi từ địa điểm sơ tán là bản Nà Kéo thuộc xã Kháng Chiến, huyện Tràng Định, khăn gói ra chờ ở cầu Bản Trại (trên đường số 4 đi Thất Khê). Ở đó có xe của nhà trường chở về Hà Nội. Nằm chờ ở ký túc xá Đại học Bách khoa mấy ngày thì có xe của Ty Công nghiệp Hà Tĩnh ra đón ở phố Ngô Thì Nhậm (nơi đóng trụ sở Ban đại diện của Hà Tĩnh tại Hà Nội) để đưa về Hà Tĩnh. Để tránh máy bay địch oanh tạc, các phương tiện giao thông lúc bấy giờ (ô tô, xe đạp, kể cả đi bộ) đều thực hiện ngày nghỉ, đêm đi. Ngày rẽ vào nghỉ lại một làng nào đó cách xa đường ô tô, đêm lại rì rì bò ra đường đi tiếp, ròng rã 7 ngày đêm liền vượt qua bao nhiêu trọng điểm ác liệt, chúng tôi mới đến được Hà Tĩnh (quãng đường 350 km, nay đi mất khoảng 7 tiếng). Nói là thực tập nhưng chúng tôi đi làm thực sự, lập Bản đồ Địa hình, Địa chất quy hoạch vùng mỏ than Động Đỏ, cung cấp cho Ty Công nghiệp Hà Tĩnh. Công việc xong, Kha, Vinh ở Hà Tĩnh xin phép đoàn về thăm nhà 3 ngày, sau đó lại trở lại Hương Khê để theo đoàn ra Bắc (đó cũng là lần về thăm nhà duy nhất của tôi trong suốt 4 năm học Đại học). Sau khi xong việc, trở về Hà Nội cũng với thời gian tương tự như thế. Khi đi thì xuất phát từ Lạng Sơn, nhưng khi về thì tập kết tại địa điểm sơ tán mới tại xã Đình Tổ, Thuận Thành, Bắc Ninh. Lúc đó là vào tháng 9.1966, bắt đầu vào năm học mới. Giản, Tu, Hợi thì theo xe ra Nghệ An, rồi xuống ngang đường để về thăm nhà. Khi trở ra Hà Nội, các ông bạn đã đi bộ suốt một mạch từ Nghệ An ra đến Ninh Bình mới có tàu hỏa đi Hà Nội và chậm mất khoảng một tuần.
Những năm sơ tán là những năm gian khổ nhất của đời sinh viên. Đói triền miên. Mỗi ngày một bữa cơm, một bữa bánh mì. Bột mì được nặn thành những chiếc bánh bằng nắm tay, bên trong có nhân làm bằng xu hào, rồi đặt lên bếp hấp. Mỗi bữa mỗi người được một “nắm đấm” như thế. Cơm thì mỗi bữa được hai lưng bát, bát đầu thì đầy, bát sau thì vơi, với canh “toàn quốc”, nước chấm “đại dương”, ăn xong rồi vẫn như chưa ăn. Cảm giác lúc nào cũng thèm ăn. Trong lúc đó thì ở nhờ nhà dân, chủ nhà có việc gì nặng nhọc anh em cũng phải giúp. Chúng tôi ở Đình Tổ một năm, sau đó lại chuyển xuống xã Đại Trạch, cách đó vài cây số, vẫn cùng huyện Thuận Thành.Ở đây đường làng ngõ xóm bẩn hơn, đầy phân trâu bò. Tôi còn nhớ, lúc ở xã Đại Trạch, tôi và anh Trực đã phải kéo che làm mật cho cụ chủ nhà mấy tuần liền. Đó là cái che có hai cánh tay đòn, mỗi anh một bên, cứ đẩy vòng quanh như đèn cù, hoa cả mắt (ở những vùng trồng nhiều mía, người ta dùng trâu bò kéo che, còn ở đây mía ít nên kéo che bằng sức người). Cụ bảo, các chú giúp tôi rồi đến Tết tha hồ ăn chè. Đến Tết cụ mời chúng tôi mỗi người một đĩa chè kho bằng lòng bàn tay, nấu bằng củ khoai môn!
Tháng 3 tháng 4. 1968, cả lớp đi thực tập tại mỏ đá Tràng Kênh, Thủy Nguyên, Hải Phòng. Tháng 5 về, bốn anh em (Hậu, Dư, Diệu, Hợi) được gia nhập quân đội, để đi xây dựng đường ống xăng dầu dã chiến vượt Trường Sơn, phục vụ cho chiến trường miền Nam. Tháng 6.1968, đến lượt 11 anh em chúng tôi ( Tuyền, Kha, Vượng, Đông, Thu Hương, Long ,Vinh, Bậc, Đức, Thắng, Cương ) theo yêu cầu của Bộ Vật tư, được ra trường sớm để tham gia Khảo sát Thiết kế hệ thống đường ống xăng dầu Vĩnh cửu do Liên xô giúp (Đường ống B12, nối Bãi Cháy đi Hà Nội). Thật không ngờ đời sinh viên lại chấm dứt nhanh và đột ngột đến thế !
Cuối cùng, chỉ còn lại 13 người theo đuổi hết khóa học, có Thực tập tốt nghiệp và làm Đồ án tốt nghiệp hẳn hoi (15 anh em ra trường trước thời hạn, sau đó gửi báo cáo công tác về trường và nhận bằng tốt nghiệp sau, coi báo cáo công tác thay cho đồ án tốt nghiệp). Trong suốt thời gian học tập, cũng có một số cặp nảy nở tình yêu và đi đến hôn nhân (như Tuyền –Hương, Vượng- Đông, Long –Ngọ). Đến nay, còn nguyên vẹn cả đôi chỉ còn cặp Tuyền - Hương. Nửa thế kỷ đã trôi qua. Thời gian như nước chảy qua cầu. Bây giờ tất cả đã về hưu, lên ông, lên bà cả rồi. Có 7 anh chị em đã trở thành người thiên cổ (Thu Hương, Cận, Đông, Ngọ, San, Hùng, Dư). Các ông bạn Tu , Hợi ở Nghệ An quá nhiệt tình, bắt xe đi cả đêm, 6 giờ sáng đã có mặt . Thắng từ Nam Định lên từ chiều hôm trước. Anh Trực, chị Phú, tuổi U80 cũng đến được. Trong số những người ra trường công tác, cũng có những anh em thành đạt, có tên, có tuổi (như GS Đặng Hùng Võ, Thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu), cũng có những người lận đận (như Đức, Thắng), còn lại thì cũng làng nhàng. Có anh trước khi về hưu là Giám đốc, Phó Giám đốc một công ty, Trưởng phó phòng, có anh là Chuyên viên…Từ trước đến nay đã bao nhiêu lần họp lớp nhưng tôi chưa hề viết bài, đưa ảnh.Lần này tôi cố gắng ghi lại cận cảnh từng người, để sau này con cháu của các vị có thể dùng đến như một tư liệu về ông bà, bố mẹ mình, tìm hiểu chuyện về ông bà, bố mẹ mình thuở còn đi học. Có thể bây giờ chưa cần nhưng sau này sẽ cần !
Gặp nhau tay bắt mặt mừng. Cấp bậc, chức vụ để lại đằng sau. Chỉ còn lại là tình bạn, tình đồng môn của một thời gian khó, một thời tuổi trẻ “mày tao chi tớ”. Thời còn đi học tôi thích làm thơ, đã có thơ đăng báo và được nhiều người biết tên, nhưng sau đó thì “giữa đường bỏ dở”. Nhưng cũng có người thời còn đi học chẳng thấy làm thơ bao giờ, thì nay lại say thơ, đi đâu cũng đọc thơ, nói chuyện thơ hàng mấy tiếng đồng hồ không chán, như anh bạn Trần Hùng Thắng (thời sinh viên, ông bạn này sở trường về thể thao, từng được giải nhì về nhảy cao trong một cuộc thi của Trường Đại học Bách khoa). Trần Hùng Thắng đang chuẩn bị in tập thơ “Trầu một lá” (Hồ Sỹ Hậu đã tài trợ kinh phí). Lại có người viết được cả một cuốn tiểu thuyết dày (trên 600 trang), kể về những ngày tham gia xây dựng đường ống xăng dầu vượt Trường Sơn, như Hồ Sỹ Hậu với “Dòng sông mang lửa”. Hồ Sỹ Hậu có thói quen ghi nhật ký từ ngày còn đi học. Chính những ghi chép tỷ mỉ hàng ngày đã giúp anh hoàn thành tác phẩm này.
Mỗi người một cuộc đời, mỗi người một số phận. Ơn trời, đã ngót nghét U70, U80, gặp gỡ được nhau, thấy mọi người cùng khỏe mạnh, vui cười như thế này là phấn khởi lắm rồi. Xin chúc nhau cùng vui vẻ, khỏe mạnh, sống lâu, sống có ý nghĩa để “mỗi ngày là một niềm vui”. Cầu mong lần tổ chức sau lại được gặp nhau , đầy đủ như thế này !
Tạm biệt và hẹn ngày gặp lại. / .










MỤC LỤC
-         Họa sĩ Nam Sơn, người đặt nền móng đầu tiên cho nền Mỹ thuật đương đại Việt Nam                                                                    
-         Giáo sư Nguyễn Đình Tứ: Khoa học và Đời thường   
-         Vài cảm nhận về GS Ngô Đức Thọ     
-         GS Ngô Đức Thọ và việc dịch Ngọc phả Hùng Vương  
-         Hồ Sỹ Hậu và tiểu thuyết “Dòng sông mang lửa”    
-         Vài kỷ niệm với Nghệ sĩ nhiếp ảnh Đoàn Công Tính  
-         Sự tích về chiếc xe đạp của nhà văn Phùng Quán   
-         Đọc “Nhân thế tình tang “ của Mai Hồng Niên     
-         Với Mai Hồng Niên và “Quê mình xứ Nghệ”    
-         Đọc “Tuổi thơ Hà Nội ngày xưa” tưởng nhớ nhà văn Lê Bầu. 
-         Trò chuyện với nguyên Tổng biên tập Đinh Khắc Vượng.   
-         Gặp mặt nhân dịp 25 năm nghiên cứu lịch sử và tìm hiểu Phả họ Nguyễn của ông Nguyễn Văn Thành.    
-         Núi Cài, ngọn núi tuổi thơ tôi.       
-         Họ Phan của tôi.                         
-         Một chuyến tham quan đặc biệt.    
-         Đón Tết giữa rừng Việt Bắc.    
-         Tết năm ấy chúng tôi mừng thọ cha 80 tuổi   
-         Những cuốn sách của tôi.       
-         Thế giới trong ta giới thiệu cuốn “Trải nghiệm đời người”.
-         Lời tựa cuốn “Nhìn về thời đại Hùng Vương”   
-         Tiếp các nhà báo đến phỏng vấn viết bài về Phan Duy Kha.
-         Người đam mê Lịch sử.           
-         Lời bạt của TS Đinh Công Vĩ viết cho cuốn “Từ điện Kính Thiên triều Lê đến Tổng Hành dinh thời đại Hồ Chí Minh  
-         Gặp mặt cựu sinh viên lớp Trắc Lượng 64, nhân kỷ niệm 50 năm ngày tựu trường (1964 – 2014).        
-         Mục lục     

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét