Thứ Hai, 25 tháng 9, 2017

THƠ VỀ CỔ LOA, AN DƯƠNG VƯƠNG, MỴ CHÂU, TRỌNG THỦY

Bạn đã đọc bài trước phân tích về Truyền thuyết An Dương Vương và mối tình oan trái Mỵ Châu –Trọng Thủy. Vậy xin mời bạn thưởng thức một số áng văn thơ đề cập đến truyền thuyết này do Phan Duy Kha sưu tầm và giới thiệu.
*
THƠ CHỮ HÁN
Vũ Phạm Hàm
Lân bảng phi thân tế bất sàn
Quân vương dung dị ngộ hồng nhan
Tồn vong mịnh hệ Linh quang nỗ
Sinh tử hồn y Mộ Dạ sơn

Nam hải yên đào châu tích lệ
Bắc lâm phong vũ thạnh thành ban
Chí kim từ vũ lân nguyên miếu
Nguyệt xuất do văn hưởng bội hoàn.
Dịch thơ:
Người thân thích ít, rể khôn lường
Lầm lỡ má hồng bởi phụ vương
Sống chết hồn nương đồi Mộ Dạ
Mất còn mệnh hệ nỏ Linh quang
Bể Nam khói sóng châu hoen lệ
Rừng Bắc phong sương đá lổ loang
Đền miếu tới nay bên điện cũ
Trăng lên khánh ngọc vẫn còn vang.
Nguyễn Huệ Chi, Đỗ Văn Hỷ dịch
*
Lê Huy Phan
Vận tiếp Hồng Bàng thái cổ thiên
Dư đồ vạn lý Thục sơn xuyên
Loa thành nhân hiểm nan di đỉnh
Quy nỗ thần cơ bất cập tiên
Giao cách sự phi do nữ tế
Hưng vong số hữu định thần tiên
Linh phong mỹ tích kim trường tại
Sử luận hoang đường khủng vị nhiên.
Dịch thơ:
Kế tiếp Hồng Bàng vận tại thiên
Nước non vạn dặm đất Thục liền
Loa Thành hiểm yếu đâu thần phục
Móng rùa thần nỗ lắm cái phiền
Sự việc xưa kia do ai nhỉ ?
Hưng vong số định bởi thần tiên
Khí thiêng dấu cũ nay còn đó
Sử luận hoang đường quả dĩ nhiên.
*
Vũ Tuân
Đương dương vạn mã đảo thành âm
Nam hải văn tê bạch trú trầm
Quy trảo dĩ tùy khinh bạc tế
Nga mao thụy lượng nữ nhị tâm
Hà sơn hữu lệ minh châu kết
Oan trái nan điền cổ tỉnh thâm
Đôn phách trinh hồn chung bất tử
Quế kỳ phong vũ dạ tiêu sâm.
Dịch thơ:
Ngựa lướt vầng dương thành sẩm tối
Sừng tê rẽ nước giữa ban ngày
Móng rùa mưu rể đem đi mất
Lông ngỗng lòng con ai biết đây
Sông núi lệ tuôn trai ngọc kết
Oan khiên khôn lấp giếng xưa đầy
Phách hồn trinh trắng còn không mất
Cờ quế đêm mưa gió lắt lay.
Nguyễn Huệ Chi dịch
*
Bùi Phu Kinh
(Họa bài thơ của Vũ Phạm Hàm)
Ông thị hiền vương vị thị sàn
Gian hùng nữ tế thái vô nhan
Thiếp tư báo đức đồng thiên địa
Lang nhẫn vong tình phụ hải san
Quy nỗ thu quang sơn tuyệt mộ,
Bạng châu sải lệ tỉnh lưu ban
Đội lân tịch mịch đình biên miếu
Dạ nguyệt thê lương cổ lũy hoàn
Dịch thơ:
Nhạc phụ vua hiền đâu phải dại
Gian hùng chàng rể quá vô tình
Thiếp mong báo đức ngang trời đất
Chàng nỡ quên ơn phụ thệ minh
Nỏ báu mất thiêng non vắng mộ
Hạt trai tưới lệ giếng lưu hình
Bên đình tòa miếu thiêng mờ mịt
Lạnh lẽo trăng đêm quyện cổ thành.
Nguyễn Huệ Chi dịch
*
Chu Mạnh Trinh
Lang quân tình trọng, phụ ân thâm
Bất bạch kỳ oan, hận đáo câm
Trường trảo vô linh quy diệc khứ
Minh châu hữu lệ bạng do trầm
Hoang bi cổ mộc thiên niên quốc
Bích hải thanh thiên nhất phiến tâm
Tịch mịch An Dương cung ngoại miếu
Đỗ quyên đề đoạn nguyệt âm âm.
Dịch thơ:
Tình chàng dù nặng , nghĩa cha sâu
Ôm ấp oan kia đến tận đâu.
Nỏ thiếu móng thiêng, rùa lẩn bóng
Trai chìm đáy nước , lệ hoen châu.
Bia mòn cây cỗi, ngàn thu hận
Bể biếc trời xa một mối sầu.
Cung miếu triều xưa đây vắng ngắt
Trăng mờ khắc khoải cuốc kêu thâu.
Nguyễn Tường Phượng dịch.
*
Sở Cuồng Lê Dư
Vịnh An Dương Vương
Ngã nguyên vô trá, nhĩ vô ngu
Vị giám tiền xa thỉ nữ ngô
Chỉ niệm bắc nam đôn quốc hảo
Thục tri tế tử sính gian đồ
Hà sơn đa cố quy vô trảo
Cốt nhục thương tâm bạng hữu châu
Hoa miếu thiên thu công luận tại
Tín trung trường thống nữ vô cô.
Dịch nghĩa: Ta không dối người mà cũng không phòng bị
Làm cái gương xe đổ về việc gả con sang Tàu
Chỉ muốn bắc nam được thuận hòa
Đâu ngờ rẻ kia là kẻ gian tế
Non sông mấy đỗi rùa không móng
Cốt nhục đau lòng trai ngậm châu
Công luận ngàn năm còn vẳng bên miếu
Con gái thành thật không lỗi lầm mà phải mang nỗi xót xa này.
Vịnh Mỵ Châu công chúa
Thâm cung sinh trưởng quán kiều si
Thế thái ba đào kỷ đắc tri
Kỳ vị ái ân nghi tế thiểu
Cánh giao trung tín bỉ lang khi
Châu trầm ngọc vẫn tâm câu toái
Quốc phá gia phong hối diệc trì
Thiên cổ Loa Thành di hận tại
Hồn oanh hoa biểu hạt thăng bi.
Dịch nghĩa: Nàng ngây thơ lớn lên trong cung cấm
Việc đời lắm sóng gió làm sao mà biết được
Vui vẻ ái ân nào có để dạ nghi chồng
Bởi quá thật thà mà bị lừa dối
Châu chìm ngọc rơi cõi lòng tan nát
Nước mất nhà tan hối có kịp đâu
Loa Thành ngàn năm còn vương nỗi hận
Hồn vấn vương bia mộ, sầu kể sao nguôi.
( Hai bài thơ của Sở Cuồng Lê Dư chỉ mới thấy dịch nghĩa, chưa tìm thấy bản dịch thơ, tạm bằng lòng vậy)
*
nothan10_kienthuc
THƠ QUỐC ÂM
Thành Cổ Loa
Thành quách còn mang tiếng Cổ Loa
Trải bao gió táp với mưa sa
Nỏ thiêng hờ hững dây oan buộc
Giếng  Ngọc vơi đầy hạt lệ pha
Cây cỏ vẫn cười ai bạc mệnh
Cung đình chưa sạch bụi phồn hoa
Hưng vong biết chửa, người kim cổ
Tiếng cuốc năm canh bóng nguyệt tà.
Á Nam Trần Tuấn Khải
*
 Đề miếu Mỵ Châu
Một khối oan tình đập chửa tan
Nghìn thu hiu hắt khói hương tàn
Bia mòn rêu biếc, ngàn mây phủ
Nỏ đó người đâu giếng nước tràn
Tần Tấn bởi tin phường bạch nhãn
Việt Ngô để lụy khách hồng nhan
Cơ trời dâu bể vì ai đấy
Riêng mỗi thơ đào mắc tiếng oan.
Nguyễn Trung Khuyến
*
Loa Thành hoài cổ
Trông cảnh Tư Long luống ngậm ngùi
Nỏ rùa chuyện cũ, phải hay sai
Hình thành sao khéo xoay trôn ốc
Nước giếng nay còn sáng ngọc trai
Trừ bại ma gà nhờ có thuật
Mắc mưu lông ngỗng vị thương ai
Bể nam sóng gió mê đường ngựa
Đà cuống tin chi, hối chậm rồi.
Nguyễn Văn Đào
*
Mỵ Châu -Trọng Thủy
Một đôi kẻ Việt người Tần
Nửa phần ân ái, nửa phần oán thương
Vuốt rùa chàng đổi máy
Lông ngỗng thiếp đưa đường
Thề nguyền phu phụ
Lòng nhi nữ
Việc quân vương
Nệm gấm vó câu
Trăm năm giọt lệ
Nghìn thu khói hương. . .
Tản Đà
*
Tâm sự
Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu
Trái tim lầm chỗ, để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu.
Tố Hữu (Trích  bài thơ Tâm sự)
*
Mị Châu
Lông ngỗng lông ngan rơi trắng đường chạy nạn
Những chiếc lông không biết tự dấu mình.
Nước mắt thành mặt trái của lòng tin
Tình yêu đến cùng đường là cái chết
Nhưng người đẹp dẫu rơi đầu vẫn đẹp
Tình yêu bị dối lừa vẫn nguyên vẹn tình yêu.
Giá như như trên đời còn có một Mỵ Châu
Vừa say đắm yêu thương vừa luôn luôn cảnh giác
Không sơ hở, chẳng mắc lừa mẹo giặc
Một Mỵ Châu như ta vẫn hằng mơ
Thì hẳn Mỵ Châu không sống đến bây giờ
Ðể chung thuỷ với tình yêu hai ngàn năm có lẻ
Như anh với em dẫu yêu nhau chung thuỷ
Ðến bạc đầu bất quá chỉ trăm năm.
Nên chúng ta dù rất đỗi đau lòng
Vẫn không thể cứu Mỵ Châu khỏi chết
Lũ trai biển sẽ thay người nuôi tiếp
Giữa lòng mình viên ngọc của tình yêu.
Vẫn còn đây pho tượng đá cụt đầu
Bởi cụt đầu nên tượng càng rất sống
Cái đầu cụt gợi nhớ dòng màu nóng
Hai ngàn năm dưới đá vẫn tuôn trào.
Anh cũng như em muốn nhắc Mỵ Châu
Ðời còn giặc xin đừng quên cảnh giác
Nhưng nhắc sao được người hai ngàn năm trước
Nên em ơi ta đành tự nhắc mình.
Anh Ngọc
*
Vô đề
Am Mỵ Châu thờ bức tượng không đầu
Cảnh báo một trái tim khờ dại
Thử hỏi , nửa thế giới này đang tồn tại
Đã yêu rồi, ai không giống Mỵ Châu ?
Hạnh Mai
(Tạp chí Người Hà Nội, số 115)
*
MỴ CHÂU
Không thể tưởng có đường gươm như thế
Dù lời thần mách bảo tự trời cao
Thần có lúc cũng nhầm như hạ giới
Đứa con thương tội lỗi tự khi nào?
.
Khi ngực trẻ hồn nhiên non nớt quá
Thì tình yêu có phút dại khờ thôi
Nắm lông ngỗng rải đường hoa trắng xóa
Hoa theo nàng rải khắp nắng mồ côi.
.
An Dương Vương dưới đáy mồ nghìn tuổi
Vẫn hằng đêm nức nở lưỡi gươm xưa
Mây vẫn trắng để tang trời vĩnh cửu
Mỵ Châu ơi, oan nghiệt đến bao giờ ?
Quang Huy
( Hà Nội mới cuối tuần,10.3.2012)
*
Ảnh trong bài
1. 2 : Lẫy nỏ và kho mũi tên đồng đào được ở Cổ Loa
3:  Tượng không đầu Công chúa Mỵ Châu
Advertisements

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét