HÙNG VƯƠNG NGỌC PHẢ (Dịch và Bình chú)


HÀN LÂM VIỆN TRỰC HỌC SĨ NGUYỄN CỐ
(Phụng soạn)
HÀN LÂM THỊ ĐỘC NGUYỄN TRỌNG
(Trùng đính)
LỄ PHIÊN LÊ ĐÌNH HOAN (Thừa sao)




NGỌC PHẢ
HÙNG VƯƠNG


DỊCH VÀ BÌNH GIẢI
*

GS NGÔ ĐỨC THỌ (Dịch)
PHAN DUY KHA (Bình giải)








THAY LỜI NÓI ĐẦU :
GS NGÔ ĐỨC THỌ VÀ VIỆC DỊCH NGỌC PHẢ HÙNG VƯƠNG
Giáo sư Ngô Đức Thọ là chuyên gia Hán Nôm.
Ông là người đồng hương với tôi. Đồng hương đến “cấp” huyện (cùng quê Can Lộc, Hà Tĩnh). Là đồng hương, lại cùng nghiên cứu, viết sách báo về mảng đề tài Lịch sử nhưng tôi chỉ mới biết ông qua các tác phẩm của ông, chứ chưa hề được gặp mặt.
Mãi đến lần chúng tôi được ông Nguyễn An Kiều mời về dự lễ giỗ lần thứ 372 Hoàng giáp – Chánh sứ Nguyễn Duy Hiểu (ngày 2.7.2011) tôi mới được gặp ông. Ngay lần ấy, tuy là đồng hương, lại cùng trong một chuyến đi, nhưng tôi cũng không bắt chuyện làm quen với ông. Tính tôi vốn thế. Rất ít khi “mở rộng quan hệ ngoại giao”. Chỉ biêt việc mình mình làm. Trong công việc viết sách, viết báo về đề tài lịch sử, không có gì quý bằng độc lập suy nghĩ, phát biểu quan điểm của mình, không bị ảnh hưởng của ai cả.
Sau chuyến đi đó, tôi về mở mạng tìm hiểu tư liệu về Cụ Nguyễn Duy Hiểu, và tình cờ gặp được trang mạng của ông trên 360plus.yahoo.com .  Bạn đọc cần biết một sự thật này: Trong khi các nhà thơ, nhà văn, hầu như người nào cũng có trang Blog cá nhân của mình thì các nhà nghiên cứu lịch sử không hề có. Họ rất ít khi dùng mạng, thậm chí có người không hề biết đến vi tính. Cho đến hiện nay, tôi biết, có những vị GS, TS ngành Khoa học xã hội còn dùng bút mực chép tay bài viết rồi mang đến Tòa soạn báo hoặc ở xa thì bỏ phong bì, gửi bưu điện khi viết bài cộng tác. . . Chính vì vậy, khi bắt gặp trang mạng của một nhà nghiên cứu như ông, tôi thấy thú vị biết chừng nào! Ông lại là chuyên gia sâu về Hán Nôm, vì vậy, bài của ông thường là bài “độc”, tức là chỉ mình ông có. Tôi thường ghé thăm trang mạng của ông là vì thế.
Vừa rồi trên trang mạng của ông xuất hiện một bài mới về “Cựu đô Ngàn Hống”, đây là loại đề tài mà tôi tâm đắc. Không tâm đắc sao được, khi tìm ra/ phát hiện ra quê mình lại là Quốc đô đầu tiên của người Việt, trước khi có Kinh đô Phong Châu của các vua Hùng! Trước đây, tôi đã hai lần viết về đề tài này. Lần đầu tiên, từ những năm 1990, tôi viết bài “Đâu là quốc đô đầu tiên của người Việt” đăng trên Tạp chí Thế giới mới. Bài này sau đó tôi đưa vào cuốn Nhìn lại Lịch sử (Nxb Văn hóa –Thông tin 2003) , rồi đưa vào cuốn Nhìn về thời đại Hùng Vương (Nxb Lao động, 2009). Lần thứ hai tôi lại trở lại đề tài này với bài : Tiền thân của Kinh đô Phong Châu vốn ở Hà Tĩnh (đăng trên báo Khoa học & Đời sống Online) . Vì vậy, thấy có người quan tâm đến vấn đề mà mình quan tâm, tôi rất tâm đắc, liền truy cập vào ngay để đọc. Nhưng lúc ấy mới chỉ có tiêu đề và hai bức ảnh. Tôi liền ghi vào mấy dòng tin nhắn : “Chào Bác Ngô, tôi vào thăm trang của Bác luôn. Bác viết cho một bài kỹ hơn về đề tài này được không? Kính chào Bác.
Phan Duy Kha” (ngày 9.12.2011)
Ngay sáng hôm sau, mở lại trang mạng của ông, tôi đã gặp bản dịch dài về Ngọc phả Hùng Vương. Ngay dưới bản dịch này là bức thư ngắn ông viết trả lời tôi. Nguyên văn như sau:
Thư ngắn trả lời  Phan Duy Kha
Cảm ơn anh đã ghé xem trang của tôi và có để lại một tin nhắn. Lời nhắn của anh gửi khích lệ cho tôi cũng hơi bị . . .nhiều, bởi vì đúng lúc tôi mới dựng lên bài này bằng việc dịch đoạn mở đầu Hùng Vương Ngọc phả. Thông thường người ta viết cho xong hẳn rồi mới post lên mạng, nhưng tôi viết, dịch, trích ảnh v.v. . .luôn trên máy, đành bấm nút cho “Đăng”  luôn- đỡ lích kích hơn nếu để lưu vào “nháp”. Vì thế, có lẽ anh quan tâm mà tôi gây phiền cho anh phải trở đi trở lại nhiều lần. Mong anh thông cảm cho nhé. Tôi cũng đã xem bài của anh viết về Cựu đô Ngàn Hống, đem so thấy anh và tôi cùng dùng một văn bản, nhưng có lẽ bản của anh chụp ở Đền Hùng, bản tôi dùng là bản của Viện Hán Nôm, cũng chụp lại từ bản ấy. Việc này người ta cũng quên bẵng đi rồi, chúng ta cùng xới lại vấn đề xem sao ? Có thể có thêm được ý tứ gì mới không ?
Chúc anh vui mạnh
Ngô Đức Thọ” (10.12.2011)
Phía dưới bức thư, ông còn mở ngoặc ghi chú: “Tôi muốn đánh ngay vào chỗ trả lời ở comment của anh, nhưng quên mất cách gửi, nên đành đánh thẳng vào đây !”
Nhận được thư trả lời của ông, tôi rất mừng. Được biết là ông thường vào mạng, viết trực tiếp (online) trên mạng, không như tôi, thường đánh máy, sưả chữa , lưu vào file rồi mới post lên mạng (và cả gửi cho các báo). Ông cũng không dấu khả năng hạn chế khi sử dụng máy tính, quên cả cách thao tác khi trả lời comment. Những chi tiết nhỏ nhưng làm tôi thú vị. Người làm công tác khoa học thường chân thành đến từng chi tiết nhỏ như thế. Tôi liền viết thư trả lời ông trên comment :
“Kính gửi Bác Ngô Đức Thọ,
Nghe danh của Bác, đọc các tác phẩm của Bác từ lâu, nhưng mới được gặp Bác từ hôm chúng ta cùng được ông Nguyễn An Kiều mời về dự lễ giỗ lần thứ 372 Cụ Hoàng giáp Chánh sứ Nguyễn Duy Hiểu. Từ đó, tôi thường vào thăm trang mạng của Bác luôn. Tôi rất thích những bài Bác viết có liên quan đến các tư liệu Hán Nôm. Hôm qua tôi chỉ mới nhìn thấy tiêu đề bài viết và mấy bức ảnh, nên mạn phép ghi mấy dòng, không ngờ lại được Bác trả lời ngay dưới bài viết, làm tôi cảm động lắm. Kính chúc Bác mạnh khỏe và có nhiều bài nghiên cứu mới về đề tài lịch sử, nhất là các đề tài liên quan đến tư liệu Hán Nôm mà không phải ai cũng có, không phải ai cũng viết được.
Về bức không ảnh (ảnh vệ tinh) chụp vùng Ngàn Hống, Bác đưa vào rất quý. Nhưng nếu Bác bớt chút thì giờ, biên vẽ thành bản đồ ghi cụ thể thêm các địa danh rồi đăng bên cạnh bức ảnh để đối sánh thì tốt hơn nhiều. (vì người xem sẽ biết cụ thể hơn, chứ nhìn qua ảnh thì ít người biết) mong Bác lưu ý thêm.
Nếu lúc nào đó có thì giờ, xin mời Bác vào thăm trang mạng của tôi theo đường Link sau. . .
Kính chào Bác”.
Thư tôi viết hôm trước thì ngay ngày hôm sau, (11.12.2011) vào trang mạng của ông, tôi đã thấy tấm bản đồ vùng phía nam Ngàn Hống,tức là vùng được Ngọc phả Hùng Vương chỉ định là Cố đô Ngàn Hống đã được ông đưa vào rồi.
GS Ngô Đức Thọ bắt đầu công việc dịch Ngọc phả Hùng Vương như thế đấy
*
Và đây là đoạn văn ông viết về tôi, trong phần LỜI NGƯỜI DỊCH, ngay sau khi dịch xong Ngọc  phả Hùng Vương:
Có một nhà nghiên cứu khá quen thạo đề tài này, tôi tuy chưa gặp mặt, nhưng đã có dịp có vài trao đổi ngắn với ông trên mạng. Tôi rất thú vị vì biết ông rât thú vị đối với việc tôi đang làm, đến mức bản dịch tôi thực hiện trên blog đựơc đoạn nào là ông tải ngay về trang của ông đoạn ấy.
Hôm qua trước Noel mấy tiếng tôi làm xong bản dịch HVNP, sáng nay vào thăm trang của ông đã thấy ông loát đủ kèm theo một Comment nguyên văn như sau
: Ngọc phả Hùng Vương hiện lưu tại Bảo tàng Hùng Vương, Phú Thọ. Ngọc phả gồm 21 tờ, 42 trang chữ Hán. Tổng cộng gần một vạn chữ. Sau hơn nửa tháng (từ ngày 9 – 24. 12. 2011) miệt mài, cần mẫn, GS Ngô Đức Thọ đã dịch xong. Trong khoảng thời gian đó, cứ mỗi lúc ông dịch xong đoạn nào, tôi lại tải về đăng lên mạng của tôi đoạn ấy. Tôi đã từng nhiều lần sưu tầm nhưng chưa có một bản dịch Ngọc phả nào cho hoàn thiện. Thường thì người ta dịch từng đoạn , ai cần đoạn nào phục vụ cho công tác nghiên cứu của mình thì dịch đoạn ấy. Đây là bản dịch đầy đủ nhất cho đến hiện nay mà tôi biết được. Một lần nữa, xin ghi công và cảm ơn GS Ngô Đức Thọ (Phan Duy Kha). Người nghiên cứu đối với nhau, gửi cho những nhận xét chân thành đúng lúc như thế quả thật như cho nhau một thang thuốc bổ. Đó là ông Phan Duy Kha xác minh cho tôi đựoc một điều: Bao nhiêu lâu rồi, THẾ MÀ CHÚNG TA CHƯA CÓ MỘT CÔNG TRÌNH DỊCH THUẬT NÀO VỀ NGỌC PHẢ HÙNG VƯƠNG ĐƯỢC CÔNG BỐ”.(1)
Trên đây là mấy dòng GS Ngô Đức Thọ viết về tôi, viết cho riêng tôi trên trang mạng của ông trong bài LỜI NGƯỜI DỊCH, sau khi dịch xong Ngọc phả Hùng Vương (NPHV). Đây là một việc làm tự nguyện bởi không ai giao nhiệm vụ, cũng không ai trả công cho ông trong việc dịch thuật. Ngay ban đầu, ông cũng không có ý định dịch hết NPHV. Cái đầu đề từ ban đầu ông ghi trên bản dịch là “Cựu đô Ngàn Hống là đây” đã nói lên rằng, ông chỉ định dịch đời thứ nhất trong NPHV là đời vua Kinh Dương Vương, trong đó có phần vua chọn đất đóng đô ở Ngàn Hống. Bởi vì, NPHV tương đối dài, ngót một vạn chữ, gồm 42 trang chữ Hán (sau này, khi dịch xong tôi in ra được gần 40 trang giấy khổ A4). Rõ ràng là một công việc mệt nhọc so với cái tuổi gần 80 của ông.
Tôi là người có duyên may biết được công việc dịch thuật của ông ngay từ ngày đầu tiên (9.12.2011). Chính những lời động viên ban đầu kịp thời của tôi đã tiếp thêm sức cho ông mà như ông nói là “bằng cho nhau một thang thuốc bổ”. Từ đó, tôi luôn luôn theo dõi công việc của ông (trên mạng, dạo đó cả ông và tôi đều có trang mạng Yahoo.com). Hễ ông dịch xong đoạn nào, tôi lại tải về trang mạng của tôi đoạn ấy, thậm chí có khi ông còn chưa kịp sửa lỗi chính tả. Trong quá trình hơn nửa tháng đó, tôi và ông còn trao đổi với nhau nhiều lần qua comment

Đêm Nô en (24.12.2011), ông mới hoàn thành trọn vẹn bản dịch, và ngày hôm sau, tôi tải lên mạng của tôi văn bản hoàn chỉnh cuối cùng này.
Từ lâu tôi đã “săn tìm” NPHV nhưng thực sự là chưa có ai dịch trọn vẹn.Tôi chỉ gặp được đôi đoạn rời rạc trong các bài viết về thời Hùng Vương mà các tác giả trích dẫn.Thậm chí, vào khoảng những năm 1968 – 1972, chúng ta có 4 cuộc hội thảo lớn về đề tài Thời đại Hung Vương, sau đó, kỷ yếu của 4 cuộc hội thảo này đã được tập hợp in thành 4 cuốn sách “Hùng Vương dựng nước” (tập I, II, III, IV) mà cũng chẳng có công trình dịch thuật nào về NPHV  được in cả . Đó là một điều hết sức lạ lùng. Nghiên cứu về Thời đại Hùng Vương sao không nghiên cứu Ngọc phả? Đành rằng Ngọc phả không phải là lịch sử nhưng là bóng dáng của lịch sử, nó phản ánh tâm tư, tình cảm, quan niệm của cha ông ta về cội nguồn, ít nhất là vào thế kỷ 15 (thời điểm viết Ngọc phả) sao lại bỏ qua được? Vì vậy, việc dịch trọn vẹn NPHV của GS Ngô Đức Thọ là một việc làm rất có ý nghĩa.
Theo tôi được biết, hiện nay còn ba văn bản NPHV. Một bản soạn năm Thiên Phúc nguyên niên đời Lê Đại Hành (986) được cho là bản xưa nhất, một bản soạn năm Hồng Đức nguyên niên, đời vua Lê Thánh Tông (1470), tức bản GS Ngô Đức Thọ đã dịch và một bản soạn năm Hồng Phúc nguyên niên đời vua Lê Anh Tông (1572). Gần đây, ông Phạm Thuận Thành có giới thiệu một bản Ngọc phả ở đền Bình Ngô (An Bình, Thuận Thành, Bắc Ninh) do Hoàng giáp Nguyễn Tá Chánh soạn từ thời Nguyễn, dài hơn 5 ngàn chữ, chắc là sao lại từ một trong ba bản trên.
Các cơ quan, địa phương hay cá nhân nào còn giữ được các văn bản NPHV, nếu dịch ra quốc ngữ rồi công bố như GS Ngô Đức Thọ đã làm thì hay biết mấy. Hoặc nếu không có điều kiện dịch thuật thì phô tô rồi gửi bản chụp cho GS Ngô Đức Thọ thì đó là điều tâm nguyện của ông .

Khi tôi đang Post bài này lên mạng thì được tin GS Ngô Đức Thọ vừa được tặng giải thưởng Phan Châu Trinh về dịch thuật. Xin chúc mừng ông.
Hà Nội những ngày cuối tháng 12.2011
PDK
*
Chú thích (1) : Thực ra thì cũng đã có người dịch.
- Năm 1968, ở miền Nam,  ông Hà Ngọc Xuyến đã dịch Hùng Vương sự tích  Ngọc phả cổ truyền (Bộ Giáo dục, Trung tâm học liệu  Sài Gòn xuất bản, 1968), nhưng vì hồi ấy đất nước còn chia cắt, giới nghiên cứu ở miền Bắc không được tiếp cận tài liệu này. Nay không còn tìm lại được. Chưa biết ông Hà Ngọc Xuyến dịch theo văn bản nào.
- Năm 1972, ở miền Bắc, ông Lê Đức Đỗng quê ở Đất Tổ Hùng Vương, Phú Thọ đã dịch Hùng Vương kim Ngọc phả nhưng chỉ lưu truyền trong phạm vi dòng họ (xem thêm phần Phụ lục ở cuối sách)













PHẦN THỨ NHẤT:
NGỌC PHẢ HÙNG VƯƠNG


Tờ 1a, tên đầy đủ của Ngọc phả: HÙNG ĐỒ THẬP BÁT DIỆP THÁNH VƯƠNG NGỌC PHẢ CỔ TRUYỆN (Ngọc phả cổ truyện về 18 đời vua Thánh triều Hùng)
Tờ 1b: HOÀNG TRIỀU HOẰNG ĐỊNH NGUYÊN NIÊN CANH TÝ ĐÔNG THẬP NGUYỆT CÁT NHẬT HÀN LÂM THỊ ĐỘC NGUYỄN TRỌNG TRÙNG ĐÍNH (Hoàng triều, năm Canh Tý, niên hiệu Hoằng Định thứ nhất (1600), mùa Đông, tháng 10, ngày tốt , Hàn lâm thị độc là Nguyễn Trọng  sửa sang và đính chính văn bản)
SAO BẢN LƯU TẠI QUAN LANG PHỤ ĐẠO HÙNG VƯƠNG TÔN ĐIỆT PHỤ TRUYỀN TỬ KẾ DỮ NGHĨA CƯƠNG XÃ TRƯỞNG  TẠO LỆ HỘ NHI TRUNG NGHĨA HƯƠNG GIÁM THỦ ( Bản sao lưu tại nhà Quan lang Phụ đạo cháu chắt vua Hùng , cha truyền con nối làng Trung Nghĩa là dân Hộ nhi Trưởng tạo lệ xã Nghĩa Cương coi giữ)
LỄ PHIÊN LÊ ĐÌNH HOAN THỪA SAO
(Lễ phiên Lê Đình Hoan sao chép lại, không ghi ngày tháng, có lẽ cùng  với niên điểm Trùng đính, nên không chép lại )
Tờ 2a. CỔ VIỆT HÙNG THỊ NHẤT THẬP BÁT THẾ THÁNH VƯƠNG NGỌC PHẢ CỔ TRUYỆN (Ngọc phả cổ truyện về 18 đời vua Thánh triều Hùng nước Việt cổ)
*
Sau đây là toàn văn bản dịch của GS Ngô Đức Thọ:

 


HÙNG VƯƠNG NGỌC PHẢ
(Bản Hồng Đức nguyên niên)
BẢN DỊCH
Mục lục
1. KINH DƯƠNG VƯƠNG 涇陽王   
2. LẠC LONG QUÂN tức HÙNG HIỀN VƯƠNG 雄賢王   
3. HÙNG QUỐC VƯƠNG 雄國王   
4. HÙNG VIỆP VƯƠNG 雄曄王   
5. HÙNG HY VƯƠNG 雄羲王   
6. HÙNG HUY VƯƠNG 雄暉王    
7. HÙNG CHIÊU VƯƠNG 雄昭王   
8. HÙNG VĨ VƯƠNG 雄暐王   
9. HÙNG ĐỊNH VƯƠNG 雄定王   
10.  HÙNG UY VƯƠNG 雄威王   
11.  HÙNG TRINH VƯƠNG 雄禎王   
12.  HÙNG VŨ VƯƠNG 雄武王   
13.  HÙNG VIỆT VƯƠNG 雄越王   
14.  HÙNG ANH VƯƠNG 雄英王    
15.  HÙNG TRIỀU VƯƠNG 雄朝王    
16.  HÙNG TẠO VƯƠNG 雄造王    
17.  HÙNG NGHỊ VƯƠNG 雄毅王    
18.  HÙNG TUYỀN VƯƠNG 雄璿王   
CỔ VIỆT HÙNG THỊ NHẤT THẬP BÁT THẾ THÁNH VƯƠNG NGỌC PHẢ CỔ TRUYỆN
TÍCH XƯA LƯU LẠI CỦA BẢN NGỌC PHẢ CHÉP TRUYỆN TIỀN THÁI TỔ CAO HOÀNG ĐẾ CỦA THÁNH TỔ HÙNG VƯƠNG SƠN THÁNH
[ĐẾ MINH 帝明] Cháu ba đời của vua Viêm Đế là Đế Minh sinh Đế Nghi rồi đi tuần du phương nam, đến núi Ngũ Lĩnh (giới hạn ở động Bạch Hổ tỉnh Vân Nam – xưa gọi là động Xích Quỷ, nguyên thuộc nước ta gọi là quận Giao Chỉ. Động Xích Qủy sau gọi là nước Xích Quỷ, nay đổi là nước An Nam) thì gặp nàng Vụ Tiên thần nữ, sinh ra Kinh Dương vương.
[Đời thứ 1]
KINH DƯƠNG VƯƠNG 涇陽王
Vua thông minh thánh trí, vượt trội hơn tầm của Đế Nghi. Đế Minh muốn truyền ngôi báu để làm chính thống cho muôn nước. Nhưng Kinh Dương vương cố nhường cho anh. Thế là Đế Minh lập Đế Nghi nối ngôi, cai trị phương Bắc, phong cho Kinh Dương vương quay mặt về phương nam mà cái trị thiên hạ [tức là làm vua phương Nam], gọi tên là nước Xích Quỷ.
Kinh Dương vương kính tuân chỉ dụ của vua cha, đem quân lính theo núi Nam Miên mà đi về phía nam. Trên đường ngắm xem phong thủy, chọn nơi hình thế thắng địa để đóng đô ấp [tức quốc đô].
Qua đất Hoan Châu (nay đổi là xứ Nghệ An. Nơi đó là các xã Nội Thiên Lộc, Tả Thiên Lộc, Tỉnh Thạch thuộc huyện Thiên Lộc phủ Đức Quang) vua chọn được một vùng phong cảnh tươi đẹp, [núi non] muôn nhẫn lâu đài, gọi là núi Hùng Bảo Thứu Lĩnh, tất cả có 199 ngọn. (Xưa gọi là Cựu Đô, nay gọi là Ngàn Hống).
Vùng này giáp biển ở cửa Hội Thống, đường núi quanh co, đường sông uốn khúc, địa thế rồng cuộn hổ ngồi, bốn hướng cùng trông, bèn xây dựng đô thành để định nơi cho bốn phương triều cống
Bấy giờ khí xuân ấm áp, vô vàn cảnh sắc. Vua Kinh Dương bản tính thích phong thuỷ bèn lên thuyền ngự tuần du hải ngoại. Vua trải xem địa đồ, bất giác thấy thuyền rồng đã thẳng đến hồ Động Đình. Vua sai dừng thuyền,  đứng xem cảnh trời nước. Vua chợt thấy một thiếu nữ lưng eo, dung nhan tuyệt sắc từ dưới nước đi lên. Vua cho là cuộc hội ngộ hiếm có xưa nay, bèn sai quân chèo thuyền đến gần. Vua nói:
- Tiên nữ đẹp quá, từ đâu đến đây?
Thiếu nữ đáp:
- Thiếp tên là Thần Long, là con gái vua Động Đình. Thiếp ở trong thâm cung cửa ngọc, từ lâu đợi bậc anh hùng. Nay gặp thiên sứ, nguyện được hầu trầu khăn.
Kinh Dương vương vui mừng đẹp ý, bèn dắt tay thiếu nữ bước vào trong long thuyền. Vua cho quay thuyền trở về thành đô, lập Thần Long làm Cung vi chính khổn (Hậu cung Chính khổn)

Ngày sau vua lại đi tuần thú, rong ruỗi xa giá xem khắp các nơi sơn xuyên. Đến xứ Sơn Tây thấy một nơi địa hình đồi non chập chùng, sông đẹp núi lạ. Vua  bèn tìm mạch đất, nhận được khí mạch từ trên núi Côn Lôn đi xuống, qua cửa Ải, lòng sông thoát mạch, rồng đi gần xa đến núi Tụ Long tiếp với châu Thu Vật xứ Tuyên Quang, biến ra toà Kim tinh cao muôn nhẫn. Mạch đất chảy đến các làng Hạ Hoa, Thanh Ba, Sơn Vi, Tây Lan, Phù Ninh phủ Lâm Thao, rồi đến chùa Long Hoa thôn Việt Trì ở Ngã ba sông Bạch Hạc là dừng. Mạch này bên trái từ sông Lôi Hà núi đi đến đâu sông theo đến đó, qua các huyện Đông Lan, Sơn Dương, Đương Đạo, Tam Dương đột khởi núi Tam Đảo, Tả cung Tiên làm thanh long. Trùng sơn vạn thuỷ, nổi lên các dãy núi ở Lập Thạch, Bách Ngoã, Chu Diên, Thanh Tước, Ngọc Bội, Khai Quang. Phụ bên trái có các núi Châu Sơn, Sóc Sơn, Chung Sơn,Trà Sơn, Từ Sơn, Trạm Sơn, Tích Sơn, An Lão sơn thuộc xứ Kinh Bắc chầu về, dẫn đến Hải Dương, Đông Triều, Hoa Phong, Yên Tử thoát ra đến biển, Đồ Sơn tám xã làm Long đầu chầu án. Mạch bên phải từ Ba Thục, Hán Giang, Nhị Hà, Lô Giang, Thao Giang, núi chạy đến đâu sông theo đến đấy. Đến Tuyên Quang, Hưng Hoá, Thập Châu, Thanh Nguyên, Bạn Hà, Đà Hà đến huyện Bất Bạt đột khởi núi Tản Viên. Hữu cung tiên làm Bạch hổ, muôn nhánh quần sơn nổi lên ở Minh Nghĩa, Phúc Lộc, Thạch Thất,Yên Sơn, Tây Phương, Sài Sơn, Tử Trầm, hũu bật đến Chương Đức, Đại Yên, Hương Tích sơn thuộc xứ Sơn Nam. Bên phải là Na Sơn, Nam Công, Vũ Phượng sơn, Đội sơn, Điệp sơn, Nghi Dương sơn, chầu phục vào trong, chảy thoát đến núi cửa biển Thần Phù ở núi Chính Đại thuộc Ái Châu, thoát đến Chích Trợ sơn, cửa Trà Lý làm đầu hổ chầu, lấy sông Bạch Hạc làm Nội minh đưòng, lấy Ngã Ba Lãnh ở sông Cả thuộc huyện Nam Xương làm Trung minh đường, núi Tượng Sơn ở Nam Hải làm Ngoại minh đường. Nghìn non nâng chủ, vạn thuỷ chầu nguồn, đều hướng về ngọn tổ sơn Nghĩa Lĩnh. Thu tận hình thế, vua nhận ra thế cục của đất này quý đẹp hơn đô thành cũ ở Hoan Châu, bèn lập Chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh để thỉnh thoảng ngự giá đến nghỉ. Bên ngoài lại dựng đô thành Phong Châu (nay là Cựu đô thành ở thôn Việt Trì xã Bạch Hạc, huyện Bạch Hạc), đặt quốc hiệu là nước Văn Lang (Đông giáp Nam Hải, tây đến Ba Thục,  bắc đến Động Đình hồ, nam tiếp nước Hồ Tôn (nay là nước Chiêm Thành). Rồi vua ngự giá về cựu đô ở Hoan Châu. Việc dựng đô thành của vua, trước bắt đầu ở núi Thứu Lĩnh, sau lại dựng ở núi Nghĩa Lĩnh, nay lấy núi Nghĩa Lĩnh làm nơi đóng đô ấp của nước Việt Thường. Bấy giờ vua đi tùân thú trở về cung điện ở núi Nghĩa Lĩnh vừa lúc cung phi con gái vua Thần Long có mang, rồng hiện điềm lành, khắp nhà rực ánh sáng đỏ, trong trướng hương thơm ngào ngạt toả ra. Cung phi nghỉ trong trướng ngọc khoảng một tuần (10 ngày) thì sinh ra Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân huý Sùng Lãm, ở ngôi 400 năm, thọ 420 tuổi, sinh một bọc trăm trứng, an lành nở ra 100 con trai. Vương định 100 họ (tính), đặt 100 tên, xưng 100 hiệu, làm 100 vị thần, mỗi vị chiếm cứ một khu, đều xưng là Thuỷ tổ của Bách Việt, rất mực linh thiêng. Vua cha là Long Quân hoá sinh bất diệt, trở về biển thành Tiên, là Động Đình đế quân.
Long Quân bẩm sinh tư chất phi thường, tự có khí tượng đế vương, bèn được lập làm Hoàng thái tử.

Bấy giờ có con gái của Đế Lai tên là Âu Cơ về sống ở quê mẹ tại động Lăng Sương huyện Thanh Nguyên châu Đà Bắc (nay đổi làm sách Lăng Sương huyện Bất Bạt). Một hôm Âu Cơ đi chơi ở châu Trường Sa, gặp khi vua đi tuần thú ở Đà Giang. Vua thấy Âu Cơ dung nhan xinh đẹp, rất vừa ý, bèn lấy làm vợ, lập làm Hoàng phi. Thề rồi Kinh Dương Vương sai Lạc Long Quân ra ở tại đô thành núi Nghĩa Lĩnh tại Phong Châu thay vua cha làm việc nước.
Kinh Dương vương ở ngôi 215 năm, thọ 260 tuổi. Lạc Long nhiếp chính.

[Đời thứ 2]
LẠC LONG QUÂN tức HÙNG HIỀN VƯƠNG 雄賢王

Long Quân lên nối ngôi, đổi hiệu là Hùng Hiền Vương. Bấy giờ nàng Âu Lạc (tức Âu Cơ) có thai đã 3 năm 3 tháng 10 ngày, mây ngũ sắc sáng bừng đầu núi Ngũ Lĩnh. Giờ ngọ ngày 25 tháng 12 năm Giáp Tí cái thai trong bụng Âu Cơ chuyển động, đến giờ ngọ ngày 28 khắp nhà hương thơm toả nức, ánh sáng loé lên trong trướng, hoàng phi Âu Cơ sinh ra một bọc màu trắng như ngọc. Khi hoàng phi mới sinh, hương lạ thơm nức khắp núi Nghĩa Lĩnh và cả vùng đất tổ Phong Thứu, Ngọc Lĩnh, Liên Trì (đầm sen).
Hiền vương thấy hoàng phi sinh tú bào hết sức dị thường , cổ kim thiên hạ chưa từng thấy. Người trong nước lấy làm lạ. Vua bèn triệu hội bách quan văn võ triều thần đến chầu ở chính điện. Giờ ngọ hôm ấy ba tiếng ống lệnh rung trời chuyển đất vang lên giữa không trung trong thành nội, núi sông cây cỏ muôn vật đều phải kinh hoàng, mây lành ngũ sắc sáng bừng khắp ba ngàn thế giới. Muôn chim bay chầu trên chính điện, dưới núi làn nước tung sóng cuộn dâng. Trăm kình nghê muông thú, muôn vật cá tôm gội gió mưa về chầu cống. Vua thấy quốc gia có điềm lành kỳ lạ, bèn xuống chiếu cho bá quan văn võ sửa sang áo mũ trai giới tịnh khiết đến tề tựu ở điện Kính Thiên đèn hương phụng hầu chầu lạy Hoàng thiên thượng đế, Tứ phủ vạn linh.
Ngày hôm ấy vào giờ Thân bỗng thấy một áng mây xanh từ phía Tây bay đến hội ở sân rồng điện Kính Thiên, rồi bốn vị thiên tướng hiện ra rất kỳ lạ. Các vị tướng ấy cao hơn nửa trượng, đầu đội mũ hoa, mình mặc cẩm bào xanh, lưng thắt đai ngọc, chân đi hài sắt, nói cười đều loé hào quang lưỡi lửa. Rồi giữa các tầng mây hiện lên nhiều thiên quan thiên tướng. Ngọc Hoàng thượng đế xuống sắc:

Hiền chúa Nam Miên bọc rồng trăm trứng, nở ra trăm trai trị nước.
Nay sai Tứ đại Thiên vương phù giúp bảo hộ. Vậy ban sắc này.
Hiền vương sai truyền long bài truyền các quan văn võ ngước lên trời cao vái vọng, rồi lạy tạ Thiên vương. Thiên vương nói:
Bào ngọc trăm trứng, rồng lành giáng sinh.

Thiên sứ báo cho Hiền vương đặt chiếu sắc của Ngọc hoàng Thượng đế lên chiếc mâm vàng đem đến ngôi chùa cổ ở núi Viễn Sơn, chuyển cho Từ Sơn Thiên Quang hoà thượng ở ngọn Thứu Lĩnh (sau đổi là Thiên Quang thiền tự) lưu giữ ở trong chùa, chọn quan trai giới chầu hầu, đèn hương không ngớt. Đến ngày bào trứng nở ra, Hiền vương theo lời dặn của Tứ đại thiên vương chờ đợi các trứng tự nhiên biến hoá. Hiền vương thành tâm làm lễ cầu đảo lớn.
Thế là vào giờ ngọ ngày rằm tháng giêng trăm trứng an lành nở ra trăm con trai. Khắp Long thành đầy mây ngũ sắc, ánh lành toả rạng khắp nơi, hương trời thơm ngát bay toả khắp chốn núi sông.
Trong khoảng một tháng các chàng trai không cần bú mớm mà lớn bật lên như người trưởng thành, tướng mạo phương phi, dáng hình kỳ tú, thân cao ba thước bảy tấc, cái thế anh hùng.
Hiền vương triệu phi tần sáu cung đến phát các tấm gấm lĩnh để khâu may 100 bộ áo mũ cấp cho các chàng trai. Trong một ngày các cung nữ được ba lần cười vui, thường lấy hoa sen, lá sen trên hồ đem đến tặng cho các chàng trai. Được một trăm ngày, các chàng trai đã lớn, nhưng không biết nói, chỉ biết cười. Đúng trăm ngày, vào giờ Thìn ngày 20 tháng 7 cả trăm chàng trai đều cười vang, nói lớn:
Trời sinh bậc thánh,
Trị nước sinh vua,
Thanh bình bốn biển,
Thiên hạ vững yên.
Thế là một trăm hoàng tử đều đến trước sân rồng ở điện Kính Thiên.
Bỗng thấy một áng mây ngũ sắc từ trên không bay sà xuống sân rồng. Hiền vương thấy 8 vị thiên tướng đầu đội mũ đồng, mình mặc áo bào giáp sắt,chân đi hia bạc, lưng thắt khăn rồng quá độ (quá độ long cân?), tướng mạo sang quý sáng láng, mắt sáng như sao, miệng nhả hào quang hoả khí, tay cầm thần kiếm linh trượng, chày ngọc búa sắt, dàn hàng đứng hai bên tả hữu chờ lệnh. Bỗng không trung biến hoá, nhất thời mưa gió nổi lên,mây mù vờn bay vây quanh chính điện trên núi Nghĩa Lĩnh. Trong khoảnh khắc núi non mất hình, sông suối tràn dâng, không ai lường được chuyện gì xẩy ra. Sau khoảng ba giờ (nửa ngày) bầu trời lại tạnh sáng. Đó là 8 vị thiên tướng gọi là Bát bộ Kim Cương vâng sắc chỉ của Chư Phật ở Thượng thiên sai xuống hộ vệ 100 vị hoàng tử. Nay các hoàng tử đã trưởng thành đôn hậu minh mẫn, tám tướng phụng sai đưa các hoàng tử đến lạy mừng vua cha trị bình trong nước.
Tâu xong các các thiên tướng biến hoá bay về trời, ban cho Hiền vương một lệnh long bài, một quả bảo ngọc thần ấn, một hòn ngọc trắng, một thanh kiếm thần, một quyển Thiên thư (sách trời), một chiếc thuớc ngọc, một chiêc mâm vàng, tất cả đều đặt trong chính điện. Hiền vương vâng mệnh đón nhận, coi đó là điềm lành lớn trời ban để trị yên thiên hạ.
Hiền vương thấy 100 con trai bỗng nhiên đã trở nên cao lớn, thân cao bảy thước ba tấc, tay cầm thần khí thiên bảo, chia hàng đứng chầu hai bên tả hữu. Các hoàng tử lạy mừng phụ hoàng. Hùng vương xuống chiếu truyền rằng:
Trăm con trời sinh của ta thánh văn thần vũ, hùng tài đại lược, giúp nước yên bình, thiên hạ ngước trông, thi nhân hoá đức, cha con vua tôi cùng vui.
Hiền vương cho triệu bách quan đến lạy mừng rồi cùng triều hội để nghị bàn quốc sự, đổi hiệu thay tên. Trăm con trai trăm hiệu, vị thứ cao thấp trước sau. Trăm hoàng tử đều có tư chất hơn người, anh hùng bậc nhất xưa nay, thần tài thánh trí. Các quan triều đình lúc ấy cũng không ai dám phân biệt được trong các hoàng tử thì ai là người anh minh quyết đoán hơn, cho nên cũng khó đặt các danh hiệu. Triều đình tâu rằng:
-Nước có Thánh vương, sinh các hiền tướng, đều là những bậc trong triều không ai sánh bằng, vậy nên chúng thần không ai dám bàn định danh hiệu các hoàng tử. Kính thỉnh Thánh phụ xét tài của các hoàng tử để định danh hiệu.
Hiền vương phán rằng:
-Chính sự lớn của triều đình phải có người anh tài nổi bật mới có thể đảm đương được. Trẫm vâng mệnh Trời gây dựng cơ đồ lớn lao, mở nước trị dân, theo mệnh trời sinh đựoc trăm con trai. Nay trẫm muốn phong truyền chức quan cho các con, Trẫm thành tâm lập đàn chay,  mật khấn Hoàng thiên cùng vạn linh ngự hội để đặt định danh hiệu trăm quan.
Bấy giờ vua lên đàn tràng khấn lễ cầu đảo lớn. Vua vừa cầu khấn xong, tự nhiên có cảm ứng, có vị thần ở phương Tây tới. Bỗng thấy một ông già râu tóc bạc phơ đầu đội mũ Phật gấm lĩnh, mình mặc áo vải nhuộm nâu,  chân đi hia, tay cầm gậy tre ra chơi chùa Hoa Long ở thôn Việt Trì huyện Bạch Hạc. Ông già rửa chân bên sông rồi ngồi nghỉ trên tảng đá phẳng trên con sông gọi là sông Nhị Hà. Hôm ấy có triều quan là Nguyên suý tiết chế tướng quân trấn thủ đô thành Phong Châu đang ngồi trên ngôi lầu bên sông. Quan Nguyên suý trông thấy ông Tiên đang xem phong thuỷ, cúi đầu nhìn xuống đáy sông, một chân ghếch lên tảng đá hình lưng rùa (Đá lưng rùa ở thôn Việt Trì huyện Bạch Hạc; chùa Hoa Long ở bên bờ sông. Nay dấu tích ông Tiên hãy còn). Quan trấn thủ bền mời cụ già đến hỏi chuyện. Quan đem hết chân tình quốc sự bộc bạch với cụ già, mở tiệc khoản đãi rồi mời ông về điện vua trên núi Nghĩa Lĩnh. Triều quan vào tâu vua. Vua thân hành ra mời cụ già vào cung mở tiệc chúc mừng. Hiền vương hỏi:
-Tiên sinh từ đâu đến ngao du phong cảnh ở đây? Nay trong nước có chuyện lạ, nhờ Tiên ông chỉ giáo cho.
Tiên ông ha hả cười vang.
Hiền vương vẫn đứng nói chuyện, hỏi Tiên ông:
-Trẫm có điềm lành sinh đựoc trăm con trai trí tuệ thông minh thì tất cả đai khái cũng như nhau, cho nên khó đặt định danh hiệu vị thứ, cũng không biết ai anh ai em. Kính nhờ Tiên ông đặt tên, định thứ bậc giúp cho
Tiên Ông đáp:
-Ta sinh ở thời Hoàng Đế, theo học đạo Phật, ngao du nơi hải ngoại càn khôn. Trong ba ngàn thế giới ta thích đến nuớc Nam Miên ngắm xem phong thuỷ. Vua cho mời ta đến đây, ta có một quyển sách thần có thể bói xem mọi việc trong thiên hạ, gọi tên các vị Tiên. Huống chi quốc gia đã có thành tâm lập đàn cầu đảo, đã cầu tất ứng. Xin nhà vua thành tâm để lão vận trù một quẻ hỏi xem tiền định thế nào? Tiên Ông bèn xem mặt các hoàng tử, phân định thứ bậc anh em. Đoạn Tiên ông lấy bút giấy ra đặt tên cho một trăm hoàng tử. Viết xong, Tiên ông đặt tờ giấy lên chiêc mâm vàng. Để phân định thứ bậc anh em, Hiền vương lại  gọi 100 hoàng tử đến hội ở chính điện để nhận tên đã ghi trong sách. Mọi người đồng thanh cần phải có bậc huynh trưởng đứng đầu. Rồi mọi người lại chia xếp thành hai hàng đối nhau đợi lệnh. Một người được gọi tên được lập làm Vương trừ thái tử (Thái tử nối ngôi vua), còn 99 người khác lần lượt đến trước mâm vàng nhận danh hiệu được ban. Từ đó thứ bậc anh em phân định rõ ràng, ai nấy đều vui. Xếp đặt mọi việc đã xong, Tiên ông tự nhiên biến hoá về trời. Hiền vương sai các quan thường xuyên đến chùa Từ Sơn Thiên Quang Hoà thượng cầu Phật ứng hộ. Vương trừ Thái tử tục danh là Hùng Lân sau đổi là Hùng quốc vương. Các con thứ có tên là Xích Lang, Quỳnh Lang, Mật Lang, Thái Lang, Vĩ Lang, Huân Lang, Yến Lang, Tiêu Lang, Diệu Lang, Tĩnh Lang, Tập Lang, Ngọ Lang, Cấp Lang, Tiếu Lang, Hộ Lang, Thục Lang, Khuyến Lang, Chiêm Lang, Vân Lang, Khương Lang, La Lang, Tuần Lang, Tán Lang, Quyền Lang, Đường Lang, Kiều Lang, Dũ Lang, Ác Lang, Hãn Lang, Liệt Lang, Ưu Lang, Nhiễu Lang, Lý Lang, Thế Lang, Dạng lang, Tróc Lang, Sát Lang,Cốc Lang, Nhật Lang, Sái Lang, Chiểu Lang, Điềm Lang, Kiềm Lang, Trường lang, Thuận Lang, Tẩm Lang, Thai Lang, Triệu Lang, Ích Lang, gồm 50 trai theo lệnh cha. Hương lang, Thiêm Lang, Thận Lang, Văn Lang, Vũ Lang, Linh Lang, Tịnh Lang, Hắc Lang, Quản Lang, Cao Lang, Tế lang, Mã Lang, Chiếu Lang, Khang Lang, Chỉnh Lang, Đào Lang, Nguyên Lang, Miên Lang, Xuyến Lang, Yêu Lang, Thiếp Lang, Bái Lang, Tài Lang, Trừng Lang, Triệu Lang, Cố Lang, Lưu Lang, Lộ Lang, Quế Lang, Diêm Lang, Huyền Lang, Nhĩ Lang, Tào Lang, Nguyệt Lang, Sâm Lang, Lâm Lang, Triều Lang, Quán Lang, Canh Lang, Thải Lang, Lôi Lang, Thấu Lang, Việt Lang, Vệ Lang, Mãn Lang, Long Lang, Trình Lang, Tuấn Lang, Tòng Lang, Thanh Lang, gồm 50 trai theo lệnh mẹ.
Từ đó các hoàng tử đều đã có tên gọi, trưởng thành phương trưởng, ngồi chính toạ ở triều đường, vị thứ xếp trên các quan. Hiền vương bèn phong hầu riêng cõi, chia nước làm 15 bộ:
Một là Sơn Tây, hai là Sơn Nam, ba là Hải Dương, bốn là Kinh Bắc, năm là Ái Châu, sáu là Hoan Châu. bảy là Bố Chanh, tám là Ô Châu, chín là Ai Lao, mười là Hưng Hoá, mười một là Tuyên Quang, mười hai là Cao Bình, mười ba là Lạng Sơn, mười bốn là Quảng Tây, mười lăm là Quảng Đông.
Trước đó Long Quân nói với Âu Cơ rằng:
-Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, giống loài không hợp nhau, chung sống với nhau thực cũng khó. Vì thế ta phải lìa nhau thôi. Chia 50 con theo cha về biển, làm Thuỷ tinh. Chia 50 con theo mẹ về núi, làm Sơn tinh, làm hiển rạng cho các vương tử, trấn ngự khắp các vùng núi biển, đều là với danh nghĩa thần thuộc. Vua bèn đặt quan văn gọi là Lạc hầu, đặt tướng võ gọi là Lạc tướng; các vương tử gọi là Quan Lang vương, các vương nữ (công chúa) gọi là Mị Nương. Các quan hữu ti gọi là Bồ Chính.
Thời bấy giờ trên chính nhân luân, dưới hậu phong hoá, thi hành việc gì ai cũng được thích nghi. Vua vì thế đựoc rũ áo khoanh tay, hoà mục trong chốn cửu trùng. Dân nhờ thế được đào giếng cấy ruộng, vui sống ở nơi thôn dã. Không một người dân nào bị xua đuổi không chốn sinh cư, không một vật nào không được yên bề nuôi dưỡng. Công thành trị định, đứng đầu so với các tiên vương, dẫu là phong hoá của thời thái cổ cũng không sánh kịp.
Hùng Hiền vương hưởng nước dài lâu, đời đời cha truyền con nối, đều gọi là Hùng Vương. Ngọc lụa xe thư, núi sông một mối. Đó là Thuỷ tổ của Bách Việt.
Hiền vương ở ngôi bốn trăm năm, sau về biển, hoá sinh bất diệt, làm Động Đình đế quân.
[Đời thứ 3]
HÙNG QUỐC VƯƠNG 雄國王
Thái tử là Hùng Quốc vương đứng đầu trăm anh em tôn thừa nghiệp lớn, sau khi nối ngôi thi hành chính sự đức giáo, khuyến khích nông tang, khiến dân không lo nghèo thiếu, nước có tích luỹ của dư. Hoàn vũ thanh bình, không ai gian xảo giả dối, phong tục hồn thuần chất phác. Xét xem xuyên suốt cho đến bấy giờ, vua là bậc nhiều công hưng trị, càng sáng hơn các tiên vương, các đời đều tôn xưng là bậc hiền quân. Bấy giờ vua truy ơn các bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất phân cõi, lập các bộ sơn tinh thuỷ tinh, định làm trăm vương, đổi làm trăm họ, chia đất đầu núi góc biển, hùng cứ một phương. 50 trấn đầu núi đều gọi là Quan lang phiên thần phụ đạo;  50 trấn góc biển đều gọi là Thuỷ thượng linh thần, tiện cho việc bảo hộ sinh dân, khuông phù xã tắc. Hùng Quốc vương hưởng ngôi hơn 221 năm, thọ 260 tuổi, sinh đựoc con trai con gái 50 hoàng tử.
[Đời thứ 4]
HÙNG VIỆP VƯƠNG 雄曄王
Thái tử Hùng Việp vương nối ngôi chính thống, nhớ công ơn sáng đẹp của tiền nhân để giáo hoá khích lệ sĩ phong. Lấy nhân nghĩa làm khuôn dân tục. Dựng xây tu sửa miếu đền, bách thần được thăng phong cấp bậc, hoá nhật thiên hạ sáng tưng bừng. Không đất nào không có nhân tài, trong hoà khí xuân phong vẳng nghe  nhạc thiên uy, xuất hiện thái bình cảnh tượng. Ở đời có vầng sáng, thẳng thông với tiền nhân hướng trị thế cùng về. Vua hưởng ngôi 300 năm, bèn lập Thái tử là Hùng Hy vương để kế thừa quốc thống.
[Đời thứ 5]
HÙNG HY VƯƠNG 雄羲王
Hùng Hy vương lên ngôi, nắm vận lớn bốn đời, nhạy bén hưng khởi trị bình, trong sửa văn đức thu phục nhân tâm, ngoài lập vũ công, chấn uy phong với nước lạ, khiến cho xã tắc yên bình, biên cương vô sự. Từ đó người xa bắc thăng trèo núi mà đến, vượt biển mà sang, chẳng đâu không thần phục, chốn xa nơi vắng, thảy đều thấm nhuần mỹ hoá thuần phong, trị công lỗi lạc, so với tiền vương không thẹn, đủ làm một đấng vua hiền. Hùng Hy vương hưởng quốc lịch 200 năm, bèn lập Thái tử là Hùng Huy vương kế thừa quốc chính.
[Đời thứ 6 ]
HÙNG HUY VƯƠNG 雄暉王
Huy vương lên ngôi, noi theo quy chế của tiền vương, cũng có chí chăm việc nuôi dân. Nhưng kế thừa nền thái bình đã lâu, ngòi rãnh dễ tràn, cam chịu yến tiệc yên vui, không chịu khó nghĩ suy chính sự. Bấy giờ có Bà mo (vu nữ) tinh thông địa lý thông hiểu thiên văn, thường đem bí pháp thần cơ tâu vua, tự xưng là Tiên nhân, xin cho vào hầu trong cung để thưa đáp khi vua cần hỏi đến. Ngày sau đình thần có vị quan tâu rằng:
– Bà mo ấy mù tịt về mo sử, xem ra chỉ là một mụ đàn bà bình thường thôi! Chỉ giỏi bàn luận vu vơ, thực chẳng biết trời đất thiên địa. Sao vua lại cho mụ ta hầu cận, bàn nói chuyện hoang đường? Bọn thần cho rằng bệ hạ đã bị mụ ta làm mê hoặc.
Vua cho là phải, bèn sai bắt bà mo giam trong cung. Sau đó vua sai lập một đàn tế khác, cũng làm giả các voi trắng không ngà, voi đen ba chân, ngựa đỏ năm chân để cầu đảo với Thiên vương. Vua bảo đình thần:
-Trẫm dùng kế ấy để xem người bà mo có biết giả trá hay không?
Hoàng thiên tuy cao, nhưng nghe xong tỏ ý không bằng lòng, xem đến các đồ lễ thì hoàn toàn không linh ứng. Hoàng thiên bèn giáng tai ương để cảnh báo nhân quân không có đức.
Bấy giờ Hùng Huy vương mới nghiệm biết đạo trời báo ứng ngay trước mắt. Bấy giờ vua cho đưa bà mo đến bảo: ” Ngươi biết dò xét huyền cơ, nay trong ngước có triệu chẳng lành, ngươi có thể bay lên trời tìm hỏi xem lý do thế nào?
Bà mo bèn nằm thiếp trong khoảng ba canh rồi nói lảm nhảm như người đang chiêm bao. Ba ta nói mình đã đến trước cửa khuyết Thiên đình, tâu rằng: “Tôi vâng mệnh quốc vương lên tâu thiên đình: Nay trần thế đang có tai ương, chưa biết nguyên do nào gây nên như thế?
Ngọc Hoàng phán:
-Ngươi mau trở về báo cho vua ngươi biết: Lưới trời lồng lộng, thưa mà không thể lọt. Trần hoàn lóc lóc [1] , có cầu có nguyện tất được tòng tâm.
Hùng Huy vương mù quáng kiêu căng, rông càn làm lễ vật giả dối. Đó là do trời báo phạt, không chỉ giáng bấy nhiêu tai ương mà thôi. Ba năm sau [nếu không sửa chữa] tất sẽ có nạn giặc lớn!
Nghe phán xong, bà mo liền tỉnh lại. Bà mo tâu lại mọi chuyện với vua. Huy vương nghe nói cả kinh. vẫn cho bà mo ở lại trong cung để nghiệm xem lời nói của bà ta có nghiệm hay không. Huy vương lại sai triều quan dựng đàn ở Trung Đô, các lễ vật như voi ngựa vàng bạc đều dùng đồ vật thật ở trung cung. Khi lễ nghi đã đầy đủ, vua thân lên đàn đọc văn khấn tế:
-Ngu si lầm lỗi, đem vật uế dâng lễ Hoàng thiên. Sự hãy nhãn tiền, xét xem đủ thấy. Cúi xin Thượng đế chuyển hoạ làm lành, đội ơn vạn hạnh. Ngu si cúi ngước, cậy nhờ ơn đức Hồng quân!
Vua khấn xong, bỗng thấy mây cuồn gió cuộn nổi lên, trời mung lung chuyển sắc. Khói hương trên đàn tế bay lên hoà sắc cùng mây lành đang toả xuống.
Hùng Huy vương thảng thốt kinh sợ, khấu đầu lạy tạ rồi lên xe về cung. Vua lại sai bà mo lên thiên đình xin Hoàng thiên tha tội để nước nhà được yên. Bà mo trở về tâu với Huy vương:
-Vua biết hối lỗi, đã đựoc Hoàng thiên xét soi. Tuy năm sau có giặc xâm lăng, nhưng trời cho nhân tài sinh ra để giúp nước, vua khỏi phải lo nghĩ nhiều!
Vua tin lời.Quả nhiên ba năm sau bỗng có tin từ biên cương đưa về cáo cấp: Tướng giặc Ân là Thạch Linh thần tướng khởi binh từ Bắc đạo tiến sang, giáo mác giáp trụ liên tiếp kín trời, tinh kỳ rợp đất, quả đúng như lời bà mo đã nói. Hùng Huy vương bèn cho đắp đàn tế, trai giới tịnh khiết rồi lên đàn thắp hương cầu khấn. Các quan triều đến dự hội tế suốt trong ba ngày. Sau đó mưa to sấm gió nổi lên, bỗng thấy một cụ già thân cao hơn 9 thước, mày râu bạc phơ đang cười nói nhảy múa ở chỗ ngã ba đường, ai trông thấy cũng phải lấy làm lạ, cho là bậc kỳ nhân. [Quan hầu] vào tâu vua, vua đích thân ra đón mời vào đàn tế, nói với kỳ nhân rằng:
-Nay quân Bắc sang xâm lăng, thắng thua chưa biết thế nào, xin lão ông cho chỉ giáo. Lão ông trầm ngâm hồi lâu, rút thẻ bói quẻ rồi đáp:
-Nếu tìm được người thì giặc này không đáng phải đánh dẹp!
Nói xong cụ già vút lên không bay đi. Vua thấy vậy biết đó là lời dạy của Lạc Long quân. Thế là vua sai người hầu đi tìm khắp nơi trong nước.
Sứ giả đến làng Phù Đổng quận Vũ Ninh (nay là huyện Tiên Du). Làng ấy có người nhà giàu tên là Ông Trưởng, ông 79 tuổi mà bà cũng đã 59 tuổi. Trước nhà có mảnh vườn trồng hoa. Sáng sớm ngày 6 tháng giêng năm Quý Hợi bà vào vườn hái hoa, thấy dấu chân người khổng lồ. Bà bèn gọi chồng cùng vào vườn xem, quả nhiên thấy có dấu chân của thần nhân. Ông chồng bảo bà vợ bước chân trái dẫm vào đó. Tự nhiên bà thấy cảm động trong người, rồi mang thai. Đến ngày 8 tháng Tư năm Giáp Tí bà sinh một con trai. Con được đúng một tuổi thì Ông Trưởng qua đời, chỉ còn mẹ già sáu mươi bú mớm nuôi con, lên ba tuổi đặt tên là Thiết Xung thần vương, ăn uống lớn phỗng, nhưng không biết nói cười. Ngày hôm ấy cậu bé đang nằm trong dóng, mẹ cậu nghe sứ giả đi rao khắp thiên hạ nói là tìm người có đại tài đi đánh giặc thì nói vui rằng: “Con ta chỉ biết ăn uống mà không biết đánh giặc để triều đình trọng thưởng quan tước mà trả ơn bú mớm cho mẹ”. Nghe mẹ nói thế, cậu bé bỗng bật ra lời nói:
-Xin mẹ gọi sứ giả vào đây!”
Khi sứ giả vào nhà, cậu bé nói:
-Ta là Thiết Xung thần tướng đây! Trời sinh ra ta để giúp nước, dẹp loạn cứu dân. Ngươi về triều thưa với vua cho ta một con ngựa sắt cao 10 thước, một cây vọt sắt dài 10 thước, một chiếc nón sắt rộng 3 thước, đưa mấy thứ ấy đến đây cho ta là vua không phải lo gì nữa!
Sứ giả trở về chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh tâu vua đầy đủ mọi việc. Vua cả mừng, sai tìm đủ 50 trăm (=5.000) cân sắt để rèn thành ngựa sắt, vọt sắt, nón sắt. Đến giờ Mão ngày 7 tháng Giêng năm Bính Dần vua sai quan Tiết chế đem 10 vạn hùng binh đem ngựa sắt roi sắt nón sắt đến làng Phù Đổng. Thiết Đổng nói:
Vua theo đúng hẹn,
Vận nước lâu bền.
Quân giặc phải tan,
Một ngày giúp nước,
Thiên cổ danh vang.
Rồi Thiết Đổng nói với mẹ và họ hàng thân thích rằng: “Tính con hay ăn, xin soạn cho các món trâu rượu, hoa quả”.
Dân lang nghe thế nhà nhà đem trâu rượu đến. Chỉ trong chốc lát Thiết Đổng đã ăn xong bữa tiệc lớn để lên đường đi giúp nước cứu dân.
Ngày hôm ấy mặt trời vừa đúng chính ngọ, Thiết Đổng cười vang một tiếng, đưa tay khịt mũi mười lần, tiếng vang như sấm, ánh mắt loé sáng như chớp rồi vươn mình cao hơn 18 thước. Vì chưa kịp may quần áo nên sai 10 vạn quân đi bẻ hoa lau đem về kết thành đồ mặc.
Thiết Đổng lạy tạ mẹ:
-Mẹ là Thánh mẫu, con là Thần vương. Một ngày lập công giúp nước, vạn năm hương lửa vô cùng!
Thiết Đổng nói xong nhảy lên ngựa, thét vang như sấm:
-Ta là Thiên tướng thần vương, vâng sắc chỉ xuống giúp nước!
Rồi quất ngựa phóng như bay, chỉ phút chốc đã đến dưới chân núi Vũ Ninh huyện Yên Việt đại chiến với Thạch Linh thần tướng bên sườn núi Vũ Ninh. Quân nước Ân thua to tan chạy. Thạch Linh thần tướng bị bắt sống chém đầu. Bọn giặc còn lại chưa diệt hết, nhưng vọt sắt của Thiết Đổng thần vương đã bị rơi mất. Thần vương bèn nhổ lấy các bụi tre gai vung lên quét sạch các toán quân giặc! Khi đến núi Sóc xã Vệ Linh huyện Kim Hoa Thiết Đổng thần vương bèn cởi bỏ bộ áo hoa lau, phóng ngựa bay lên không rồi cưỡi lên các đám mây mà bay đi. Nay nơi ấy vẫn còn dấu chân ngựa in trên lèn đá.
Nghĩ Thiết Đổng thần vương có đại huân lao giúp nước, nhưng chưa từng gặp mặt, không biết lấy gì báo đáp, Hùng Huy vương bèn truy tôn thần là Phù Đổng thiên vương, truy tôn bà mẹ làm Thánh mẫu, cho dựng đền thờ trên nền nhà cũ. (Nay ở xã Phù Đổng huyện Tiên Du và thôn Đổi Mã xã Vệ Linh huyện Kim Hoa có các đền miếu phụng thờ) Cấp cho làng Phù Đổng 100 khoảnh ruộng để đèn hương phụng thờ.
Vua lại cho xây điện Cửu trùng tiêu (điện cao chín tầng) trên núi Nghĩa Lĩnh làm Kính Thiên linh điện để thời thường cầu đảo, vâng lĩnh ý trời. Từ đó trong cõi thái bình, nước nhà vô sự. Nhà Ân trải 27 đời vua hơn 640 năm không dám đem quân sang đánh nước Nam . Hùng Huy vương hưởng nước 87 năm, thọ 100 tuổi thì băng (Mộ táng ở trước núi, hướng Kiền Tốn).
[Đời thứ 7]
HÙNG CHIÊU VƯƠNG 雄昭王 
Thái tử là Chiêu vương nối ngôi kế thừa đại thống.
Vua cố gắng chuyên tinh chính trị, sau khi đựoc kế thừa thanh thế đánh giặc vang lừng của vua cha bèn cho cất cung khoá giáp, tỏ ý không dùng binh nữa, chỉ lo an dưỡng muôn dân, sửa sang giáo hoá. Rồi đó lấy chuyện trước làm răn, không dám làm càn dâng lễ uế tạp khiến cho hoàng thiên giận giáng tai ương, giặc ngoài biên mấy lần xâm phạm, sáu đời thừa huởng thái bình bỗng trở thành thời loạn. Từ đó vua kính sùng thiên đạo, kính thờ quỷ thần, phàm các nơi trên núi dưới biển ở đâu có hiển ứng linh thiêng đều sai trăm quan văn võ đến xây cất miếu điện, hoạ vẽ thánh tượng, thành tâm phụng thờ. Vua bèn ngự điện Kinh Thiên, cho xây cất Dao đài ngọc khuyết, tô vẽ cung tường, trang hoàng miếu vũ, bố trí nghi vệ nhất nhất trang nghiêm. Các đồ tế khí cũng đều cho vẽ rồng mây, ngày đêm đèn hương không ngớt. Hàng tháng cứ ngày sóc (mồng một) vọng (rằm) vua đều trai giới  lên ngự điện coi chầu. Bên cạnh điện từ xưa có một ngôi chùa nguyên là nơi khi xưa Thượng thánh thường đến tu luyện thân tâm, chế thuốc linh đan hiệu dụng nhiệm màu, nhờ đó đắc pháp thành Tiên, hoá sinh bất diệt, giữa thanh thiên bạch nhật bay lên trời, về sau phát tích tại chùa này. Chùa được Thần Tiên bộ chúng giáng thế dực phù, núi sông chung đúc linh thiêng lạ đẹp, trời trăng tinh tú, Tứ đại Thiên vương, Bát bộ Kim cương,Nhị thập bát tú cùng bách thần tụ hội để theo hầu hộ vệ. Sơn tinh Thuỷ tinh, sông ngòi biển núi, trăm thú đến chầu, tất cả đều quy về một mối, xưa gọi là Từ Sơn cảnh Thừa Long tự ( nay đổi là Thiên Quang thiền tự). Nay Hùng Chiêu vương cũng đến ngự ở chùa ấy, truyền cho bách quan tả hữu tu sửa trong chùa, cả bốn vách chùa đều cho vẽ các ảnh tượng màu sắc huy hoàng, xung quanh chùa trồng cây trồng hoa làm phong cảnh. Nền móng đã thành, bèn truyền hịch cho các châu huyện nơi nào có tăng ni, đạo sĩ đến hội đồng làm lễ thì được cấp phát áo mũ, tụ hội đạo chúng để thuyết pháp giảng giải chân kinh, khai mở nguồn đạo. Đạo chúng dâng cúng hương hoa, bốn mùa thơm phức.
Hùng Chiêu vương lại sai quần thần mồng một và ngày rằm dâng lễ chay  (trai lễ), hai ban văn võ đứng chầu nghiêm trang, vua kính cẩn đọc sớ dâng quả. Tháp cửu tiêu tuy cao, nhưng đèn hương dễ thấu áng mây lành; một tấm thành tâm cảm cách thông đến thiên địa. Cầu tất ứng, uớc nguyện đều được tòng tâm. Bỗng thấy một lão ông mình vàng mặt ngọc cưỡi mây bay xuống. Vua lạy chào rồi mời lão ông vào trong điện chùa.
Lão ông nói:
-Ta là thần miền Tây vực, cư trú lâu ngày ở Biển Giác, chu du trên thuyền Bát nhã (Trí tuệ), không nhiễm lòng trần. Nay ta đang đi phơi thuốc ở đường đến Niết Bàn, thấy nơi đây dân chúng lòng thành cảm cách, râm ran tiếng cầu kinh xướng kệ, cho nên ta cảm ứng mà đến đây. Vua mừng thầm: “Nhân tâm thành ý, thiên ý tất thông”
Trong chốc lát, cụ già lấy trong ống tay áo ra một chiếc móng rồng (long trảo) bằng ngọc đem trao cho vương. Liền đó một đám mây ngũ sắc hiện ra sáng loá cả núi rừng. Lão ông bước lên đám mây ấy mà bay lên trời.
Bấy giờ Hùng Chiêu vương mới biết đó là đức Phật bèn sụp quỳ lạy tạ. Ngày hôm ấy vua truyền cho bách quan triều thần ăn ở chay tịnh rồi lập đàn cúng ở chùa, cung thỉnh bách thần đến hội ở núi Thượng Linh. Lời chúc văn viết rằng:” Ngày hôm nay Chiêu vương tôi may mắn được gặp một vị lão ông tặng cho một cặp kỳ vật, không biết nên đem làm gì cho đựoc quý báu? Chư vị thần linh nếu hay biết nguyện xin chỉ giáo cho”.
Chiêu vương vừa khấn xong bỗng thấy trên không rực sáng, rồi một đám mây lành sà xuống, Tứ đại thiên vương hiện lên giữa đàn. Thiên vương mình cao bảy thước, mày râu bạc trắng, đầu đội mũ hoa màu sắc rực rỡ. Chiêu vương lạy chào rồi mời thiên vương vào trong điện. Chiêu vương sửa sang áo mũ lạy chào.
Thiên vương nói: 
-Hai vật quý Lão ông đem tặng là của Hoàng Thiên thượng đế, vua hãy dùng vật ấy để chế ra một cái chuôi kiếm và một quả ấn phù, cần phải mài dũa cho thật sáng để làm vật quốc bảo.
Nói xong Thiên vương lại bước lên mây mà đi.
Hùng Chiêu vương hướng về phía đầu núi mà vái vọng. Cũng nhân việc này vua cho đắp thánh tượng đặt ở trong chùa để phụng thờ. Rồi đó Chiêu vương ngự giá về cung, sai đem khối ngọc khắc thành quả bảo ấn, đem chiếc móng rồng bằng ngọc tạc thành cái chuối kiếm. Trên mặt ấn khắc 3 chữ “Thiên Linh ấn”, trên chuôi gươm cũng khắc 3 chữ “Thiên Lĩnh nhẫn”( nhẫn cũng là kiếm).
Từ đó xã tắc vô lo, triều đình yên tĩnh. Vua nghiệm ra một điều rằng lẽ trời rất mực huyền vi, đối với đạo trời vua dốc lòng ngày một thêm sùng chuộng. Một ngày kia tiết trời tạnh sáng, muôn cảnh đều tươi mới, quần hồng áo tía đầy thành, người và cảnh vật dịu yên trong ánh thiều quang. Quần thần dâng lời tâu:
-Chúng thần nghe nói núi Tam Đảo là nơi quần Tiên thường hay đến hội. Vua vốn trọng việc quỷ thần, nên một phen đến đó ngoạn thưởng.
Vua bèn truyền cho xa giá đi ngắm xem phong cảnh. Xe loan đến nơi, Chiêu vương mừng thấy đồi vóc núi gấm, lâu đài lớp lớp toả sáng ngàn tầm; suối biếc khe xanh lặng tung bọt sóng. Cảnh vật tranh sắc, hoa cỏ đua thơm. Đầu ngọn núi nhỏ có ngôi chùa cổ tên là chùa Tây Thiên dựng trên khoảnh núi địa thế như con rồng trắng bay sà xuống. Vua bèn cho dựng đàn tràng, sửa dọn lễ chay, sai quần thần dâng tiến đứng chầu. Vua làm lễ bái yết, mở một tràng công đức ở trong chùa, vua thân đến dâng lễ, sớm cầu tối nguyện trong bảy ngày bảy đêm, trai gái bốn phương kéo về dự hội đông như mây họp. Mọi người cùng vui thăm xem cảnh vật. Dẫu chim chóc chốn sơn lâm cũng được nghe kinh, tuy cá tôm dưới khe suối cũng vui nghe giảng kệ. Công đức viên thành, vương lại đến bên khe Thạch Bàn để xem tiên cảnh. Bỗng thấy trên lầu điện nguy nga khói sương lấp lánh, bốn phía quần hội rồng mây, mông lung lâu đài đất Phật hiện lên. Một bầu núi non, đúng là cảnh Bồng Lai thú vị. Vua bèn vào chùa Phù Nghi, đứng xem Tiên Đàn, khấn nhẩm lời cầu nguyện Hoàng Thiên thượng đế. Rồi vua truyền gọi triều thần văn võ đến hội chầu. Khi mọi người đã sửa sang áo mũ nghiêm trang, vua đọc văn khấn chúc: “Cúi nguyện Hoàng thiên cho các vị thần tiên giáng xuống cho Chiêu vương tôi cùng triều thần có dịp hạnh ngộ, thoả lòng mong uớc ba sinh”.
Đọc chúc xong vua sụp xuống lạy tạ. Nhưng sau ba ngày vẫn không thấy bóng dáng của các vị Tiên. Hùng Chiêu vương hồi hộp lo lắng, nhưng không biết phải làm thế nào? Vua bèn đến chỗ núi Long Đầu hướng về Tiên Đàn mật khấn. Đêm ấy vua chiêm bao thấy một vị thần linh hiện lên bảo rằng:
“Tây đại sơn nhân thượng [ ]
Bất kiến tâm hạ tướng.
Hội đông túc danh nhân
Doãn cư thượng khẩu vượng
( Tạm dịch: Người trên núi phương Tây/ Chẳng rõ tướng trong lòng/ Gặp mọi người phương Đông/ Tin ở trên miệng nói. Bài thơ viết theo lối chơi chữ, sẽ ứng với việc gặp Tiên Nữ ở dưới). Chiêu vương nhận đựoc bài thơ thần bốn cấu đó xong liền xa giá về cung. Về đến dưới núi thấy một mỹ nhân phong tư xinh đẹp, cốt cách thanh cao đang đứng bên điện Cẩm Miếu xem xa giá nhà vua. Vương thích nhan sắc cô gái ấy, bèn lấy làm vợ. Đến khi về cung, Chiêu vương hỏi: “Nhà nàng ở đâu?” Cô gái đáp:
-Thiếp là tiên nhân giáng sinh xuống trần ở Đông Lộ làm con của Ông Trưởng. Thiếp đã mấy mùa hoa vịnh sử ngâm kinh, che châu giấu ngọc để đợi bậc anh hùng. Gần đây trộm nghe bệ hạ làm kinh động đến cả Tây Thiên, dựng đàn tràng muốn cầu Tiên tử. Thiếp vì thế dẫu chẳng phải xa xôi cũng đến xem, may duyên trời tiền định cho thiếp được gặp quân vương, xin nguyện phụng hầu nơi màn trướng không phụ nguyện ước ba sinh.
Chiêu vương nghe lời kể của mỹ nhân, biết hoàng thiên sai đưa tiên nữ đến cho mình. Thế là Chiêu vương sai quần thần sắm sửa sính lễ, rồi ngự xa giá đến nhà Trưởng Ông ở Đông Lộ xin nạp sính lễ. Rồi đó vương lên xe trở về kinh đô Phong Châu lập tiên nương làm vương phi chính nhất. Chưa đầy năm vương phi mang thai, rồi sinh một trai tư chất bẩm sinh thông minh, anh tài trác việt, đến tuổi trưởng thành được vua cha lập làm Thái tử nối quốc thống, hiệu là Hùng Vĩ vương. Về sau, Chiêu vương cùng hoàng phi nhờ có tiên thuật hưởng nước được 200 năm, tuổi thọ sánh ngang tuế nguyệt Kiều Bành, hoá sinh bất diệt. [ ]
[Đời thứ 8]
HÙNG VĨ VƯƠNG 雄暐王
Hùng Vĩ vương nối vị, kế thừa ngôi báu các đời tiên vương . Lúc mới nắm quyền, các việc chính sự thi thố kể cũng khả quan. Vương thấy lấy ấn kiếm đưa cho quần thần xem mà bảo: “Trẫm có hai vật báu linh thiêng, lo gì không trị được thiên hạ?” Từ đó thần uy của Vĩ vương càng chấn động, thanh thế lên cao, những kẻ gian phu trong bốn phương thảy đều vỡ mật run tim. Trong nước thái hoà, biên cương vô sự, thiên hạ ngợi khen là bậc vua hiền. Hiền Vĩ vương hưởng nước đựoc 100 năm thì băng.
Truyền đến:
[Đời thứ 9]
HÙNG ĐỊNH VƯƠNG 雄定王
ở ngôi 80 năm.
[Đời thứ 10]
HÙNG UY VƯƠNG 雄威王
ở ngôi 90 năm.
[Đời thứ 11]
HÙNG TRINH VƯƠNG 雄禎王
ở ngôi 170 năm.
[Đời thứ 12]
HÙNG VŨ VƯƠNG 雄武王
ở ngôi 96 năm.
[Đời thứ 13]
HÙNG VIỆT VƯƠNG 雄越王
ở ngôi 105 năm.
[Đời thứ 14]
HÙNG ANH VƯƠNG 雄英王
ở ngôi 99 năm.
[Đời thứ 15]
HÙNG TRIỀU VƯƠNG 雄朝王
ở ngôi 94 năm.
[Đời thứ 16 ]
HÙNG TẠO VƯƠNG 雄造王
ở ngôi 92 năm.
Trải qua 16 đời, đều xưng hiệu là Trị Bình Kiến Phu治平建夫.
[Đời thứ 17]
HÙNG NGHỊ VƯƠNG 雄毅王
Thừa hưởng nhiều đời thiên hạ thái bình, vương sinh ra đam mê tửu sắc, ham thích du chơi, không lo sửa sang võ bị. Vua nước Thục từ xa nghe tin nước Nam không mấy khi dùng đến việc võ nên muốn thống nhất dư đồ, nhưng sợ nước Nam có cây kiếm thần nên còn do dự chưa quyết
Bấy giờ chúa Phụ đạo bộ Ai Lao là người có hùng tài đại lược, cũng vốn là tông phái của Hùng vương. Vua Thục biết thế bèn đem quân sang đánh bộ Ai Lao để đoạt chức chúa Phụ đạo. Bộ Ai Lao không kháng cự được bèn sai sứ giả sang cầu cứu với Hùng Nghị vương. Hùng Nghị vương thân đem 10 vạn tinh binh tiến thẳng đến dưới thành Ai Lao để cứu viện. Thục vương nghe tin bèn biên thư gửi cho Hùng Nghị vương, nói: “Quân Thục từ phía tây đến chỉ muốn bắt bộ chủ [Ai Lao] để truyền cho ngôi báu, đâu dám giơ càng bọ ngựa mà chống với muôn cỗ xe của nhà vua?
Nghị vương thấy lời lẽ trong thư như thế bèn rút quân về. Thục vương bèn bắt được bộ chủ [Ai Lao] đem về nước mình, gả công chúa  rồi nhường ngôi cho [người chủ bộ cũ của bộ Ai Lao ấy]. Thục vương sai sứ giả sang tạ ơn Hùng Nghị vương, xin coi nước Nam là huynh, nước Tây (Thục) là đệ, cùng nhau giảng hoà định ước, hai nước quan hệ đi lại với nhau. Hùng Nghị vương bằng lòng như thế. Từ đó nước Tây (Thục) và nươc Nam ta hưu binh. Hùng Nghị vương ở ngôi 160 năm, lập Thái tử là Hùng Tuyền vương.
[Đời thứ 18]
HÙNG TUYỀN VƯƠNG 雄璿王
Tuyền vương [  ] kế nối chính thống, gồm đủ thánh triết, tài lớn anh hùng, kế thừa cơ đồ lớn lao 17 đời tổ đắp tông bồi. Trong sửa võ bị, ngoài giữ biên cương, dốc chí hưng thịnh trị bình, giữ yên trong nước. Xa noi nền trị của các bậc tiền vương, kính sùng thiên địa, kính thờ quỷ thần, trời ban phúc lành, mến giúp quốc sự. Vì thế vương càng gia tăng sùng chuộng, kính tín thần nhân, truyền hịch cho thần dân trong nước sửa thêm đền miếu, nghi vệ trang nghiêm, ngày ngày đều dâng hương hoa tỏ lòng thành kính phụng thờ. Châu huyện nào có quan cai quản thì mỗi tháng đôi lần viên quan ấy phải đến làm lễ mật khấn bách thần cầu nguyện  cho mệnh mạch quốc gia dài lâu. Vương đích thân lên núi Nghĩa Lĩnh xem tôn điện của các tỏ tong cùng linh điện các danh tướng của lịch triều, thảy đều cho sửa sang tu bổ. Tăng thêm tầng cao của các dãy tường bao,lâu đài muôn trượng vươn cao như cột chống trời, ánh sáng bừng lên khắp bốn phía. Cuốn đất một bầu phong cảnh, dựng đàn yết lễ, truyền cho văn võ triều thần sửa sang áo mũ một màu làm lễ chầu chính. Rồi đó vương và quần thần lên xa giá đi thăm các cung Tiên ở Tam Đảo, Tản Viên, xem khắp địa thế những nơi núi non lạ kỳ phong cảnh tươi đẹp, cho dựng các điện miếu, mật khấn cầu phúc cầu con. Nhưng đến thời này lịch số cáo chung, cơ đồ họ Hùng đã đến hồi kết thúc. Tuyền vương chiêm bao thấy điềm rắn lớn, sau sinh được con gái hai nàng, đều là những trang thục nữa phụ đức trinh hiền, phong tư tuấn nhã, so ra thì Tề Khương, Tống nữ chỉ là hạng tầm thường, cha vua mẹ tiên, lứa duyên thật xứng hợp. Nàng chị là Mỵ Châu Tiên Dung công chúa, nàng em là Mỵ nương Ngọc Hoa công chúa, đựoc vua cha hết mức yêu quý. Mỵ Châu sau được gả cho Chử Đồng Tử ( ở xã Đa Hòa huyện Đông Yên phủ Khoái Châu xứ Sơn Nam ). Còn Mỵ nương công chúa, phụ vương có ý kín muốn tìm kẻ tuấn kiệt anh hùng nên giai kỳ chưa định. Vua bèn cho dựng hai ngôi lầu ở đầu núi Việt Trì, treo biển đề tên là Đãi hiền lâu (lầu đợi hiền) [  ], cho công chúa thứ hai đến ở lầu ấy. Tiếp đó truyền hịch truyền cho văn nhân tài tử khắp bốn phương đất nước đến hội ở kinh thành để thi tài, ai trúng tuyển sẽ được vua gả công chúa. Thế là bốn phương hào kiệt đều hoan hỉ nhảy múa, lũ lượt đông như mây họp kéo đến quốc đô. Hùng Tuyền vương đích thân ra đề ngự thí. Lúc bấy giờ thiên kinh vạn quyển đều nhòm xét ở cung tường Khổng Mạnh, tứ khoá tam truyện chẳng khiêm nhường Lục thao, Tam luợc của Tôn Ngô. Hiền tài trong thiên hạ đều có mặt cả ở trường thi Hội. Nhưng phần nhiều dược mặt này thì mất mặt kia, cùng lóc lóc trôi tuột cả, đều chưa phải là bậc toàn tài của đương thời. Duy có Sơn Tinh và Thuỷ tinh là hai bạn đồng học cùng thầy, có nhiều thuật pháp thông thiên nhập địa nhưng không đến kịp để dự thi. Hai ngày sau hai người mới tới kinh thành, dâng lời tâu lên vua:
-Bọn thần thẹn nỗi kém tài, sống thừa trong vương quốc. Trộm nghe thánh thượng lớn mở khoa thi kén rể hiền. Bọn thần đến muộn, nhưng muốn được thi tài để gặp vận may không lọt ra ngoài hịch chiêu hiền của thánh thượng.
Hùng Tuyền vương cả mừng, bèn đặc cách lên xe đến sông Bạch Hạc ngự thí cho hai người. Sơn Tinh đến ngồi ở đầu sông, Thủy Tinh trở về dưới đáy nước. Trong khoảnh khắc bỗng thấy mây mưa nổi lên giữa dòng, mặt sông gió tung bụi cuốn. Đáy biển vang tiếng động ầm ầm, trên không chớp loè loang loáng. Giao long, rùa, cá từng đoàn theo sóng tung lên muôn vạn lớp; kình, ngạc, côn, nghê nuốt muôn sóng ngàn sông. Một bầu trời đất, muôn trũng sóng cuồn. Trong khoảng tranh tối tranh sáng, những ai trông thấy đều phải rụng mật run tim. Sơn Tinh tay trái cầm quyển sách, tay phải cầm cây trượng, miệng niệm thần chú. Tay chỉ vào đâu nơi ấy hiện lên muôn quái nghìn kỳ, thảy đều do trượng đầu vung quét. Một biến một hoá đều là diệu pháp thần cơ, huyền vi khôn lường.
Hùng Tuyền vương thấy hai hiền tài đều có phép thuật như nhau, không biết nên chọn gả công chúa cho người nào? Vua bèn lên xe trở về cung, triệu Sơn Tinh và Thuỷ Tinh đến bảo:
-Trẫm chỉ có một viên ngọc Lam Điền, ngày trước vua Thục cầu hôn không gả. Nay hai khanh đều là bậc anh hùng, chưa biết phải thẩm định thế nào cho tiện. Vậy ai đem sính lễ đến trước thì trẫm gả cho người ấy.
Thế là Sơn Tinh và Thuỷ Tinh hẹn nhau:
-Bọn ta cùng trở về sửa soạn sính lễ, để xem ai là người đến trước? 
Thuỷ Tinh trở về thuỷ cung ở Động Đình, lại còn phải tìm chọn lễ vật cho thật tân kỳ. Sơn Tinh thì chỉ xuống lầu cầm gâỵ trúc chỉ lên trời nhẩm khấn xin Ngọc hoàng ban cho các vật làm sính lễ. Khấn xong liền thấy voi trắng chín ngà cùng các đồ châu ngọc trân kỳ từ trên trời hiện xuống. Sơn Tinh bèn cho xếp đặt, vừa đúng giờ Tí (nửa đêm) đã đưa các đồ sính lễ đến trước lầu rồng của Tuyền vương. Tuyền vương bèn gọi công chúa đến báo cho biết đã gả Mỵ nương cho Sơn Tinh. Sơn Tinh bèn đưa rước ngay Mỵ Nương về sơn động ở núi Tản Viên. Đến giờ Mão Thuỷ Tinh cũng đêm đủ lễ vật đến. Tuyền vương nói: “Sơn Tinh đã đem lễ đến trước rồi!”.Thuỷ Tinh tức giân bỏ về thuỷ cung.
Hùng Tuyền vương hưởng nước 115 năm rồi nhường ngôi cho rể là Sơn Tinh Tản Viên. Sơn Tinh cố từ không dám nhận.
Tuyền vương nói:
-Cơ đồ họ Hùng đã hết, khanh có thể lên thay.
Tản Viên còn do dự chưa quyết thì Thục vương (là chúa Phụ đạo nước Ai Lao, cũng là tông phái Hùng vương) từ xa nghe tin Tuyền vương nhường ngôi cho Tản Viên, bèn đem quân sang đánh Hùng Tuyền vương để xâm chiếm nước Nam .
Vua (Tuyền vương) binh hùng tướng mạnh, Thục vương mấy lần bị đánh bại. Vương bảo với Thục vương: “Ta có sức thần, Thục vương không sợ sao?”
Từ đó Tuyền vương bỏ bễ không chăm sửa sang võ bị, chỉ đam mê tửu sắc làm vui. Đến khi quân Thục kéo đến tận nơi, vua vẫn còn say khướt chưa tỉnh. Quân lính trở giáo đầu hàng quân Thục. Hùng vương bèn đắp thành ở Việt Thường [  ] rộng nghìn trượng khoanh tròn như hình con ốc, gọi là Loa Thành. Mới đầu thành đắp đến đâu đổ đến đấy. Bỗng thấy một con rùa vàng trên sông từ phía đông bơi đến, xưng là Giang sứ. Hùng vương lấy mâm vàng đặt rùa lên đấy rồi hỏi rùa vì cớ gì mà thành đắp cứ đổ mãi? Rùa vàng đáp:
-Đó là do quỷ hại. Phải trừ tinh khí của nó đi thì thành tự nhiên đắp xong.
Tuyền vương đem rùa vàng đến một ngôi quán gần bên núi Thất Diệu giả làm khách đi đường vào ngủ trọ. Đêm ấy tinh quỷ ở bên ngoài gọi mở cửa. Rùa vàng hét to một tiếng, quỷ không vào được, đến khoảng gà gáy quỷ binh tan chạy cả. Rùa vàng bảo vua theo vết chân quỷ mà đuổi, đến núi Thất Diệu thì tinh khí của chúng bị thu nhốt hết. Tuyền vương sai đào núi lên, thu đựoc một cỗ nhạc khí cổ và mấy bộ xương người. Vương sai đốt huỷ, đổ tro xuống sông, đến khi ấy yêu khí của ma quỷ mới trừ hết.
Từ đó việc đắp thành của Tuyền vương không quá nửa tháng là xong. Rùa vàng từ tạ ra đi, rút một chiếc móng đưa cho Tuyền vương mà dặn rằng:
-Quốc gia yên nguy có số trời, nhung người cũng phải có phòng bị. Nếu thấy giặc đến thì dùng móng thiêng này làm cái lẫy nỏ mà bắn thì vương không có gì phải lo!
Hùng Tuyền vương bèn sai bề tôi là Cao Lỗ chế nỏ thần, lấy cái vuốt thiêng làm máy, đặt tên là “Linh hoa kim trảo thần nỗ”. Sau khi đã có nỏ thần, Hùng Tuyền vương thu họp tàn quân, tuyển thêm dân binh, rồi sai người đưa thư cho Tản Viên, nói: “Thục vương đem quân sang đánh, đã chiếm đô thành của ta, khanh mau đem quân đến cứu viện”
Tản Viên bèn dẫn binh mã thẳng đến Loa Thành, dàn quân đối trận với Thục vương để khuếch trương thanh thế. Mấy hôm sau Tản Viên khuyên Hùng Tuyền vương:
-Họ Hùng hưởng nước kể cũng đã lâu dài. Lòng trời ắt có hạn, khiến cho Thục vương thừa cơ gây hấn xâm lấn nước ta. Vả lại Thục vương vốn là bộ chủ Ai Lao, cũng là dòng phái của tiền hoàng đế. Nay quốc thế không được bình thường, cũng là chuyện do tiền định. Vua có yêu riêng gì một cõi đất phương nam mà cưỡng lại ý trời, làm hại sinh linh? Vả lại bệ hạ và thần đã có phép thần tiên, không gì hơn là quay về chốn Bồng Hồ, Lãng Uyển, tiêu dao ở làng quê bất lão, thanh nhàn nơi gác phượng lầu rồng, há phải nhiễm bẩn bụi trần, vàng ngọc châu báu cũng chẳng bằng mảy lông, ngọc nữ tiên đồng cũng chỉ mát mắt chốc lát. Trí lự như thế mới thật là cao!
Tuyền vương cho là phải. Rồi Tuyền vương sai đưa thư nhường nước cho Thục vương. Thục vương sai sứ đến tạ ơn. Tuyền vương nhân đó tặng cho Thục vương chiếc nỏ thần, rồi trở về núi Nghĩa Lĩnh cùng với Tản Viên Sơn Tinh biến hoá vào cõi hoá sinh bất diệt.
Thục An vương đã được nhường nước, tưởng nhớ ơn đức trời biển của Hùng Tuyền vương bèn xa giá đến núi Nghĩa Lĩnh cho dựng Dao Đài để làm nơi quốc gia phụng thờ, dựng hai cột đá trong núi, chỉ tay lên trời thề rằng:
-Nguyện trời cao mây xám lồng lộng xét soi: nước Nam trường tồn trường tại. Ngôi miếu Hùng vương nơi đây nếu vua sau kế trị mà bội ước nhạt thề thì sẽ bị rìu trăng búa gió trừng phạt, không phụ lời thề của tiền nhân.
Đọc lời khấn xong, Thục vương lạy tạ rồi lên xe trở về kinh đô Phong Châu, cho triệu các dòng phái cành vàng lá ngọc của dòng họ Hùng ban cho danh hiệu Trung nghĩa huơng (làng Trung nghĩa), cấp cho dân tạo lệ hưởng dụng lâu dài, cấp 500 mẫu ruộng ở gò Nghĩa Lĩnh thuộc bản thôn. Lại cấp cho các cánh ruộng ở nhiều địa phương để thu tô thuế: trên từ Tuyên Quang, Hưng Hoá, dưới đến các xã ở Việt Trì hàng năm nộp hoa lợi để dùng vào việc đèn hương phụng thờ 18 đời vua Hùng từ Thánh tổ Cao hoàng đế đến các vua kế đời truyền nối.
Thục An vương kế nối trị nước được 50 năm thì xẩy ra việc nhà Tần lập các đạo quân gồm những dân phạm tội phải chạy trốn lưu vong, những người đi ở rể bị bán làm binh, sai Hiệu uý Đồ Thư làm tướng chỉ huy, sai Sử Lộc đào cừ chở lương thực, tiến sâu vào đất Lĩnh Nam, chiếm đất Lục Lương, đặt các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận; lấy Nhâm Ngao làm Thái thú quận Nam Hải, Triệu Đà làm lệnh doãn huyện Long Xuyên (Nay ở đình Phân Thuỷ huyện Hưng Yên có miếu thờ). Câu đối ở miếu:
Khai vật tế nhân, tưởng Việt thành thâu túc,
Thuỳ sử nhất hoằng bích thuỷ, tiện vãn vận dĩ khải hồng đồ
Niệm Nghĩa Lĩnh khai cương,
Cạnh nhĩ sổ lý thanh sơn, lưu cao trạch nhi thành đô hội [ ]
Rồi đó Nhâm Ngao, Triệu Đà thừa cơ gây hấn, đem quân sang xâm lược. Triệu Đà đóng quân ở núi Tiên Du, Bắc Giang giao chiến với An vương. An vương lấy nỏ thần ra bắn. Triệu Đà thua trận bỏ chạy. Đà biêt Thục có nỏ thần, không thể đối địch đựoc, bèn cho con là Trọng Thuỷ vào làm lính hầu (túc vệ) trong cung An vương. Rồi Trọng Thuỷ cầu hôn vương nữ Mỵ Châu. Trọng Thuỷ dụ Mỵ Châu lấy trộm nỏ thần cho xem rồi tháo đổi cái lẫy khác. Sau đó Thuỷ về báo cho cha biết. Triệu Đà bèn phát binh đánh An vương. An vương không ngờ cái lẫy thiêng đã bị mất, khi ấy đang đánh cờ vây, cười nói: “Đà không sợ nỏ thần sao?”. Quân Triệu Đà vây áp đến nơi, An vương lấy nỏ ra bắn, không hiệu nghiệm. An vương bẻ nỏ vứt đi rồi lui chạy. Thế là cơ đồ họ Hùng mất.
Từ Triệu Vũ đế (huý Đà) kế trị đến các triều Đinh Lê Lý Trần cho tới nay triều Lê ta đều chuẩn y việc phụng thờ ở cung miếu, chuẩn cho làng Trung Nghĩa thuộc bản xã theo đúng lệ cũ được hưởng tạo lệ, miễn trừ tô thuế binh dân cùng là các khoản sưu sai tạp dịch, giao cho dân bản xã phụng thờ cầu chúc cho mệnh mạch quốc gia trường tồn, lưu thơm muôn thủa.
Ô hô! Thịnh thay!
Năm Nhâm Thìn niên hiệu Hồng Đức thứ nhất (1470), mùa xuân, tháng Ba, ngày tốt. (1)
Hàn lâm viện trực học sĩ NGUYỄN CỐ phụng soạn.
Ngạn Xuyên NGÔ ĐỨC THỌ dịch
xong lúc 17g30 ngày 25-12-2011tại thư trai xóm Trúc (Đội Cấn, Hà Nội) 
.
Chú thích (1): Nguyên bản chép nhầm. Niên hiệu Hồng Đức thứ nhất là năm 1470, ứng với năm Canh Dần. Còn nếu là năm Nhâm Thìn thì lại là năm 1472, ứng với Hồng Đức năm thứ 3. Ở đây người dịch trung thành với nguyên bản.
*
LỜI GIỚI THIỆU CỦA GS NGÔ ĐỨC THỌ VỀ VĂN BẢN VÀ BẢN DỊCH NGỌC PHẢ HÙNG VƯƠNG
Từ khoảng những năm 60 của thế kỷ trước, giới khoa học nước ta đã cố gắng nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực đặc biệt là về khảo cổ học để đưa những truyền thuyết về thời Hùng vương trở thành thời kỳ Hùng vương dựng nước.Tuy vậy, các tài liệu thư tịch cổ về thời kỳ này vốn đã rất hiếm mà chúng ta cũng chưa sưu tập công bố đầy đủ, ngay cả bản Hùng vương ngọc phả cũng chưa đựoc dịch toàn văn ( xem ý kiến nhận xét của Phan Duy Kha, trích dẫn ở đoạn sau). Trong bài này tôi lần đầu tiên đã dịch toàn văn Hùng vương ngọc phả và Giới thiệu văn bản gốc Hùng vương ngọc phả hiện lưu ở Bảo tàng Hùng vương Phú Thọ.

I. THƯ GỬI PHAN DUY KHA
Cám ơn Tác giả Phan Duy Kha, sự lưu ý của anh thăm xem bài tôi và gửi cho nhận xét chân thành như vậy là rất quý, bằng cả thang thuốc bổ để uống cho đỡ mệt mỏi mà làm việc. Anh cũng rõ là tôi để công khai bài này để “ngộ nhỡ” có ai quan tâm theo dõi thì họ có thể tham khảo dẫn dụng. Tôi cũng lường trước rằng lâu nay giới nghiên cứu của ta bàn nói rất vĩ mô về thời Hùng vương, nhưng có thể không ít người chưa bao giờ đọc cho trọn vẹn bản phả dân tộc này (có ai dịch cho đủ đâu mà đọc). Vì thế, một cách phi lợi nhuận tôi đã bỏ một ít công để làm xong (và công bố) văn bản quý đó. (Hiện tôi còn viết bài nghiên cứu giới thiệu văn bản và nội dung tác phẩm. Bài này phải “lai rai”dài dài ngày, có lẽ không nhanh đựoc). Như việc tôi đã làm đó có lẽ mọi người có thể thấy mục đích vì học thuật, nhưng hiện tôi chỉ mới có 02 bản Ngọc phả mà thôi. Tôi có một đề nghị là quý độc giả ai hiện có văn bản Ngọc phả có thể gửi bằng ảnh, hoặc bằng bản photo cho tôi để tôi tập hợp khảo cứu rồi công bố cả trên mạng cho người nghiên cứu tham khảo sử dụng. Như thế có ích cho học thuật. Trang nhà của anh có đăng bài của tôi, nếu anh giúp ghi cho mấy lời kính nhắn tin như vậy với độc giả thì rất tốt. Email và địa chỉ của tôi hình như tôi đã gửi báo với anh ở thư trước.
Chúc vui mạnh,
Ngô Đức Thọ
TB:
Có lẽ anh nên mất công chút đỉnh loát lại toàn bộ bài hiện có trên trang của tôi, vì rải rác tôi có sửa một số câu chữ (về tu từ), chỗ ý quan trọng (bôi vàng) tôi cũng đã giải quyết rồi, không vấn đề gì. Vậy nên anh nên loát lại bản dịch ở varian cuối cùng đó để tránh sai sót.
*
II . VĂN BẢN HÙNG VƯƠNG NGỌC PHẢ

1. Đã lâu quá rồi, bây giờ đọc lại Hùng vương ngọc phả trong lòng tôi bỗng trào dâng một cảm xúc gì đó tựa như là ngỡ ngàng. Không phải chỉ mình tôi, các nhà nghiên cứu ở Viên Hán Nôm hẳn đều quen thuộc với các văn bản thần tích ngọc phả và các thư tịch cổ viêt về các đền chùa của nước ta. Riêng tôi cũng có một kỷ niệm là tôi đã cùng một vài bạn đồng nghiệp biên soạn đựoc một cuốn tra cứu về các di tích lịch sử văn hoá Việt Nam . Gian khổ nhưng cũng thật là vui vì có làm như vậy trong mấy năm đó chúng tôi mới có điều kiện đọc đi đọc lại nhiều sách vở tài liệu liên quan đến đề tài này. Không phải chỉ đối với một di tích, khi viết về một di tích sau lại  gặp lại tư liệu về di tích trước và trước đó nữa. Hùng vương ngọc phả là một tài liệu như vây. Vì HVNP rất quan trọng cho nên người soạn văn bia thần tích gia phả thường trích dẫn. Mà sự dẫn dụng đó phần nhiều là thích đáng hợp lý. Nếu nói gia phả là bộ sử của một nhà, một dòng họ, thì cuốn HVNP này quả thât là cuốn phả của cả dân tộc Việt Nam ta. Cái gì cũng có hai mặt: Ý nghĩa thì quan trọng như thế nhưng loại thần tích ngọc phả ít nhiều cũng bị ảnh hưởng bởi những sự tích truyền thuyết hoang đường. Người mình bây giờ không phải không thích chuyện hoang đường, nhưng phải là cái gì thật lạ kỳ như Harry Potter chẳng hạn, còn chuyện Sơn Tinh – Thuỷ Tinh, chuyện Thánh Dóng đánh giặc  Ân v.v… thì từ thời tiểu học học mãi rồi! Cho nên dù là cuốn phả dân tộc thật đấy, nhưng có vẻ như là “kính nhi viễn chi”! Rốt cuộc là, từ hồi đầu thảo luận về thời Hùng vương những năm 70 thế kỷ trước đến nay sau hơn 40 năm, nhân một bài viết cần tìm đến HVNP, tra trên mạng không thấy một bản HVNP nào cả nguyên văn và bản dịch.Có thể có ai đó đã dịch và xuất bản gộp vào trong một tập nào đó với tên khác chăng? Cũng có thể như thế, nhưng tôi tin mình không lầm. Có một nhà nghiên cứu khá quen thạo đề tài này, tôi tuy chưa gặp mặt, nhưng đã có dịp có vài trao đổi ngắn với ông trên mạng. Tôi rất thú vị vì biết ông rât thú vị đối với việc tôi đang làm, đến mức bản dịch tôi thực hiện trên blog đựoc đoạn nào là ông tải ngay về trang của ông đoạn ấy. Hôm qua trước Noel mấy tiếng tôi làm xong bản dịch HVNP, sáng nay vào thăm trang của ông đã thấy ông loát đủ kèm theo một Comment nguyên văn như sau:
“Ngọc phả Hùng Vương hiện lưu tại Bảo tàng Hùng Vương, Phú Thọ. Ngọc phả gồm 21 tờ, 42 trang chữ Hán. Tổng cộng gần một vạn chữ. Sau hơn nửa tháng (từ ngày 9 – 24. 12. 2011) miệt mài, cần mẫn, GS Ngô Đức Thọ đã dịch xong. Trong khoảng thời gian đó, cứ mỗi lúc ông dịch xong đoạn nào, tôi lại tải về đăng lên mạng của tôi đoạn ấy. Tôi đã từng nhiều lần sưu tầm nhưng chưa có một bản dịch Ngọc phả nào cho hoàn thiện. Thường thì người ta dịch từng đoạn , ai cần đoạn nào phục vụ cho công tác nghiên cứu của mình thì dịch đoạn ấy. Đây là bản dịch đầy đủ nhất cho đến hiện nay mà tôi biết được. Một lần nữa, xin ghi công và cảm ơn GS Ngô Đức Thọ. Phan Duy Kha” .
Người nghiên cứu đối với nhau, gửi cho những nhận xét chân thành đúng lúc như thế quả thật như cho nhau một thang thuốc bổ.
Đó là ông Phan Duy Kha xác minh cho tôi đựoc một điều: Bao nhiêu lâu rồi, thế mà chúng ta chưa có một công trình biên khảo nào về ngọc phả Hùng vương được công bố.
Bây giờ toi dã làm xong đựoc một việc nhỏ đó rồi, và ngay từ đầu tôi dã đưa lên mạng để mọi người ai cần tham khảo dẫn dụng thì có thể lưu lại. Con cháu của các vua Hùng thì phải chuyển cho nhau cuốn phả về sự nghiệp dựng nước của các cụ khi xưa.
Có điều là tôi hiện nay chỉ mới có đựoc 2 văn bản (một của Viện NCHN, một của TVQG), cũng vì việc chung cả, hẳn còn nhiều vị có các bản Hùng vương ngọc phả khác. Nếu quý vị vui lòng gửi cho tôi một bản copy (bằng giấy –qua Bưu điên, hoặc bằng ảnh qua email -Địa chỉ ghi ở dưới) để tôi tập hợp hiệu khảo, giới thiệu để mọi người cùng nghiên cứu thì rất tốt cho học thuật.
2.Văn bản Hùng vương ngọc phả:
Theo Nguyễn Khắc Xương hiện có 3 văn bản Hùng vương ngọc phả:
1-“Nam Việt Hùng Vương ngọc phả vĩnh truyền”, còn gọi là Cổ Việt Hùng thị thập bát thế thánh vương ngọc phả cổ truyền, soạn năm Thiên Phúc nguyên niên (986 – Lê Đại Hành), bản sao vào triều Khải Định năm thứ 4 (1919), Kỷ Mùi, tháng 6, ngày 25.
2 -“Hùng Vương ngọc phả thập bát thế truyền, soạn năm Hồng Đức nguyên niên (1470 – Lê Thánh Tông): ” Hồng Đức nguyên niên, Nhâm Thìn xuân tam nguyệt cốc đán, Hàn lâm viện Trực học sĩ Nguyên Cố phụng soạn”, năm Hoằng Đình nguyên niên (1619- Lê Kính Tông) sao lại: Hoàng triều Hoằng Định Nguyên niên, Cánh tý đông thập nguyệt cát nhật, Hàn lâm thị độc Nguyễn Trọng trùng đính, Lễ phiên Lê Đình Hoan thừa sao”.
3 – Hùng Vương sự tích ngọc phả cổ truyền, Hàn lâm học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572 – Lê Anh Tông).
Về mấy thông tin nói trên, đối với văn bản thứ hai ông ghi không đúng nguyên văn tên của văn bản: Cổ Việt Hùng thị nhất thập bát thế thánh vương ngọc phả cổ truyện. Hai, Ông Xương chỉnh lại tên sách như thế phải chăng để cho hợp với cách đọc ” thế truyền“. Nhân thấy  thư tịch Hán Nôm của ta có một số cuốn chép thần tích truyền thuyết lấy tên sách là Ngọc bảo cổ truyện, Ngọc phả cổ lục là tác giả nói đến phong cách như truyện kể. Văn bản thứ 1 ông đọc ” vĩnh truyền” thì được, còn văn bản 2 và 3 tôi đọc là “truyện” chứ không đọc “truyền” là vì vậy. Một chi tiết khác: Hoằng Định nguyên niên là năm 1601 chứ không phải “1619 –Lê Kính Tông” như ông Xương ghi.
Đối với văn bản thứ nhất ông Xương chưa trình bày hay chứng minh đặc điểm của nó, chỉ căn cứ vào niên đại ghi trên sách là Thiên Phúc nguyên niên (986) đã vội coi đó là “là bản cổ nhất và có lẽ cũng là bản ngọc phả đầu tiên mà sự tích các vua Hùng được soạn thành văn bản” thì rõ ràng là thiếu thuyết phục. Chính vì vậy Ban Biên Tập mới có ghi chú:
“Niên đại các bản Thần tích, Ngọc phả là một vấn đề còn phải nghiên cứu thêm. Tác giả tham luận chưa nói rõ nơi tàng trữ văn bản cũng như xuất xứ các bản dịch. Chúng tôi tạm bằng lòng với tham luận hiện có (B.B.T)” [ ]
[  ] Thông báo Hán Nôm học 1995 ( tr.461-467).

3.     Bản Hùng vương ngọc phả (HVNP) của Bảo tàng Phú Thọ:
Văn bản tôi dùng để làm bản dịch này là một bản của Viện NCHN sao chụp lại từ nguyên bản cuốn Hùng đồ thập bát diệp Thánh vương ngọc phả cổ truyện của Ty Văn hoá Phú Thọ, nay dã chuyển cho Bảo tàng Hùng vương Phú Thọ. Bản này gồm 21 tờ giấy chép hai mặt x 2 trang, trang 10 dòng x 21 chữ, đúng số tờ như đã ghi ở cuói sách:“ 以上共貳十壹張dĩ thượng cộng nhị thập nhất trang/ Ở trên cộng là 21 tờ giấy” Không kể 2 tờ đầu, một tờ chụp lại trang 1 bên trong đưa ra làm bìa. 1 tờ là bản khai của xã Xuân Lũng huyện Sơn Vi trấn Sơn Tây về các thửa ruộng thờ và quy định lễ vật (xôi, lợn dâng cúng hàng năm)
Tờ 1a: Tên sách: Hùng đồ Hùng đồ thập bát diệp Thánh vương ngọc phả cổ truyện 雄圖十八葉聖王玉譜古傳Tờ 1b: Năm thực hiện việc hiệu đính và sao chép lại từ bản cổ:    皇朝弘定元年庚子冬十月吉日翰林侍讀阮仲重訂
Hoàng triều Hoằng Định nguyên niên Canh Tí đông thập nguyệt cát nhật. Hàn lâm thị độc Nguyễn Trọng trùng đính
Năm Canh Tí niên hiệu Hoằng Định thứ nhất mùa đông, tháng 10 (11-1601), ngày tốt.
Sao bản lưu tại Quan lang phụ đạo Hùng vương tôn điệt phụ truyền tử kế dữ Nghĩa Động xã  trưởng tạo lệ hộ nhi Trung Nghĩa hương giám thủ
(Bản sao lưu tại nhà Quan lang phụ đạo cháu chắt của vua Hùng, cha truyền con nối, cũng xã trưởng tạo lệ hộ nhi Trung Nghĩa hương giám thủ.
Lễ phiên Lê Đình Hoan thừa sao.
Chữ viết: Bản sao được thực hiện bởi chuyên gia thư tả Lê Đình Hoan làm việc ở Lễ phiên ( ban ở phủ chúa Trịnh tương ứng chức năng của bộ Lễ). Toàn bộ bản chép  cùng một kiểu chữ của một người. Đó là kiểu chữ Lệ viết nghiêng rất đặc trưng cho thư pháp triều Lê.
Chữ Lệ cũng bắt nguồn từ chữ Triện nhưng có những cải tạo quan trọng, do Trình Miệu 程邈một người tù làm nô lệ thời Tần Thuỷ Hoàng sáng tạo cuối Tần phát triển đầu Hán, sau trở thành một trong bốn thể chữ chính của Hán tự (chính [tức Khải], thảo, lệ, triện), là thể chữ trang trọng, có kết cấu hợp lý, được số đong cho là đẹp. Chữ lệ ngay cả hình thức chữ “đứng” (trực) của nó vốn có đặc điểm hơi nghiêng một tí về bên phải; nhưng cũng có loại nghiêng nhiều hơn (thiên). Trung Quốc chủ yếu dùng loại chữ lệ đứng (xem ảnh nền đen).

Trên ảnh đã dẫn chúng ta thấy chữ lệ đứng của Trung Quốc
(nền đen bên phải) và chữ lệ nghiêng của văn bản HVNP chúng tôi đang nghiên cúư. Có thể tỷ lệ chưa cao, nhưng chúng ta có cứ liệu cho thấy từ đầu Lê sơ (thế kỷ XV) và Lê trung hưng chữ lệ nghiêng đã đựoc dùng để viết các tài liệu của triều đình ( x. ảnh sắc chỉ năm Đại Hoà thứ 9/  )  Vì văn bản có ít nên chưa kết luận được Lê sơ về trước có thông dụng chữ lệ nghiêng hay không, nhưng thời Lê trung hưng thì lệ nghiêng là loại chữ đựoc nhiều người ưa thích. Thời Tây Sơn và đầu Nguyễn thỉnh thoảng cũng còn, nhưng nói chung ít gặp hơn trước.Vì thế các chuyên gia Hán Nôm phần nhiều đều nhận rằng loại chữ lệ nghiêng này mang đặc điểm niên đại các thế kỷ 15 -18 khá rõ. Có một đặc điểm nữa là loại chữ này hiếm, ít người biết và nhất là khó viết, vì thế hầu như rất ít khả năng bị làm giả.
Ở bản ảnh trích ảnh dẫn trên, toi đã thể hiện đặc điểm chữ lệ nghiêng của văn bản HVNP, do đó chúng ta có cơ sở khoa học để xác định nguyên bản HVNP do Bảo tàng Phú Thọ lưu giữ đích thực là một thư tịch được sao chép năm vào năm Hoằng Định 1 (1601) tức là năm đầu tiên của thế kỷ XVII cách nay 410 năm.Mừng vì ta còn giữ được bản Ngọc phả ấy khá cổ, nhưng lại hơi chớm lo, bởi vì nội dung của nó thì chúng ta đã có nhiều bản sao rồi, nhưng lo mình bỏ công chứng minh bản ấy cổ quý lại “vẽ đường cho hươu chạy”, biết đâu có ngày “hươu” bị chạy mất chăng?
Trên tôi có nói hiện tôi chỉ có 2 văn bản mà tôi nghĩ có thể ta vẫn còn nhiều bản hơn. Trong lúc chờ đợi, tôi lục tìm trên mạng thấy đựoc một tư liệu quý và nghĩ là ở nước ngoài như Nhật, Mỹ, Pháp cũng có thể có vài văn bản. GS Nhật Bản có thể đã sớm đọc HVNP- có thể chính là bản tôi đang dùng làm việc tai đây (hoặc có nội dung khá tương tự) bởi vì trên mục “Hồng Bàng”, Wikipedia có lập một tên hiệu các vua Hùng căn cứ vào tài liệu của GS Nhật Bản Nham Thôn Thành Doãn 岩村成允[ ]khá nhất trí với bản tôi lập. Sau đây là bảng so sánh bản thế hệ các thế hệ vua Hùng do tôi lập (đã đặt trước bản dịch) và bản của Nham Thôn.

[]岩村成允. 《安南通史》, 許雲樵譯. 新加坡: 星洲世界書局有限公司(1957)
-Có thể thấy bản NĐT và bản Nham Thôn gần như là trùng khít cả về thứ tự các thế hệ: Chỉ tính từ Kinh Dương vương bắt đầu đi làm vua phương Nam. Số đời là 18 đúng như các sử sách khác vẫn chép. Các tên hiệu chữ Hán đều hoàn toàn giống nhau. Cách đọc chỉ khác nhau 1 trường hợp: NĐT đọc Việp vương, Nham Thôn đọc Diệp vương: Chữ  曄 (yè) vẫn thường có2 cách đọc: Việp/ Diệp (NĐT đọc Việp như âm vẫn quen dùng như trong tên tước của Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc). Bản tiếng Anh của Wikipedia đọc là Hoa – chữ ấy không ít người đọc nhầm là chữ Hoa vì bên cạnh có chữ Hoa. Cả hiệu của Hùng vương thứ 18 Hùng Tuyền vương bản Nham Thôn cũng viết và đọc đúng là Tuyền vương (như NĐT đọc), trên bảng đã lập ghi “Tuyên” chắc do đánh máy sót dấu. Bản tiếng Anh của Wiki thì vẫn như không ít người đọc nhầm chữ 璿 [xuán] là Duệ vương. Tiếc rằng không ít bài viết về Hùng vương trên sách báo hiện nay vẫn cứ viết “Hùng Duệ vương” bất chấp xuất xứ!
Như vậy qua so sánh sơ bộ với bản Nham Thôn chúng ta có cơ sở để tin rằng các văn bàn HVNP thuộc hệ Hồng Đức nguyên niên (1470) hiện còn khá tương đồng với nhau. Những sai khác tất không tránh khỏi, nhưng chủ yếu có thể chỉ ở chi tiết và văn tự.
(Tuyền và Duệ rất dễ nhầm, tôi đã lập 1 bản khảo âm tự của liên quan đến chữ 璿 để mọi người tham khảo, x. ảnh đặt sát dưới)

*
III. LỜI NGƯỜI DỊCH
Đọc HVNP là chúng ta đã bước vào thế giới của những thần thoại huyền tích kỳ vĩ không chỉ liên quan đến thời kỳ lập quốc dựng nước mà còn xa hơn nữa đến cội nguồn tổ tiên của dân tộc. Các địa danh nhân danh trong HVNP sử sách đã viết nhiều bàn nhiều nhưng hầu như cũng chưa vén được bao nhiêu lớp sương mù nhiều ngàn năm. Vì vậy, dịch xong HVNP người dịch nhận ra rằng ở đây không có ngôn ngữ cho nguời chú thích khảo chứng để chứng minh những gì không đúng với lịch sử như chúng ta biết ngày nay. Thay vào đó trong cuộc đi như hành trình của chàng Ôđixê đi tìm dân tộc mình, rải rác ta có thể nhận ra những điều tưởng hoang đường lại được xác nhận ở một nguồn tin độc lập nào đó. Tôi muốn giới thiệu ở đây vài trường hợp:
1.Về nước Việt Thường
Học giới VN & quốc tế đều coi Đại Việt sử lược (ĐVSL) là bộ sử có giá trị như thế nào. Ngay trang đầu nói về nguồn gốc và lịch sử Việt Nam, tác giả viết:
泮築城於越裳,號安陽王 Phán trúc thành ư Việt Thường, hiệu An Dương vương (ĐVSL, Q.1-1a)
Câu này ngắn, chúng ta còn quay lại một lần nữa với vế sau. Bây giờ hãy chú ý đến vế đầu. Bản dịch ĐVSL đến nay đã có hai bản dịch, nhưng không bản nào in kèm nguyên văn chữ Hán. Bản chữ Hán thì trên mạng nay có nhiều, đều là bản điện tử, khi cần cũng tạm dùng đựoc, nhưng tôi gắng sưu tập để bạn đọc có ngay nguyên bản in ảnh của bản Thủ Sơn các tùng thư trong Tứ khố toàn thư (Sử bộ). Cả bản dịch cũng chụp ảnh để bạn đọc có trước mắt bản dịch của  Trần Quốc Vượng [5]. Đây rõ ràng là nói về ngôi thành hình ốc ở Cổ Loa bên Đông Anh, thế mà ĐVSL lại nói là ở Việt Thường! Chuyện gì lạ vậy? Trong một chú thích trước đó, Trần Quốc Vượng đã chú về Việt Thường: “Tập truyền vẫn cho là ở miền Nghệ – Tĩnh vì Việt Thường là ở phía Nam Giao Chỉ”. Đến câu dẫn trên, nhà sử học trẻ tuổi Trần Quốc Vượng (lúc ấy) thật sự đã bị “sốc” vì ĐVSL nói Thục Phán đắp thành ở …Việt Thường! Nếu không có nguyên bản Hán văn như trên, có lẽ bút giả cùng bạn đọc cũng đã không thể tin vào mắt mình. Thành Cổ Loa mà lại là ở Việt Thường ư? Soạn giả ĐVSL (Trần Phổ hay Trần Tấn) có bé cái nhầm không đấy? Để thể hiện cú choáng này, TQV (như trên trích ảnh sau đây) đã ghi một chú thích rất kiềm chế như sau:
“Theo lời ghi chép ở đây thì Việt Thường thị lại là đất Cổ Loa, Đông Anh, Phúc Yên. Tôi khoanh tròn hai chữ “lại là” vào hai chữ ấy hay không chê vào đâu đựoc ấy: vừa không vội chê ĐVSL chép nhầm, vừa thông báo cho người đọc biết sự ngỡ ngàng của ông vì “tập truyền” vẫn nói Việt Thường ở Nghệ Tĩnh, sao với câu này Cổ Loa cũng “lại là” Việt Thường?
Sự nghiệp nghiên cứu lịch sử dân tộc của chúng ta còn lâu dài, người trước góp tư liệu cho người sau. Nếu ai cũng nói chung chung, không thấy chứng cớ sử liệu đâu thì chẳng khác gì người đi kiện lâu ngày quá mất cả hồ sơ. Vậy thì chỗ nói Việt Thường ở miền Nghệ Tĩnh cụ thể ra sao cũng cần kê cứu: sử gia Trần Trọng Kim hình như chưa nói đến, nhưng cố GS Đào Duy Anh đã nói Việt Thường ở quận Cửu Đức, “tương đương với miền Hà Tĩnh ngày nay”. Đến Đại Việt sử ký toàn thư (Toàn thư), bản dịch cũ không có chú thích từ Việt Thường. Khi làm chú thích bản dịch mới, tôi tra cứu thêm mấy tư liệu thư tịch và đã đưa cả ý kiến của cụ Đào vào chú thích từ Việt Thường.
Nay tôi tìm được văn bản Thủy kinh chú (cũng bản in ảnh trong TKTT) tiện cũng trích ảnh đưa vào đây để củng cố chúng cứ:
“ Cửu Đức, cửu di sở cực”: quận Cửu Đức là đất cuối cùng cửa cửu di (Sử TQ gọi các nước phía nam và phía đông TQ là “man di”, hoặc gọi chung là “cửu di”), cho nên lấy ý ấy để đặt tên quận. Trên đất của quận này thời nhà Chu có nước Việt Thường.
“ Lâm Ấp ký nói: Thời nhà Chu, có nước di Việt Thường là nước xa nhất của “cửu di” nói đến trong Chu lễ. Nước Việt Thường đem chi trĩ trắng và ngà voi, thông qua 9 lần dịch mà đến [thăm/ giao hảo]” (Lịch Đạo Nguyên, Thuỷ kinh chú, Q.36 –tờ 24 ab) . Với hai điều ghi liên tiếp trong cùng 1 trang:
-Quận Cửu Đức là nơi xa nhất của cửu di.
-Nước Việt Thường là nơi xa nhất của cửu di
Tức nước Việt Thường ở vị trí của quận Cửu Đức. Cửu Đức đựoc xác định là đất Hà Tĩnh hiện nay.
Gần đây có tác giả kê cả Nghệ An, hoặc cả Nghệ An,Thanh Hoá (khu IV cũ): điều đó có lẽ cũng là lịch sử trên tiến trình mở rộng cương vực của Việt Thường. Nhưng chỉ Hà Tĩnh mới tương ứng với câu trích của Thuỷ kinh chú, vì Nghệ An và Thanh Hoá không bao gồm trong tên quận Cửu Đức ( Nghệ An là Hoan Châu, Thanh Hoá là Ái Châu).
Bây giờ chúng ta trở lại vấn đề đã nêu trên: Đất Việt Thường ở Hà Tĩnh, tại sao ĐVSL lại chép An Dương vương đắp thành ở Việt Thường? Khó hiểu quá. Thông thường cái gì khó hiểu thì người ta nghi có sai lầm. Tình tiết lặt vặt lẫn trong biên niên các năm không nói làm gì, đằng này, sự kiện lớn đùng, không cái mảy lông có thể bỏ qua! Hơn nữa đây lại là ghi chép ở phần mào đầu bộ quốc sử, có lẽ nào soạn giả của nó lại vô tâm vô tứ đến thế?
Đọc xem, tra cứu ĐVSL không biết bao lần rồi, thế mà đối với câu này, sau khi đọc xong dịch xong Hùng vương ngọc phả bút giả bất giác phải thốt lên: “ĐVSL không nhầm!!”
HVNP kể cho ta nghe Đế Minh cho Kinh Dương vương (huý Lộc Tục –theo Toàn thư, còn HVNP không chép tên huý Lộc Tục) đi làm vua phương Nam. Kinh Dương vương theo dãy núi Nam Miên (nghĩa là: dãy núi kéo dài về phía nam) mà đi. Trên đường đi vưong ngắm xem phong thuỷ, chon nơi hình thế thắng địa để đóng đô ấp [tức quốc đô]. Qua đất Hoan Châu (nay đổi là xứ Nghệ An. Nơi đó là các xã Nội Thiên Lộc, Tả Thiên Lộc, Tỉnh Thạch thuộc huyện Thiên Lộc phủ Đức Quang) vua chọn được một vùng phong cảnh tươi đẹp, [núi non] muôn nhẫn lâu đài, gọi là núi Hùng Bảo Thứu Lĩnh, tất cả có 199 ngọn. (Xưa gọi là Cựu Đô, nay gọi là Ngàn Hống). Khi đã định đô ở vùng Ngàn Hống, bản tính vua ưa thích môn phong thuỷ nên lại lên thuyền đi nữa, thuyền dạt vào vùng hồ Động Đình, rồi mới gặp con gái vua Động Đình hồ là Thần long. Vua đem Thần Long cùng về bằng đường bộ, xa giá rong ruỗi khắp các nơi sơn xuyên. Khi về qua cửa sông Bạch Hạc, vua thấy vùng này “Nghìn non nâng chủ, vạn thuỷ chầu nguồn, đều hướng về ngọ Tổ sơn Nghĩa Lĩnh” Vua nhận ra nơi này thế đất quý đẹp hơn đô thành cũ ở Hoan Châu, bèn lập điện chính ở Nghĩa Lĩnh để thỉnh thoảng ngự giá đến nghỉ, bên ngoài dựng đô thành Phong Châu (nay là Cựu đô thành ở thôn Việt Trì huyện Bạch Hạc -tức vùng Đền Hùng hiện nay). Nhưng không ở hẳn lại đấy, vua còn trở lại cựu đô Ngàn Hống ở Hoan Châu, còn kinh đô mới thì đặt làm đô ấp của nước Việt Thường. Như vậy ta thấy theo HVNP ngay từ thời Kinh Dương vương, tên nước đầu tiên đã gọi là nước Việt Thường, quốc đô lúc đầu đặt ở núi Thứu Lĩnh, Hoan Châu (cựu đô Ngàn Hống). Về sau cương vực Việt Thường mở rộng ra cả vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Vua (Kinh Dương) cho dựng đô mới tại Phong Châu (khu vực đền Hùng hiện nay). Vì thế, ĐVSL viết thành Cổ Loa ở Việt Thường là đúng sự thực lịch sử chứ không sai hoặc đáng ngờ! Chỉ vì chúng ta biết quá ít về giai đoạn này nên mới sinh đại hoài nghi như vậy! Liệu những ghi chép này có giúp chúng ta từ trong sương mù huyền thoại của HVNP nhận ra được vài thông tin lịch sử vô cùng quý giá cho việc tìm hiểu, nghiên cứu những bước đi đầu tiên trong quá trình dựng nước của tổ tiên chúng ta hay không hẳn còn phải trông đợi lớn ở sự thẩm định của học giới ngày nay.
Tôi nghĩ rằng có lẽ trước nay chúng ta chưa quan tâm nên bỏ quên cả ký ức đi, nhưng lịch sử giai đoạn này vẫn có những thông tin đáng khảo cứu. Về việc đắp thành Cổ Loa ở Việt Thường làm cho cố GS Trần Quốc Vượng phải đặt dấu hỏi mà có lẽ cũng nhiều người (kể cả bản thân tôi) cũng chia sẻ mối đại nghi ngờ đó. Nhưng lạ quá, điều ghi đó không chỉ riêng của ĐVSL, mà cả Toàn thư , Đại Việt sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ cũng đều ghi như thế!
Vậy thì phải chăng chúng ta đã có thể khẳng định một điều: Nước Việt Thường là khởi đầu của lịch sử Việt Nam. Quốc hiệu đầu tiên của nước ta là Việt Thường. Cương vực của Việt Thường lúc đầu ở vùng Hà Tĩnh, về sau mở rộng ra vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ hiện nay.
2. Thục vương hay Hùng vương – ai xây thành Cổ Loa ?
Khác với ghi chép về Việt Thường, thành Cổ Loa ngày nay không còn là thần tích hay huyền thoại nữa mà là cả khu di tích của một toà thành cổ có quy mô lớn nhất nước ta.
Nhưng vua nào cho xây thành Cổ Loa? Vấn đề này, các bộ quốc sử từ ĐVSL, Toàn thư, đến Cương mục v.v…đều thống nhất ghi nhận Thục An Dương vương là người cho đắp thành Cổ Loa, tức Cổ Loa là thành của An Dương vương.
Nhưng có một tài liệu nói khác: Đó là HVNP chúng ta đang đọc đây!
Thục vương – HVNP chỉ chép Thục vương, không ghi tên là Phán như các tài liệu khác- là chúa Phụ đạo của Ai Lao (Ai Lao Phụ đạo chủ) cũng thuộc dòng phái của họ Hùng, từ xa nghe tin Hùng vương truyền ngôi cho rể là Tản Viên bèn đem quân sang đánh Hùng Tuyền vương (Tuyền 璿 chứ không phải “Duệ” hay “Tuấn” như không ít người đọc lầm) để đoạt lấy nước. Quân Thục vương nhiều lần thua trận, nhưng Hùng Tuyền vương cậy mình có thần lực, không chăm lo võ bị, quân Thục tiến đến tận nơi mà vương vẫn còn say khuớt. Quân lính nhiều người trở giáo theo Thục vương. Nhưng Hùng Tuyền vương vẫn trụ được. Tuyền vương bèn cho đắp thành ở Việt Thường, thành rộng nghìn trượng, khoanh tròn như con ốc… -Chuyện kể liên tiếp, nhưng đây có thể là một cuộc giằng co lâu năm chứ không phải chuyện ngày một ngày hai. Nhưng việc đắp thành không thuận, đắp đến đâu đổ đến đây, rồi rùa vàng xuất hiện giúp Tuyền vương trừ quỷ ở núi Thất Diệu v.v…Trước khi ra đi, rùa vàng rút chiếc móng đưa cho Tuyền vương dặn chế chiếc nỏ, lấy cái móng làm lẫy, khi có giặc thì lấy nỏ thần ấy ra mà bắn …Sau quân Thục lại kéo sang vây thành Cổ Loa, Hùng Tuyền vương cho gọi Tản Viên đem quân về cứu. Tản Viên đem quân về dàn trận trước cửa thành, nhưng chỉ hư trương thanh thế chứ không giao chiến với quân của Thục vương.
“Mấy hôm sau Tản Viên khuyên Hùng Tuyền vương: “Họ Hùng hưởng nước kể cũng đã lâu dài. Lòng trời ắt có hạn, khiến cho Thục vương thừa cơ gây hấn xâm lấn nước ta. Vả lại Thục vương vốn là bộ chủ Ai Lao, cũng là dòng phái của tiền hoàng đế. Nay quốc thế không được bình thường, cũng là chuyện do tiền định. Vua có yêu riêng gì một cõi đất phương nam mà cưỡng lại ý trời, làm hại sinh linh? Vả lại bệ hạ và thần đã có phép thần tiên, không gì hơn là quay về chốn Bồng Hồ, Lãng Uyển, tiêu dao ở làng quê bất lão, thanh nhàn nơi gác phượng lầu rồng, há phải nhiễm bẩn bụi trần, vàng ngọc châu báu cũng chẳng bằng mảy lông, ngọc nữ tiên đồng cũng chỉ mát mắt chốc lát….”
Tuyền vương cho là phải, sai đưa thư nhường nước cho Thục vương.
Thục vương sai sứ đến tạ ơn. Tuyền vương nhân đó tặng cho Thục vương cả chiếc nỏ thần, rồi trở về núi Nghĩa Lĩnh cùng với Tản Viên Sơn Tinh biến hoá vào cõi hoá sinh bất diệt.Thục An vương đã được nhường nước, tưởng nhớ ơn đức trời biển của Hùng Tuyền vương bèn xa giá đến núi Nghĩa Lĩnh cho dựng Dao Đài để làm nơi quốc gia phụng thờ, dựng hai cột đá trong núi, chỉ tay lên trời thề rằng:
-Nguyện trời cao mây xám lồng lộng xét soi: nước Nam trường tồn trường tại. Ngôi miếu Hùng vương nơi đây nếu vua sau kế trị mà bội ước nhạt thề thì sẽ bị rìu trăng búa gió trừng phạt, không phụ lời thề của tiền nhân.
Đọc lời khấn xong, Thục vương lạy tạ rồi lên xe trở về kinh đô Phong Châu, cho triệu các dòng phái cành vàng lá ngọc của dòng họ Hùng ban cho danh hiệu Trung nghĩa huơng (làng Trung nghĩa), cấp cho dân tạo lệ hưởng dụng lâu dài, cấp 500 mẫu ruộng ruộng ở gò Nghĩa Lĩnh v.v..
Như vậy, theo HVNP, Hùng Tuyền vương có giao tranh với Thục vương, nhưng sau đó là một cuộc chuyển giao quyền lực êm thấm giữa những người trong tông tộc. Thục vương lên ngôi trị vì, sau nữa mới xẩy việc Triệu Đà đem quân sang đánh. Triệu Đà đánh không thắng phải giảng hoà, sai con là Trọng Thuỷ vào làm lính Túc vệ cho Thục vương, rồi Trọng Thuỷ cầu hôn với Mỵ Châu, xin xem rồi đổi lẫy nỏ. Nỏ thần không linh nghiệm, Thục vương thua chạy, cơ đồ họ Hùng bèn mất. Các sự kiện đắp thành Cổ Loa, rùa vàng giúp xây thành và cho vuốt để chế nỏ thần v.v..đều thuộc chủ thể là vua Hùng (Tuyền vương). Vua Hùng không bị bại trận bởi Thục Phán mà theo lời khuyên của Tản Viên đã nhường nước và cả chiếc nỏ thần cho Thục vương, rồi trở về núi Nghĩa Lĩnh cùng với Tản Viên biến hoá vào cõi hoá sinh bất diệt.
Nói đặc sắc vì những ghi chép này khác hẳn so với các bộ quốc sử và nhiều thư tịch cổ khác [ 6]. Người dịch chỉ nêu lên nét đặc sắc ấy để người đọc lưu ý khỏi bị trượt qua. Nhưng hình như chính ở diều này lại có nhiều ý kiến “phản bác” HVNP! Cũng là một sự hay nên có đối với học thuật [7].
Trên đây là một vài đặc sắc của Hùng vương ngọc phả theo hệ nguyên bản Hồng Đức nguyên niên.
Ngạn xuyên NGÔ ĐỨC THỌ
Chú thích:
[ 1] Thông báo Hán Nôm học 1995 ( tr.461-467).
[ 2] 岩村成允. 《安南通史》, 許雲樵譯. 新加坡: 星洲世界書局有限公司(1957)
[3 ] Xem ảnh chụp tờ 19ª (bên cạnh)
[4 ] Xem Bản tra cứu tự âm chữ Tuyền (đặt ở cuối phần chú thích)
[5] Việt sử lược. Trần Quốc Vượng dịch. H.,Nxb Văn Sử Địa, 1960.
[6] Ở chỗ nói việc đắp thành hình ốc, nguyên bản HVNP viết: “ 於是築城于越裳 (Ư thị trúc thành vu Việt Thường”/ Bèn đắp thắp thành ở Việt Thường), cấu trúc ẩn chủ ngữ, tức vẫn là chủ ngữ liên tục từ các câu trước chưa thay đổi. Thấy vậy, một người đọc nào đó trước đây theo cách hiểu truyền thống ( Thục Phán đắp thành) bèn thêm sát ngoài khoang trắng hai chữ “屬王Thục vương” [ẢNH 12].Tôi lúc đầu cũng bị nhầm đọc dịch theo 2 chữ thêm ấy nên dịch xong thấy logic đoạn đó đảo lộn từ vua Hùng sang Thục Phán và ngược lại. Đọc kỹ mới phát hiện 2 chữ thêm đó làm cho người đọc sau bị nhầm! Bỏ không dùng hai chữ ấy, đoạn văn trở lại hợp logic từ đầu của HVNP.
[7] Chẳng hạn x. Phan Duy Kha:Thử vén màn huyền thoại An Dương Vương ,http:/ /phanduykha. wordpress.com/2011/12/07/

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

PHẦN THỨ HAI:

HÙNG VƯƠNG NGỌC PHẢ BÌNH GIẢI:

I. NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT THỜI HÙNG VƯƠNG
*
ĐỜI THỨ NHẤT: KINH DƯƠNG VƯƠNG CHỌN ĐẤT ĐÓNG ĐÔ Ở NGÀN HỐNG (HỒNG LĨNH, HÀ TĨNH)
Ngàn Hống (tức núi Hồng Lĩnh) là một trong những danh sơn của đất nước ta. Núi nằm phía Đông đường 1A, phía nam cầu Bến Thủy, thuộc địa bàn các huyện Nghi Xuân, Đức Thọ, Can Lộc và Thị xã Hồng Lĩnh ngày nay. Thế núi hùng vĩ mà uy nghiêm. Theo Ngọc Phả Hùng Vương thì đây chính là Kinh đô thời Kinh Dương Vương, mở đầu triều đại các vua Hùng. Không chỉ Ngọc phả mà ngay trong thư tịch Trung Hoa cũng đã từng ghi về một Quốc gia Việt Thường trong thời cổ sử. Sách Thông Chí của Trịnh Tiều đời Tống chép: “Đời Đào Đường Nam di có Việt Thường Thị qua nhiều lần thông dịch đến hiến một con rùa thần. Rùa ước được ngàn tuổi, trên lưng có chữ khoa đẩu, chép việc từ lúc khai thiên lập địa đến nay. Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là Quy Lịch”.
Trịnh Tiều không chỉ định vị trí cụ thể của Quốc gia Việt Thường, nhưng Sách “Thủy Kinh chú” của Lịch Đạo Nguyên (thế kỷ thứ IV ) dẫn lại sách Giao Châu ngoại vực ký, chép về Quốc gia Việt Thường và định vị địa điểm của nó như sau:
Giao Châu ngoại vực ký viết: Huyện Cửu Đức thuộc quận Cửu Chân, ở phía nam quận tiếp giáp với Nhật Nam (…) Ngô đặt làm quận Cửu Đức lại đem huyện ấy lệ thuộc vào quận. Lâm ấp ký chép rằng, Cửu Đức là nơi tột cùng của Cửu di, cho nên lấy để đặt tên cho quận. Chỗ đặt tên quận ấy là một nước di của Việt Thường cực xa. Chim trĩ trắng, ngà voi , qua 9 lần dịch tiếng mà đến” ( Thủy kinh chú sớ, Nxb Thuận Hóa- Trung tâm ngôn ngữ Đông Tây, 2005).

Huyện Cửu Đức là địa danh thời Ngô, chỉ vùng bắc Hà Tĩnh, vùng Ngàn Hống tức vùng đất Núi Hồng Sông La ngày nay. Đó là trong thư tịch Trung Hoa. Một điều đáng lưu ý là thư tịch Trung Hoa không không hề ghi một dòng nào về nhân vật Kinh Dương Vương. Còn trong Ngọc phả lại có một đoạn dài nói về việc Kinh Dương Vương, vị vua đầu tiên của triều đại Hùng Vương đi tìm đất đóng đô ở vùng Ngàn Hống. Không chỉ có thế, Ngọc phả còn chỉ dẫn vị trí cụ thể, đoạn đó như sau:
Kinh Dương vương kính tuân chỉ dụ của vua cha, đem quân lính theo núi Nam Miên mà đi về phía nam. Trên đường ngắm xem phong thủy, chọn nơi hình thế thắng địa để đóng đô ấp [tức quốc đô].
Qua đất Hoan Châu (nay đổi là xứ Nghệ An. Nơi đó là các xã Nội Thiên Lộc, Tả Thiên Lộc, Tỉnh Thạch thuộc huyện Thiên Lộc phủ Đức Quang) vua chọn được một vùng phong cảnh tươi đẹp, [núi non] muôn nhẫn lâu đài, gọi là núi Hùng Bảo Thứu Lĩnh, tất cả có 199 ngọn. (Xưa gọi là Cựu Đô, nay gọi là Ngàn Hống).
Vùng này giáp biển ở cửa Hội Thống, đường núi quanh co, đường sông uốn khúc, địa thế rồng cuộn hổ ngồi, bốn hướng cùng trông, bèn xây dựng đô thành để định nơi cho bốn phương triều cống. (Trích Ngọc phả)

Về việc chọn đất đóng đô này, bản KIM NGỌC PHẢ cũng chép:
Rồi kinh quá đất Hoan Châu (trước gọi là Hoan Châu nay gọi là huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang, xứ Nghệ An, ở các  xã Thiên Lộc Tả, Thiên Lộc  hữu). Quan sát tình thế, thấy được một bầu phong nguyệt, cảnh hay cực quý, muốn đặt lâu đài, gọi là núi Hùng Bảo Thíu Lĩnh, gồm 199 ngọn núi. Trước gọi là Cổ Đô nay gọi là Ngạn Khổng (tức Ngàn Hống), địa khí núi bể đức phương, non sông ngòi rãnh triều hội, giáp ở cửa Hội Thống, xã Hội Thống ven bể, núi đi lồi lõm, nước chảy cong queo, hổ chồm rồng vờn, bốn bề quan khản, bèn xây dựng Thành Đô cung điện, Ngọc Khuyết lâu đài, phô bày 4 phương triều cống.
Theo ông Nguyễn Khắc Xương trong “Thông báo Hán Nôm, 1995” thì  “Bản Hồng Phúc cũng chép việc Kinh Dương Vương lập đô ở Hoan Châu rồi (sau mới) tìm về Nghĩa Lĩnh - Bạch Hạc dựng đô chính thức cho nước Văn Lang v.v...,” (Xem thêm phần phụ lục ở cuối sách)
Sau đó là một đoạn dài nói về việc nhà vua cưỡi thuyền rồng đi du ngoạn sơn thủy, vố rất nhiều địa danh sông núi :
Ngày sau vua lại đi tuần thú, rong ruỗi xa giá xem khắp các nơi sơn xuyên. Đến xứ Sơn Tây thấy một nơi địa hình đồi non chập chùng, sông đẹp núi lạ. Vua bèn tìm mạch đất, nhận được khí mạch từ trên núi Côn Lôn đi xuống, qua cửa Ải, lòng sông thoát mạch, rồng đi gần xa đến núi Tụ Long tiếp với châu Thu Vật xứ Tuyên Quang, biến ra toà Kim tinh cao muôn nhẫn. Mạch đất chảy đến các làng Hạ Hoa, Thanh Ba, Sơn Vi, Tây Lan, Phù Ninh phủ Lâm Thao, rồi đến chùa Long Hoa thôn Việt Trì ở Ngã ba sông Bạch Hạc là dừng. Mạch này bên trái từ sông Lôi Hà núi đi đến đâu sông theo đến đó, qua các huyện Đông Lan, Sơn Dương, Đương Đạo, Tam Dương đột khởi núi Tam Đảo, Tả cung Tiên làm thanh long. Trùng sơn vạn thuỷ, nổi lên các dãy núi ở Lập Thạch, Bách Ngoã, Chu Diên, Thanh Tước, Ngọc Bội, Khai Quang. Phụ bên trái có các núi Châu Sơn, Sóc Sơn, Chung Sơn,Trà Sơn, Từ Sơn, Trạm Sơn, Tích Sơn, An Lão sơn thuộc xứ Kinh Bắc chầu về, dẫn đến Hải Dương, Đông Triều, Hoa Phong, Yên Tử thoát ra đến biển, Đồ Sơn tám xã làm Long đầu chầu án. Mạch bên phải từ Ba Thục, Hán Giang, Nhị Hà, Lô Giang, Thao Giang, núi chạy đến đâu sông theo đến đấy. Đến Tuyên Quang, Hưng Hoá, Thập Châu, Thanh Nguyên, Bạn Hà, Đà Hà đến huyện Bất Bạt đột khởi núi Tản Viên. Hữu cung tiên làm Bạch hổ, muôn nhánh quần sơn nổi lên ở Minh Nghĩa, Phúc Lộc, Thạch Thất,Yên Sơn, Tây Phương, Sài Sơn, Tử Trầm, hũu bật đến Chương Đức, Đại Yên, Hương Tích sơn thuộc xứ Sơn Nam. Bên phải là Na Sơn, Nam Công, Vũ Phượng sơn, Đội sơn, Điệp sơn, Nghi Dương sơn, chầu phục vào trong, chảy thoát đến núi cửa biển Thần Phù ỏ núi Chính Đại thuộc Ái Châu, thoát đến Chích Trợ sơn, cửa Trà Lý làm đầu hổ chầu, lấy sông Bạch Hạc làm Nội minh đưòng, lấy Ngã Ba Lãnh ở sông Cả thuộc huyện Nam Xương làm Trung minh đường, núi Tượng Sơn ở Nam Hải làm Ngoại minh đường. Nghìn non nâng chủ, vạn thuỷ chầu nguồn, đều hướng về ngọn tổ sơn Nghĩa Lĩnh. (Trích Ngọc phả)

Đoạn Ngọc phả trên nhắc đến rất nhiều địa danh sông núi, nhiều người đặt vấn đề nghi vấn, có lẽ nào Kinh Dương Vương cưỡi thuyền rồng “đi” nhiều đến thế, thích môn “phong thủy”  đến thế? Thật ra, ở đây các tác giả Ngọc phả muốn thông qua đó để mô tả sơn xuyên địa mạch của nước ta, một dạng như các tác phẩm Dư địa chí sau này.
Cuối đời vua Kinh Dương Vương có sự kiện vua chuyển dời ra kinh đô mới ở Phong Châu: “Vua nhận ra thế cục của đất này (tức đô thành mới Phong Châu) đẹp hơn đô thành cũ ở Hoan Châu , bèn lập chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh để thỉnh thoảng ngự giá đến nghỉ. Bên ngoài lại dựng đô thành Phong Châu (nay là Cựu đô thành ở thôn Việt Trì xã Bạch Hạc, huyện Bạch Hạc), đặt quốc hiệu là nước Văn Lang” (Trước đó quốc hiệu là Việt Thường)

Về sự kiện này, Kim ngọc phả cũng ghi: Vua nhận được  vùng đất này hơn hẳn Đô thành Hoan Châu cũ, bèn lập ngay Chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh, thời thường giá ngự ở đấy. Bên ngoài thì dựng Đô thành Phong Châu  (trước gọi là quận Giao Chỉ, Kinh Dương Vương gọi là Xích quỉ quốc, lại gọi là nước Văn Lang. Đô thành Phong châu nay là đất Sơn Đông, huyện Bạch Hạc, cùng với cựu Đô thành ở thôn Việt trì, xã Bạch Hạc). Dựng quốc hiệu là nước Văn Lang (phía Đông giáp bể Nam Hải, phía Tây tận đến nước Ba thục, phía Bắc đến hồ Động Đình, phía Nam tiếp giáp với nước Hồ Tôn, gọi bộ chủ Cao Miên, Chiêm Thành làm nô lệ).


*
ĐỜI THỨ HAI: LẠC LONG QUÂN – ÂU CƠ: TÚ BÀO TRĂM TRỨNG NỞ TRĂM CON
Về đời vua Lạc Long quân có sự kiện nổi bật là bà Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng: Giờ ngọ ngày 25 tháng 12 năm Giáp Tí cái thai trong bụng Âu Cơ chuyển động, đến giờ ngọ ngày 28 khắp nhà hương thơm toả nức, ánh sáng loé lên trong trướng, hoàng phi Âu Cơ sinh ra một bọc màu trắng như ngọc. Khi hoàng phi mới sinh, hương lạ thơm nức khắp núi Nghĩa Lĩnh và cả vùng đất tổ Phong Thứu, Ngọc Lĩnh, Liên Trì (đầm sen).Hiền vương thấy hoàng phi sinh tú bào hết sức dị thường , cổ kim thiên hạ chưa từng thấy.. . Thế là vào giờ ngọ ngày rằm tháng giêng trăm trứng an lành nở ra trăm con trai. Khắp Long thành đầy mây ngũ sắc, ánh lành tỏa rạng khắp nơi, hương trời thơm ngát bay tỏa khắp chốn núi sông. Trong khoảng một tháng, các chàng trai không cần bú mớm mà lớn bật lên như người trưởng thành, tướng mạo phương phi, dáng hình kỳ tú, thân cao ba thước bảy tấc, cái thế anh hùng” ( Ngọc phả).
Về sự kiện sinh bọc trăm trứng, Kim ngọc phả cũng chép:
Hiền Vương thành tâm kỳ đảo, vào ngày Rằm tháng Giêng (giờ Ngọ, trăm trứng nở ra trăm con trai, mây rồng nêu năm vẻ, mây xanh tụ bày, điềm ứng mây lành, hương trời giáng khí, thơm phức núi sông).
Khí mây bao phủ càn khôn,
Núi non sông bể suy tôn anh hùng.
Được trong một tháng, trăm giai không bú mớm, mà trưởng thành nhanh chóng, con người hình dáng tốt lạ, trạng mạo phương phi, anh hùng cái thế, khí chất phong tư, cao lớn 3 thước 7 tấc.

Đời vua Lạc Long Quân còn có sự kiện chia 50 con theo cha về biển, 50 con theo mẹ lên núi, cắt đặt các tướng văn, tướng võ để cai trị đất nước: “Trước đó Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, giống loài không hợp nhau, chung sống với nhau thực cũng khó. Vì thế ta phải lìa nhau thôi. Chia 50 con theo cha về biển làm Thủy Tinh. Chia 50 con theo mẹ lên núi, làm Sơn Tinh, làm hiển rạng cho các vương tử. Vua bèn đặt quan văn gọi là Lạc Hầu, đặt tướng võ gọi là Lạc Tướng; các vương tử đều gọi là Quan Lang vương, các vương nữ  (tức công chúa) gọi là Mị Nương. Các quan hữu ti gọi là Bồ Chính” (Ngọc phả).
Chia nước làm 15 bộ: Một là Sơn Tây, hai là Sơn Nam, ba là Hải Dương, bốn là Kinh Bắc, năm là Ái Châu, sáu là Hoan Châu. bảy là Bố Chánh, tám là Ô Châu, chín là Ai Lao, mười là Hưng Hoá, mười một là Tuyên Quang, mười hai là Cao Bình, mười ba là Lạng Sơn, mười bốn là Quảng Tây, mười lăm là Quảng Đông. Đọc tên 15 bộ, chúng ta thấy xuất hiện những địa danh rất mới, hoàn toàn khác với tên các bộ trong Đại Việt sử ký toàn thư hay Lĩnh Nam chích quái. Thực ra, đây là những địa danh thời Lê (đa phần là tên các Thừa tuyên) và thêm 2 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc.
Đọc tên 15 bộ của nước Văn Lang, ta thấy có vẻ như những địa danh này rất “hiện đai”. Thật ra, ở đây đa phần là tên các Thừa tuyên (tương đương như tỉnh) thời Lê. Đây là điều khác biệt giữa Ngọc phả và các tài liệu đương thời. Đại Việt sử ký toàn thư, Lĩnh Nam chích quái và Dư địa chí của Nguyễn Trãi là những tác phẩm cùng thời, khi nêu tên của các Bộ thời Hùng Vương đều mượn tên các quân, huyện thời Hán, thời Đường.
“Hùng Hiền Vương hưởng nước dài lâu, đời đời cha truyền con nối, đều gọi là Hùng Vương. Ngọc lụa xa thư, núi sông một mối. Đó là thủy tổ của Bách Việt” (Ngọc phả)
Về việc các Thiên tướng tặng vua Hùng ấn kiếm tượng trưng cho vương quyền, Ngọc phả chép: “Tâu xong các các thiên tướng biến hoá bay về trời, ban cho Hiền vương một lệnh long bài, một quả bảo ngọc thần ấn, một hòn ngọc trắng, một thanh kiếm thần, một quyển Thiên thư (sách trời), một chiếc thuớc ngọc, một chiêc mâm vàng, tất cả đều đặt trong chính điện. Hiền vương vâng mệnh đón nhận, coi đó là điềm lành lớn trời ban để trị yên thiên hạ”.
Kim ngọc phả cũng chép: Tướng nước là 8 tướng Thánh thần làm quốc tướng, khâm mệnh trời xuống giúp mọi vương tử, đưa đến cửa Khuyết bái hạ đấng Hoàng Phụ, phủ trị trong nước, cho Hiền Vương một chiếc long hài, một quả kim ấn, một hòn bạch ngọc, một thanh thần kiếm, một quyển thiên thư, một phiến thước ngọc, đặt trên kim bàn, đưa vào trong điện. Hiền Vương phụng nghinh rước vào nội điện.
Về con cháu của Lạc Long Quân, Kim Ngọc phả còn ghi thêm: Ông là Thủy tổ Bách Việt nước Văn Lang ban đầu mở ra gây dựng hồng đồ, có 9 cung phi sinh được 118 hoàng tử, 19 công chúa, dòng dõi con cháu 137 chi, sinh ra cháu chắt 3.599 người. Việc trị nước đều có thiên khí thần phương thiên hạ, xưa nay chưa bao giờ có; nảy sinh 100 hoàng vương, xuất trị một nước, 100 khu đều gọi là 100 họ (Bách họ).
Có lẽ đây là phần viết thêm của các đời sau, khi sao chép lại, và mâu thuẫn với truyền thuyết và những ghi chép ở phần đầu. Đã nói Lạc Long Quân- Âu Cơ sinh được 100 trứng nở ra 100 con trai sao lại còn có con số 118 Hoàng tử và 19 công chúa?
Lạc Long Quân ở ngôi 400 năm, thọ 420 tuổi.
ĐỜI THỨ 3: HÙNG QUỐC VƯƠNG, CỦNG CỐ VƯƠNG QUYỀN.
Từ đời Hùng Vương thứ 3, Hùng Quốc Vương, Ngọc phả chép rất sơ sài.  Vua kế nghiệp vua cha là Lạc Long Quân “thi hành chính sự đức giáo, khuyến khích nông tang, khiến dân không lo nghèo thiếu, nước có tích lũy của dư” (Ngọc phả). Nhà vua cũng có một số thay đổi trong chính sự, nhằm kiểm soát đất nước, củng cố vương vị, vương quyền: “Bấy giờ vua truy ơn các bậc thánh trước, bèn thực hiện việc chia đất phân cõi, lập các bộ Sơn Tinh, Thủy Tinh, định làm trăm vương, đổi làm trăm họ, chia đất đầu núi góc biển, hùng cứ một phương. 50 trấn đầu núi đều gọi là Quan lang phiên thần phụ đạo; 50 trấn góc biển đều gọi là Thủy thượng linh thần, tiện cho việc bảo hộ sinh dân, khuông phù xã tắc” (Ngọc phả)
Kim Ngọc phả chép thêm: “Hùng Quốc Vương là đầu trăm vương, trong đó truyền 18 vương trị nước, có 12 cung phi, sinh 33 hoàng tử, 18 công chúa, sinh con trưởng là Nghĩa Vương nhường ngôi trị nước, 51 chi, sinh 900 cháu chắt. Ban ngày lên trời hóa sinh bất diệt vào giữa giờ Ngọ, Mồng 5 tháng 5, lên ngồi đỉnh núi, theo mây 5 sắc lên không, hóa thành thần, muôn đời phụng sự.”
Hùng Quốc Vương ở ngôi 221 năm, thọ 260 tuổi.
ĐỜI THỨ 4: HÙNG VIỆP VƯƠNG.
Vua “Lấy nhân nghĩa làm dân tục. Dựng xây tu sửa miếu đền, bách thần được thăng phong cấp bậc, hóa nhật thiên hạ sáng tưng bừng” (Ngọc phả).
Vua ở ngôi 300 năm.
Kim Ngọc phả gọi đời thứ 4 là Hùng Nghĩa Vương, và chép: “Vương có 24 cung phi, sinh 49 hoàng tử, 20 công chúa, cháu chắt dòng dõi 69 chi, cộng 1.591 người, cháu chắt đều trị vì thiên hạ trăm họ thần dân, không ai phải nộp thuế khóa, không phải động đến việc binh qua, trọng nhất là việc làm ruộng, trồng dâu, chăn tằm, dệt vải là việc gốc làm ăn giàu có, bốn bể thiên hạ thịnh mạnh, mỗi xuất nhân đinh 36 đồng tiền tại cửa điện nhà vua.
ĐỜI THỨ 5: HÙNG HY VƯƠNG.
Vua “trong sửa văn đức thu phục nhân tâm, ngoài lập vũ công, chấn uy phong với nước lạ, khiến cho xã tắc yên bình, biên cương vô sự” (Ngọc phả)
Vua ở ngôi 200 năm.
Kim Ngọc phả chép: “Khi Vua trị vì có 36 cung phi, sinh 52 hoàng tử, 9 công chúa, cháu chắt dòng dõi 61 chi, sinh được 1.600 người. Lúc Vua trị nước được thái bình, dân không lừa dối, thiên hạ yên mạnh, mỗi người lính hộ theo phép cứ phải nộp 36 đồng tiền”.
Về phần Cung phi, Hoàng tử, Công chúa, cháu chắt của mấy đời vua Hùng ghi ở trên đây được ghi trong Kim Ngọc phả, có lẽ cũng như trường hợp Lạc Long Quân nêu ở trên, do người đời sau, khi chép lại đã thêm vào, với quan niệm, đã là vua thì phải nhiều cung phi, nhiều Hoàng tử, Công chúa. Riêng phần hàng năm phải nộp bao nhiêu đồng tiền, có lẽ là sự ảnh hưởng của các khoản thuế đinh, thuế điền của thời phong kiến “ánh xạ” vào mà thôi.

ĐỜI THỨ 6: HÙNG HUY VƯƠNG: THÁNH GIÓNG ĐÁNH GIẶC ÂN.

Đời vua thứ 6, Hùng Huy Vương có một sự kiện lớn là giặc Ân sang xâm lược nước ta. Vua cho đi cầu tài và được Thánh Gióng ứng mộ giúp nước. Về sự kiện Thánh Gióng đánh giặc Ân, sử sách đã đề cập nhiều, ở đây không nhắc lại. Nhưng qua sự tích, chúng ta có thể thấy rằng, về đời Hùng Vương, triều đình chưa có quân đội thường trực. Khi có giặc thì dân là lính, thời bình lính lại về làm dân. Việc vua cử sứ giả đi chiêu mộ người tài giúp nước chính là đi “mộ lính”, là hình ảnh của việc “mộ lính”.
Cho đến nay, ngoài chuyện kể dân gian, chúng ta thấy có một số tác phẩm thành văn chép về truyền thuyết Thánh Gióng. Đó là các tác phẩm: “Đại Việt sử ký toàn thư” (xin được gọi tắt là Sử ký), “Lĩnh nam chích quái” (gọi tắt là Chích quái) và Ngọc phả Hùng Vương (gọi tắt là Ngọc phả). Cả ba tác phẩm này đều xuất hiện vào thế kỷ 15. Truyện kể dân gian về truyền thuyết Thánh Gióng thì nhiều, ở đây xin lấy “Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam” của học giả Nguyễn Đổng Chi để so sánh (xin được gọi tắt là Cổ tích)
Trước hết, về lý do giặc Ân xâm chiếm nước ta, Sử ký không chép gì, Cổ tích cũng không nói lý do. Chích quái thì cho rằng, do Hùng Vương cậy mình giàu mạnh mà chểnh mảng việc triều cận phương Bắc. Riêng Ngọc phả ghi tương đối cụ thể lý do là do Hùng Vương thứ 6 – Hùng Huy Vương “kế thừa nền thái bình đã lâu, không chịu khó suy nghĩ chính sự”. Hùng Vương thứ 6 lại còn phạm một tội không thể tha thứ, đó là làm đồ giả để cúng tế thần linh, dùng “voi trắng không ngà, voi đen ba chân, ngựa đỏ năm chân để cầu đảo” (1). Hoàng thiên mới tức giận , giáng tai ương để cảnh báo.
Về khí thế của quân giặc, Sử ký không ghi cụ thể, chỉ nói là nguy cấp; Chích quái không ghi gì, Cổ tích thì chỉ kể giặc rất hung hăng tàn ác, chúng đi đến đâu là đốt phá nhà cửa, cướp của, giết người đến đấy. Riêng Ngọc phả ghi chi tiết hơn: “Quả nhiên ba năm sau bỗng có tin từ biên cương đưa về cáo cấp: Tướng giặc Ân là Thạch Linh thần tướng khởi binh từ Bắc đạo tiến sang, giáo mác giáp trụ liên tiếp kín trời, tinh kỳ rợp đất, quả đúng như lời bà mo đã nói. Hùng Huy Vương bèn cho đắp đàn tế, trai giới tịnh khiết rồi lên đàn thắp hương cầu khấn. Các quan triều đến dự hội tế suốt trong ba ngày. Sau đó mưa to sấm gió nổi lên, bỗng thấy một cụ già thân cao hơn 9 thước, mày râu bạc phơ đang cười nói nhảy múa ở chỗ ngã ba đường, ai trông thấy cũng phải lấy làm lạ, cho là bậc kỳ nhân. [Quan hầu] vào tâu vua, vua đích thân ra đón mời vào đàn tế, nói với kỳ nhân rằng:
-Nay quân Bắc sang xâm lăng, thắng thua chưa biết thế nào, xin lão ông cho chỉ giáo. Lão ông trầm ngâm hồi lâu, rút thẻ bói quẻ rồi đáp:
-Nếu tìm được người thì giặc này không đáng phải đánh dẹp!
Nói xong cụ già vút lên không bay đi. Vua thấy vậy biết đó là lời dạy của Lạc Long Quân. Thế là vua sai người hầu đi tìm khắp nơi trong nước.”
Về xuất xứ của Gióng, các tài liệu đều ghi làng quê của Gióng là làng Phù Đổng. Sử ký chỉ nói đến “có người nhà giàu sinh một con trai, đến năm hơn ba tuổi ăn uống béo lớn nhưng không biết nói cười”. Chích quái thì ghi “ Có một phú ông  tuổi hơn 60 mới sinh được một người con trai vào giữa ngày mồng 7 tháng giêng, ba tuổi còn không biết nói, nằm ngửa không ngồi dậy được”. Cổ tích thì kể Gióng chỉ có mẹ, không có bố  “Có người đàn bà đã nhiều tuổi nhưng sống một thân một mình”.Còn Gióng thì “lên ba tuổi rồi mà vẫn nằm ngửa đòi ăn, không biết ngồi, biết lật, cũng không biết nói cười gì cả”.  Riêng Ngọc phả  ghi cụ thể hơn: “Sứ giả đến làng Phù Đổng quận Vũ Ninh (nay là huyện Tiên Du). Làng ấy có người nhà giàu tên là Ông Trưởng, ông 79 tuổi mà bà cũng đã 59 tuổi. Trước nhà có mảnh vườn trồng hoa. Sáng sớm ngày 6 tháng giêng năm Quý Hợi bà vào vườn hái hoa, thấy dấu chân người khổng lồ. Bà bèn gọi chồng cùng vào vườn xem, quả nhiên thấy có dấu chân của thần nhân. Ông chồng bảo bà vợ bước chân trái dẫm vào đó. Tự nhiên bà thấy cảm động trong người, rồi mang thai. Đến ngày 8 tháng Tư năm Giáp Tí bà sinh một con trai. Con được đúng một tuổi thì Ông Trưởng qua đời, chỉ còn mẹ già sáu mươi bú mớm nuôi con, lên ba tuổi đặt tên là Thiết Xung thần vương, ăn uống lớn phỗng, nhưng không biết nói cười.”
Về vũ khí Gióng yêu cầu nhà vua sắm sửa cho, Sử ký ghi : “Xin cho một thanh gươm, một con ngựa” (không nói ngựa thật hay ngựa sắt?). Chích quái thì ghi: Đứa trẻ nhỏm dậy bảo sứ giả rằng: Mau về tâu vua rèn cho một ngựa sắt cao 18 thước, một thanh kiếm sắt dài 7 thước, một roi sắt và một nón sắt”. Cổ tích thì kể: “Gióng trả lời chững chạc: Về bảo với vua rèn cho ta một con ngựa sắt, một thanh gươm sắt, một áo giáp sắt và một nón sắt, ta sẽ đuổi giặc dữ cho”. Riêng Ngọc phả kể chi tiết hơn: “Khi sứ giả vào nhà, cậu bé nói: Ta là Thiết Xung thần tướng đây! Trời sinh ra ta để giúp nước, dẹp loạn cứu dân. Ngươi về triều thưa với vua cho ta một con ngựa sắt cao 10 thước, một cây vọt sắt dài 10 thước, một chiếc nón sắt rộng 3 thước, đưa mấy thứ ấy đến đây cho ta là vua không phải lo gì nữa!”
Về việc rèn roi sắt, ngựa sắt cho Thánh Gióng, Sử ký không ghi gì, chỉ thấy ghi là vua ban cho gươm và ngựa. Chích quái thì ghi vua sai quần thần vội đi tìm 50 cân sắt luyện thành ngựa, kiếm, roi và nón cho Gióng (một nhận xét nhỏ: 50 cân sắt mà luyện cả ngựa, kiếm, roi và  nón thì quá ít !) Cổ tích thì kể : Sứ giả lập tức phi ngựa trở về tâu vua, Hùng Vương mừng rỡ liền ra lệnh cho thợ rèn góp tất cả sắt lại rèn ngựa, gươm, áo giáp và nón như lời xin của chú bé”. Còn Ngọc phả ghi chi tiết hơn: “Sứ giả trở về chính điện ở núi Nghĩa Lĩnh tâu vua đầy đủ mọi việc. Vua cả mừng, sai tìm đủ 50 trăm (tức =5.000) cân sắt để rèn thành ngựa sắt, vọt sắt, nón sắt. Đến giờ Mão ngày 7 tháng Giêng năm Bính Dần vua sai quan Tiết chế đem 10 vạn hùng binh đem ngựa sắt, roi sắt, nón sắt đến làng Phù Đổng. Về trận chiến Thánh Gióng đánh giặc Ân, Sử ký và Chích quái không nhắc đến chi tiết gãy vũ khí. Cổ tích kể gươm bị gãy, Gióng bèn nhổ tre hai bên đường làm vũ khí. Ngọc phả ghi chi tiết hơn và có hơi khác với Cổ tích : Không phải roi sắt bị gãy mà là bị rơi mất : “Thiết Đổng nói xong nhảy lên ngựa, thét vang như sấm:
-Ta là Thiên tướng thần vương, vâng sắc chỉ xuống giúp nước!
Rồi quất ngựa phóng như bay, chỉ phút chốc đã đến dưới chân núi Vũ Ninh huyện Yên Việt đại chiến với Thạch Linh thần tướng bên sườn núi Vũ Ninh. Quân nước Ân thua to tan chạy. Thạch Linh thần tướng bị bắt sống chém đầu. Bọn giặc còn lại chưa diệt hết, nhưng vọt sắt của Thiết Đổng thần vương đã bị rơi mất. Thần vương bèn nhổ lấy các bụi tre gai vung lên quét sạch các toán quân giặc!”
Về chi tiết Thánh Gióng cưỡi ngựa bay lên trời, các bản ghi chép tương đối giống nhau: “Đứa trẻ phi ngựa lên trời mà đi” (Sử ký). “Đi đến đất Sóc Sơn, thiên tướng cởi giáp, cưỡi ngựa mà lên trời” (Chích quái). “Đến núi Sóc Sơn, Gióng cởi giáp, bỏ nón lại, rồi cả người lẫn ngựa bay lên trời” (Cổ tích). Còn Ngọc phả thì ghi: “ Khi đến núi Sóc xã Vệ Linh huyện Kim Hoa Thiết Đổng thần vương bèn cởi bỏ bộ áo hoa lau, phóng ngựa bay lên không rồi cưỡi lên các đám mây mà bay đi. Nay nơi ấy vẫn còn dấu chân ngựa in trên lèn đá.”
Tóm lại, qua các văn bản ghi chép về truyền thuyết Thánh Gióng, ta thấy Ngọc phả Hùng Vương ghi đầy đủ hơn, chi tiết hơn các văn bản khác. Tất nhiên, chúng ta không coi văn bản nào chính xác hơn văn bản nào. Mỗi văn bản có giá trị riêng của nó, bổ sung cho nhau, và cho ta một hình ảnh đầy đủ hơn, phong phú hơn về người anh hùng chống giặc ngoại xâm đầu tiên của dân tộc ta.
Sau khi giặc tan, vua cho lập đề thờ tri ân người có công : “Nghĩ Thiết Đổng thần vương có đại huân lao giúp nước nhưng chưa từng gặp mặt, không biết lấy gì báo đáp, Hùng Huy Vương bèn truy tôn thần là Phù Đổng  Thiên vương, truy tôn bà mẹ làm Thánh Mẫu, cho dựng đền thờ trên nền nhà cũ (nay ở xã Phù Đổng huyện Tiên Du và thôn Đổi Mã xã Vệ Linh huyện Kim Hoa có các đền miếu phụng thờ). Cấp cho làng Phù Đổng 100 khoảnh ruộng để đèn hương phụng thờ” (Ngọc phả).
Về Về đời thứ 6, Kim Ngọc phả gọi là Hùng Hoa Vương.Nhưng, câu chuyện Thánh Gióng đánh giặc Ân, Kim Ngọc phả cũng chép tương tự như Ngọc phả, không có gì phải bình luận thêm.
Hùng Huy Vương ở ngôi 87 năm, thọ 100 tuổi.
*
ĐỜI THỨ 7: HÙNG CHIÊU VƯƠNG, ĐẠO PHẬT TRUYỀN SANG NƯỚC TA
Đời vua thứ 7, Hùng Chiêu Vương có một sự kiện nổi bật, đó là đạo Phật được  truyền vào nước ta. Từ các đời vua trước, Ngọc phả cũng đã có nhắc đến đền chùa, nhưng chỉ nói đến việc thờ phụng thần tiên hoặc tổ tiên. Đến đời Hùng Chiêu Vương ta mới thấy nhắc đến các danh từ nhà Phật như Tây vực (chỉ Ấn Độ, nơi phát sinh đạo Phật), Biển Giác, Bát nhã (trí tuệ), Niết bàn, cầu kinh xướng kệ, ăn ở chay tịnh v.v. . . Và đặc biệt là việc vua đã được gặp hiện thân của Phật, có lẽ là một vị sư tu hành đắc đạo từ đất Phật sang, dưới dạng là một Lão ông. “Lão ông nói : Ta là thần miền Tây vực, cư trú lâu ngày ở Biển Giác, chu du trên thuyền Bát Nhã (trí tuệ), không nhiễm lòng trần. Nay ta đang đi phơi thuốc ở đường đến Niết Bàn, thấy nơi đây dân chúng lòng thành cảm cách, râm ran tiếng cầu kinh xướng kệ, cho nên ta cảm ứng mà đến đây” (Ngọc phả).
Kim Ngọc phả cũng chép: “Đương lúc mùa xuân ngày tốt, vua ngự trong đền, bỗng thấy một vị Lão Ông mình vàng tướng ngọc, rẽ mưa nối mây mà lại. Vua ngự bái, đón rước vào chùa. Lão Ông nói: “Ta là Thần Tây vực ở lầu Giác Hải, chèo thuyền bát nhã tiêu dao, chẳng thấu bụi trần ruổi cõi niết bàn vui thú. Nay đã lòng thành cảm cách, kinh kệ truyền thanh, nên ta hiển ứng lại đây”.
Xét trong sử sách, sự kiện Đạo Phật được truyền sang nước ta bắt đầu từ đời Hùng Vương là có căn cứ. Xin dẫn chứng :
Đạo Phật ra đời tại Ấn Độ vào giữa thiên niên kỷ thứ I trước Công nguyên (Tcn). Theo truyền thuyết, người sáng lập ra đạo Phật là Thái tử Xi đạt ta Got to ma là con vua Sudodanna nước Capilavatxtu ở chân núi Hi ma lay a, miền đất bao gồm một phần nước Nê pan và một phần nước Ấn Độ ngày nay.
Năm 29 tuổi, Thái tử Xi đạt ta từ bỏ đời sống vương giả ở kinh thành, từ bỏ vợ con, xuất gia đi tìm đường cứu vớt nỗi khổ đau của chúng sinh. Đến năm 35 tuổi, sau 49 ngày thiền định dưới gốc cây bồ đề, ông thấy mình thấu triệt hết chân lý của vũ trụ và nguồn gốc sinh tử của con người do vòng luân hồi “sinh, lão bệnh tử” gây ra. Từ giây phút ấy, ông trở thành Buddha (tức là người đã giác ngộ, đã hiểu rõ cội nguồn chân lý, ta gọi là Phật hoặc Bụt). Đệ tử tôn xưng ông là Xakia Muni (Âm Hán – Việt là Thích ca Mầu ni). Học thuyết của ông được đệ tử đúc kết lại, bổ sung thêm, chỉnh lý dần và phổ biến rộng rãi, đó là giáo lý nhà Phật.
Thích ca Mầu ni sinh năm 624 Tcn và mất năm 544 Tcn. Tín đồ đạo Phật lấy năm mất của ông làm năm mở đầu kỷ nguyên Phật giáo. Ví dụ, năm 2012 Công lịch sẽ là năm 2556 Phật lịch.
Sau khi đạo Phật ra đời, từ thế kỷ V đến thế kỷ III Tcn, các nhà hoạt động Phật giáo đã tổ chức được 3 cuộc Đại hội Phật giáo (gọi là Đại hội Kết tập Kinh điển) để soạn thảo giáo lý, chấn chỉnh tổ chức và “Hoằng dương Phật pháp” (tức truyền bá đạo Phật ra rộng rãi hơn). Đáng chú ý nhất là Đại hội lần thứ 3 vào giữa thế kỷ II Tcn dưới thời vua A so ka (âm Hán – Việt là A dục vương). Vua A so ka (268 – 232 Tcn) trong thời gian trị vì đã thống nhất được toàn xứ Ấn Độ, là thời kỳ cường thịnh nhất trong lịch sử Ấn Độ cổ đại.
Theo sách Đại sử ký ( Mahavamsa) của Tích Lan (nay là Sri Lanka) thì Đại hội được tổ chức tại thành phố Pataliputta (âm Hán Việt là Hoa Thị) nước Magadca (âm Hán Việt là Ma kiệt đà) do vua A so ka cùng Đại lão Hòa thượng Moggaliputta Tissa (âm Hán Việt là Mục kiều liên tử đế tu) chủ trì. Đại hội đã cử 9 đoàn Như Lai sứ giả lên đường hoằng dương Phật pháp tới các vùng miền khác trong Ấn Độ, và tới các quốc gia xa xôi khác. Trong đó có 3 đoàn được cử đi truyền đạo rất xa. Đó là:
Đoàn thứ 6 do ngài Maharakhita dẫn đầu đến Hi Lạp
Đoàn thứ 9 do ngài Mahinda con trai A so ka dẫn đầu đến Tích Lan (S riLanka)
Và đặc biệt là đoàn thứ 8 do 2 cao tăng là ngài Sona và ngài Utara dẫn đầu đến vùng Kim Địa ( tức là phạm vi các nước Miên ma, Việt Nam, Lào, Căm pu chia và Ma lai xi a ngày nay) .Nhiệm vụ của đoàn là xây dựng giảng đường, hoằng dương Phật pháp, xây dựng các tháp để đánh dấu những nơi đoàn đến hoặc ghi lại những việc làm của đoàn. Những tháp đó sau này được gọi là tháp A dục (tức là tháp của vua A so ka. Trên đất nước ta, dấu tích của các công trình mang tên tháp A dục vẫn còn để lại cho đến thời kỳ Bắc thuộc, thế kỷ IV đến VI sau Cn và đã được sử sách ghi lại. Theo Lưu Hân Kỳ trong Giao Châu ký (thế kỷ IV) thì: “Thành Nê Lê ở phía nam huyện Định An, cách sông bảy dặm, tháp và giảng đường do vua A dục xây dựng vẫn còn. Những người đốn hái củi gọi là Kim tượng”
Trong Thủy kinh chú của Lịch Đạo Nguyên (thế kỷ VI) cũng ghi về thành Nê Lê “ Từ Giao Chỉ đi về phíaNamcó ngách sông Đô Quan Tái Phố chảy ra. Con sông này từ phía đông đi qua huyện An Định, phía bắc kèm theo sông Trường Giang, ở trong sông có chiếc thuyền đồng do Việt Vương đúc, lúc nước triều xuống người ta thấy chiếc thuyền ấy. Con sông Trường giang lại chảy về phía đông, cách sông có thành Nê Lê, thành này do A dục vương xây. Lại chảy về phía đông nam hợp với sông Nam Thủy. Sông Nam Thủy lại chảy về phía đông nam, đi qua phía bắc quận Cửu Đức.”
Như vậy, di tích của đoàn truyền giáo thứ 8 để lại trên đất nước ta, cho mãi đến thế kỷ thứ IV – VI vẫn còn và đã được các sử gia Trung Hoa ghi lại. Điều đó chứng tỏ rằng , từ thế kỷ III Tcn đã từng có các đoàn cao tăng từ Ấn Độ sang truyền giáo tại nước ta. Thế kỷ III Tcn tương ứng với thời kỳ Hùng Vương ( từ thế kỷ VII – III Tcn). Không nghi ngờ gì nữa, đạo Phật đã được truyền vào nước ta từ thời Hùng Vương và đã để lại các Thiền viện và các tháp mang tên A dục.
Đối chiếu với lịch sử Phật giáo thì vào thời vua Asoka (phiên âm Hán Việt là A dục vương) trị vì từ năm 268 – 232 T.Cn, để “hoằng dương Phật pháp”, đã tổ chức “Đại hội kết tập kinh điển”, và đã cử 9 đoàn “Như Lai sứ giả” lên đường đi truyền bá đạo Phật ở những vùng xa, trong đó có đoàn thứ 8 do hai cao tăng là Sona và Uttara sang vùng đất Kim Địa (tức vùng Miên Ma, Thái Lan, Lào, Việt Nam, Cam pu chia, Ma lai xia ngày nay). Đoàn “Như Lai sứ giả” thứ 8 đã đến nước ta và đã để lại dấu ấn là các tháp A dục mà các sử sách Trung Quốc như Giao Châu ký (Thế kỷ IV) và Thủy kinh chú (Thế kỷ VI) đã có dịp ghi lại .
Vào đời Hùng Vương thứ 18, còn có sự kiện Chử Đồng Tử đi tu đạo Phật, sẽ được đề cập đến ở phần sau.
Đời Hùng Chiêu Vương còn có một sự kiện đặc biệt nữa là xuất hiện ấn kiếm tượng trưng cho uy quyền tối thượng. Ở đời thứ 2, Lạc Long Quân, ta đã thấy xuất hiện ấn kiếm tượng trưng cho uy quyền, nhưng ở đây, việc xuất hiện ấn kiếm một lần nữa có lẽ là để củng cố uy quyền ở một mức cao hơn: “Rồi đó, Chiêu Vương ngự giá về cung, sai đem khối ngọc khắc thành quả Bảo ấn, đem chiếc móng Rồng bằng ngọc tạc thành cái chuôi kiếm” (Ngọc phả).
Kim Ngọc phả cũng chép: Đây là Đại Thiên Vương dặn bảo Vua rằng: “Trước kia Lão Ông cho vật lạ này, tên là Hoàng Thiên Đại Bảo, một thứ thì làm chuôi gươm, một thứ thì làm quả ấn nên đúc rũa ngay khắc làm quốc bảo”. Nói xong, Thiên Vương bay thẳng lên trên không.
Hùng Chiêu Vương ở ngôi được 200 năm.

ĐỜI THỨ 8: HÙNG VĨ VƯƠNG.
Hùng Vĩ Vương kế thừa ngôi báu của các vị tiên vương “trong nước thái hòa, biên cương vô sự, thiên hạ ngợi khen là bậc vua hiền” (Ngọc phả).
Vua ở ngôi được 100 năm.
Kim Ngọc phả gọi đời vua Hùng thứ 8 là Hùng Minh Vương, và có chép về vị vua này như sau: Hùng Minh Vương húy Thừa Vân Lang, làm vua 100 năm, thọ 642 tuổi, mệnh Nhâm Thìn; sinh ngày 15 tháng 7; mất ngày 11 tháng 10, lên chầu trời; sinh con trưởng là Chiêu Vương, nhường ngôi truyền 5 đời vua trị vì.
Minh Vương có 29 cung phi, 31 hoàng tử, 16 công chúa, con cháu dòng dõi 47 chi, sinh được cháu chắt 579 người, trị thiên hạ được thái bình, dân đinh mỗi xuất chỉ phải nộp 24 đồng tiền vào kho.

ĐỜI THỨ 9: HÙNG ĐỊNH VƯƠNG
Ở ngôi 80 năm.
Từ đời thứ 9 đến đời thứ 16, Ngọc phả không chép gì về hành trạng các vị vua Hùng. Kim Ngọc phả thì gọi đời thứ 9 là Hùng Chiêu Vương và có chép thêm như sau:
Hùng Chiêu Vương, húy Quốc Liêu Lang (còn gọi là Lang Liêu), làm vua 80 năm, thọ 602 tuổi, mệnh Quý Tỵ; sinh ngày 22 tháng 8; mất ngày mồng 10 tháng 4, lên trầu trời; sinh con trưởng Uy Vương nhường ngôi.
Ở đây có chi tiết khác biệt. Theo Lĩnh Nam chích quái và Truyện cổ dân gian, Chuyện Bánh chưng bánh dày thì Lang Liêu là Hoàng tử con Hùng Vương thứ 6, lên làm vua là Hùng Vương thứ 7. Không hiểu sao Kim Ngọc phả lại ghi Lang Liêu là Hùng Vương thứ 9 ? (Trong Ngọc phả, Hùng Vương thứ 7 là Hùng Chiêu Vương, trong Kim Ngọc phả thì Hùng Vương thứ 9 mới có tên là Hùng Chiêu Vương, ở đây có sự nhầm lẫn gì chăng?
Chiêu Vương có 46 cung phi, sinh 33 hoàng tử, 9 công chúa, con cháu dòng dõi 42 chi, sinh được cháu chắt 559 người, trị vì thiên hạ được thái bình, dân đinh theo phép cũ của tiên vương chỉ phải góp 36 đồng tiền vào kho.

ĐỜI THỨ 10: HÙNG UY VƯƠNG.
Ở ngôi 90 năm.
Ngọc phả không ghi thêm gì. Kim Ngọc phả chép thêm: “Hùng Uy Vương, húy Hoàng Hải Lang, làm vua 90 năm, thọ 512 tuổi, mệnh Giáp Ngọ; sinh ngày 15 tháng 11; mất ngày 6 tháng 8, lên trầu trời; Sinh con trường là Trinh Vương, nhường ngôi truyền 3 đời vua trị vì.
Uy Vương có 40 cung phi, sinh 29 hoàng tử, 30 công chúa, con cháu dòng dõi 59 chi, sinh được cháu chắt 434 người, trị vì bốn bể trong thiên hạ được an sinh, dân đinh theo lệ tiên triều, mỗi xuất phải góp 36 đồng tiền vào kho.

ĐỜI THỨ 11: HÙNG TRINH VƯƠNG.
 Ở ngôi 170 năm.
Ngọc phả không ghi thêm gì.
Kim Ngọc phả chép thêm: “Hùng Trinh Vương, húy Hưng Đức Lang, làm vua 107 năm, thọ 514 tuổi, mệnh Canh Tuất; sinh ngày 23 tháng 8; mất ngày mồng 2 tháng Giêng, lên chầu giời; sinh con trưởng là Vũ Vương, truyền 4 đời vua trị vì.
Trinh Vương có 36 cung phi, sinh 46 hoàng tử, 18 công chúa, con cháu dòng dõi 64 chi, sinh được cháu chắt 409 người, trị nước bình an, trăm họ thần dân không ai phải góp thuế, không phải binh giáp, cứ mỗi xuất đinh chỉ phải nộp 9 đồng tiền vào kho.

ĐỜI THỨ 12: HÙNG VŨ VƯƠNG
Ở ngôi 170 năm.
Ngọc phả không ghi gì, Kim Ngọc phả chép thêm như sau: Hùng Vũ Vương, húy Hiền Đức Lang, làm vua 96 năm, thọ 496 tuổi, mệnh Bính Thân; sinh ngày 14 tháng 4; mất ngày 15 tháng 4, lên chầu giời; sinh con trưởng là Việt Vương, truyền 3 đời vua trị vì.
Vũ Vương có 25 cung phi, sinh 50 hoàng tử, 6 công chúa, con cháu dòng dõi 56 chi, sinh được cháu chắt 305 người, trị trong nước được thanh bình, trăm họ man di đều cung phục, mỗi xuất đinh chỉ phải góp 6 đồng tiền vào kho
.
ĐỜI THỨ 13: HÙNG VIỆT VƯƠNG.
Ở ngôi 105 năm.
Ngọc phả không ghi thêm gì. Kim Ngọc phả chép thêm như sau: Hùng Việt Vương, húy Tuấn Lang, làm vua 105 năm, thọ 502 tuổi, mệnh Kỷ Hợi; sinh ngày 10 tháng 10; mất ngày 15 tháng 11 lên trầu giời; sinh con trưởng là Định Vương truyền 5 đời vua trị vì.
Việt Vương có 31 cung phi, sinh 27 hoàng tử, 30 công chúa, con cháu dòng dõi 57 chi, sinh cháu chắt được 541 người, trị vì nước được thái hòa, dân không lừa dối, dân đinh mỗi xuất phải góp một tiền vào kho.

ĐỜI THỨ 14: HÙNG ANH VƯƠNG
Ở ngôi 99 năm.
Ngọc phả không ghi gì. Kim Ngọc phả gọi Hùng Vương thứ 14 là Hùng Định Vương và ghi như sau: Hùng Định Vương, húy Chân Nhân Lang, làm vua 99 năm, thọ 386 tuổi, mệnh Bính Dần; sinh ngày 17 tháng 5; mất ngày 25 tháng 10, lên chầu giời; Sinh con trưởng là Triều Vương, truyền 3 đời vua trị vì.
Định Vương 18 cung phi, sinh 18 hoàng tử, 22 công chúa, con cháu dòng dõi 40 chi, sinh được cháu chắt 309 người, trị vì nước được thái bình, bốn bể minh tỉnh, dân đinh đóng thuế mỗi người nộp một tiền vào kho.

ĐỜI THỨ 15: HÙNG TRIỀU VƯƠNG.
Ở ngôi 94 năm.
Ngọc phả không ghi thêm gì.  Kim Ngọc phả ghi về Hùng Triều Vương như sau: Hùng Triều Vương, húy Kinh Triều Lang, làm vua 94 năm, thọ 286 tuổi, mệnh Quý Sửu; sinh ngày 4 tháng Giêng; mất ngày mồng 9 tháng 9, lên trầu giời. Sinh con trưởng là Tạo Vương, nhường ngôi truyền 3 đời vua trị vì.
Triều Vương có 60 cung phi, sinh 40 hoàng tử, 16 công chúa, con cháu dòng dõi 56 chi, sinh cháu chắt được 399 người, trị việc nước trong thiên hạ được thái bình, dân đinh đóng mỗi xuất 18 đồng tiền nộp kho.

ĐỜI THỨ 16: HÙNG TẠO VƯƠNG.
Ở ngôi 92 năm.
Ngọc phả không ghi gì. Kim Ngọc phả ghi như sau: Hùng Tạo Vương, húy Đức Quân Lang, làm vua 92 năm, thọ 273 tuổi, mệnh Kỷ Tị; sinh ngày 25 tháng 12; mất ngày mồng 9 tháng 9, lên chầu giời; Sinh con trưởng là Nghị Vương, truyền 3 đời vua trị vì.
Tạo Vương có 26 cung phi, sinh 30 hoàng tử, 7 công chúa, con cháu dòng dõi 37 chi, sinh cháu chắt được 390 người, trị nước được thái bình, trăm họ thần dân giàu đủ, cứ đinh mỗi xuất góp một trăm đồng tiền đem nộp kho.

Từ đời thứ nhất đến đời thứ 16, trải qua 16 đời đều xưng hiệu Trị Bình Kiến Phu

ĐỜI THỨ 17: HÙNG NGHỊ VƯƠNG, VUA THỤC BẮT ĐẦU CÓ Ý  ĐỒ NHÒM NGÓ VĂN LANG.

Vua “Thừa hưởng nhiều đời thiên hạ thái bình, sinh ra đam mê tửu sắc, ham thích du chơi, không lo sửa sang võ bị” (Ngọc phả). Bắt đầu thấy mầm mống của họa ngoại xâm “Vua nước Thục từ xa nghe tin nước Nam không mấy khi dùng đến việc võ, nên muốn thống nhất dư đồ, nhưng sợ nước Nam có cây kiếm thần, nên còn do dự chưa quyết” (Ngọc phả). Nhưng rồi hai bên, Hùng Vương và Thục Vương cùng nhau giảng hòa định ước, hai nước cùng quan hệ đi lại với nhau, hòa thuận.
Kim Ngọc phả cũng chép: “. Thục Vương xa nghe trong nước không thường dùng võ, muốn chiếm hữu một dư đồ, song sợ phương Nam có thần sách, dùng dằng chưa quyết.
Hùng Nghị Vương ở ngôi 160 năm.
*

ĐỜI THỨ 18: HÙNG TUYỀN VƯƠNG, ĐỜI VUA XẨY RA NHIỀU SỰ KIỆN NHẤT.

Đời Hùng Tuyền Vương, xưa nay ta quen gọi là Hùng Duệ Vương, Kim Ngọc phả cũng gọi là Hùng Duệ Vương. Đây là thời kỳ có nhiều sự kiện nhất : Chử Đồng Tử kết hôn với Tiên Dung công chúa và đi tu đạo Phật, Sơn Tinh - Thủy Tinh tranh hôn, vua Hùng nhường ngôi cho con rể, rồi lại nhường ngôi cho Thục Phán. Và Triệu Đà đánh chiếm Âu Lạc.v.v …
1. Truyền thuyết Chử Đồng Tử đi tu đạo Phật.
Về truyền thuyết Chử Đồng Tử- Tiên Dung, Ngọc phả chép rất sơ sài: “Tuyền vương chiêm bao thấy điềm rắn lớn, sau sinh được con gái hai nàng, đều là những trang thục nữ phụ đức trinh hiền, phong tư tuấn nhã, so ra thì Tề Khương, Tống nữ chỉ là hạng tầm thường, cha vua mẹ tiên, lứa duyên thật xứng hợp. Nàng chị là Mỵ Châu Tiên Dung công chúa, nàng em là Mỵ nương Ngọc Hoa công chúa, đựoc vua cha hết mức yêu quý. Mỵ Châu sau được gả cho Chử Đồng Tử ( ở xã Đa Hòa huyện Đông Yên phủ Khoái Châu xứ Sơn Nam )”, (Ngọc phả)
Nhưng Truyền thuyết dân gian và Lĩnh Nam chích quái ghi chép tương đối chi tiết. Đặc biệt là sự kiện  Chử Đồng Tử đi học đạo Phật ở núi Quỳnh Viên, được ghi lại như sau: “ Có núi Quỳnh Viên, trên núi có am nhỏ, bọn lái buôn thường ghé lại đó uống nước. Đồng Tử lên am chơi, có tiểu tăng tên là Ngưỡng Quang truyền phép cho Đồng Tử. Đồng Tử  lưu học ở đó, giao tiền cho bọn lái buôn mua hàng. Sau đó lái buôn quay lại đón Đồng Tử về. Sư tặng Đồng Tử một cây trượng và một chiếc nón mà nói rằng: “ Linh thiêng ở những vật này đây”. Đồng Tử trở về giảng lại  đạo Phật. Tiên Dung bèn giác ngộ, bỏ phố phường, chợ búa , cơ nghiệp rồi cả hai đều tìm thầy học đạo” ( Trich truyện Chử Đồng Tử- Tiên Dung trong “ Lĩnh Nam trích quái, Thế kỷ 15). Truyên thuyết này cho biết: Chử Đồng Tử trên đường đi buôn đã ghé vào núi Quỳnh Viên học đạo. Vậy núi Quỳnh Viên ở đâu? Vua Lê Thánh Tông trong một lần xa giá đến vùng Cửa Sót ( tức cửa Nam Giới) nay thuộc huyện Thạch Hà ( Hà Tĩnh), ông có để lại bài thơ vịnh cửa biển này trong đó có câu:
Di miếu mạn truyền kim Vũ Mục
Danh sơn do thuyết cổ Quỳnh Viên
( Dịch nghĩa: Ngôi miếu còn lại ngày nay truyền rằng đó là miếu thờ Vũ Mục. Kể về ngọn núi danh tiếng thì có núi Quỳnh Viên xưa)
Miếu Vũ Mục ở chân núi Nam Giới, thờ Lê Khôi một danh tướng có công lớn trải hai triều vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông. Ông đi đánh Chiêm Thành về qua đây và đột ngột từ trần vào năm 1447. Người ta đã lập đền thờ tại nơi ông mất, gọi là đền Vũ Mục. Còn núi Quỳnh Viên chính là núi Nam Giới. Theo Bùi Dương Lịch, tác giả Nghệ An ký thì : “Núi Nam Giới nằm trên bờ biển xã Dương Luật (nay thuộc huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh). Ngày trước phía nam nước ta giáp nước Chiêm Thành nên gọi là Nam Giới. Mạch đi từ núi Nhật Lệ lại, cao lớn, đẹp đẽ. Nơi cao nhất ở phía đông bắc như trán rồng. Liền ở dưới có một dải sống núi như mũi rồng. Hai bên tả hữu có hai tảng đá tròn như hình mắt rồng. Dưới mũi đột ngột nhô lên một ngọn núi tròn như đầu mũi rồng. Dưới đầu mũi có ao trời rộng độ vài mẫu như miệng rồng, sâu thăm thẳm (. . .) Trên bờ có hai nền nhà. Tục truyền đời Hùng Vương, Chử Đồng Tử và Công chúa Tiên Dung từng tu đạo ở đây, gọi là núi Quỳnh Viên. Lê Thánh Tông Thuần Hoàng Đế tuần du phương nam có câu thơ: “Danh sơn do thuyết cổ Quỳnh Viên” là núi này” (Trích Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch). Đặc biệt , chân núi phía nam có khe Hau Hau nước rất ngọt mát. Thuyền đi sông, đi biển đều ghé lại đây lấy nước. Khi xa giá vua Lê Thánh Tông qua đây, người ta đã lấy nước này dâng lên vua. Điều đó chứng tỏ nước khe này rất nổi tiếng. Điều này cũng phù hợp với truyền thuyết Chử Đồng Tử – -Tiên Dung khi kể rằng, các thuyền buôn qua đây thường ghé lại lấy nước uống.
Từ các tư liệu trong sử sách, liên hệ với truyền thuyết Chử Đồng Tử – -Tiên Dung, chúng ta có thể kết luận rằng, vào thời Hùng Vương, đạo Phật đã được truyền bá vào nước ta, mà một trong những cơ sở đó là núi Nam Giới, nơi biên giới giữa Văn Lang và Chiêm Thành vào thời Hùng Vương .
Cũng cần mở ngoặc thêm một chút ở đây. Trước đây, chúng ta đã xét, ở đời Hùng Vương thứ 7, đạo Phật được truyền vào nước ta, mà địa điểm đầu tiên là ở chùa Thiên Quang, đô thành Phong Châu.Nhưng theo Lĩnh Nam chich quái thì chuyện Chử Đồng Tử - Tiên Dung lại xẩy ra vào đời Hùng Vương thứ 3 và Tiên Dung sống trước Ngọc Hoa đến 15 đời, giữa hai người không hề là chị em gì cả. Và nếu như vậy thì Đạo Phật truyền vào nước ta, đầu tiên ở đời Hùng Vương thứ 3, và Hà Tĩnh là địa điểm đạo Phật du nhập vào đầu tiên, trước miền Bắc rất lâu.
Sơn Tinh – Thủy Tinh tranh hôn
Về chuyện Sơn Tinh- Thủy Tinh, Ngọc phả viết tương đối dài, từ Hùng Tuyền Vương dựng lầu kén rể rồi Sơn Tinh- Thủy Tinh cùng đến thi tài: “Hùng Tuyền vương cả mừng, bèn đặc cách lên xe đến sông Bạch Hạc ngự thí cho hai người. Sơn Tinh đến ngồi ở đầu sông, Thủy Tinh trở về dưới đáy nước. Trong khoảnh khắc bỗng thấy mây mưa nổi lên giữa dòng, mặt sông gió tung bụi cuốn. Đáy biển vang tiếng động ầm ầm, trên không chớp loè loang loáng. Giao long, rùa, cá từng đoàn theo sóng tung lên muôn vạn lớp; kình, ngạc, côn, nghê nuốt muôn sóng ngàn sông. Một bầu trời đất, muôn trũng sóng cuồn. Trong khoảng tranh tối tranh sáng, những ai trông thấy đều phải rụng mật run tim. Sơn Tinh tay trái cầm quyển sách, tay phải cầm cây trượng, miệng niệm thần chú. Tay chỉ vào đâu nơi ấy hiện lên muôn quái nghìn kỳ, thảy đều do trượng đầu vung quét. Một biến một hoá đều là diệu pháp thần cơ, huyền vi khôn lường”. Kết cục không ai thắng ai. Vua Hùng đành phải giao hẹn: “Nay cả hai khanh đều là bậc anh hùng, chưa biết phải thẩm định thế nào cho tiện. Vậy ai đem sính lễ đến trước thì trẫm sẽ gả cho người ấy” (Ngọc phả). Cuối cùng, Sơn Tinh đem sính lễ đến trước được lấy Ngọc Hoa, Thủy Tinh đến sau, đành tức giận bỏ về.
Cũng cần phải nói thêm rằng, các bản Ngọc phả Hùng Vương đều chép Tiên Dung, người lấy Chử Đồng Tử và Ngọc Hoa, người lấy Tản Viên là chị em ruột, con vua Hùng thứ 18. Tuy nhiên, theo một số tài liệu như Lĩnh Nam Chích quái thì Tiên Dung lại sống ở đời Hùng Vương thứ 3, tức trước Ngọc Hoa những 15 đời!

2. Ai xây Loa Thành: Vua Hùng hay vua Thục ?

Chuyện tưởng chừng như không còn phải bàn cãi. Xưa nay, sử sách của ta đều ghi rằng vua Thục An Dương Vương xây thành Cổ Loa. Đại Việt sử ký toàn thư và Lĩnh Nam chích quái đều ghi như thế. Đại Việt sử lược tuy không ghi cụ thể nhưng có câu: “Phán đắp thành ở Việt Thường, hiệu là An Dương Vương”, thì người ta cũng hiểu, thành ở Việt Thường cũng là thành Cổ Loa. Những chi tiết như Rùa Vàng hiện lên bày cho vua cách xây thành, Rùa Vàng rút móng cho vua để chế tạo nỏ thần.v.v… đều được cho là xẩy ra dưới thời vua An Dương Vương. Tuy nhiên, có một tài liệu không cho là như thế. Đó chính là Ngọc phả Hùng Vương. Theo Ngọc phả Hùng Vương thì việc xây thành Cổ Loa, chuyện Rùa Vàng bày cho vua cách xây thành, Rùa Vàng rút móng tặng vua làm lẫy nỏ đều xẩy ra dưới thời Hùng Vương thứ 18, Hùng Tuyền Vương (sử sách của ta thường chép là Hùng Duệ Vương). Ngọc phả chép: “Hùng vương bèn đắp thành ở Việt Thường [  ] rộng nghìn trượng khoanh tròn như hình con ốc, gọi là Loa Thành. Mới đầu thành đắp đến đâu đổ đến đấy. Bỗng thấy một con rùa vàng trên sông từ phía đông bơi đến, xưng là Giang sứ. Hùng vương lấy mâm vàng đặt rùa lên đấy rồi hỏi rùa vì cớ gì mà thành đắp cứ đổ mãi? Rùa vàng đáp:
- Đó là do quỷ hại. Phải trừ tinh khí của nó đi thì thành tự nhiên đắp xong”.Sau đó là chuyện trừ “Tinh gà trắng” và chuyện đắp thành, cũng giống như chuyện Thục An Dương Vương xây thành, chỉ có ở đây các hành động đó đều gắn cho Hùng Tuyền Vương.
Kim Ngọc phả cũng ghi tương tự như thế: “Duệ Vương cùng triều thần trăm quan dóng xe đến xứ Kinh Bắc, xây thành đắp lũy, gọi là thành Cổ Loa, rộng nghìn trượng, xoay tròn như hình trôn ốc. (Nay ở xã Cổ Loa, huyện Đông Ngàn, còn gọi là thành Cổ Loa).
Xưa kia đắp thành gần xong lại đổ, thấy một con Kim Quy nổi trên sông, từ mé Đông lội lại, xưng là Kim Quy giang sứ. Vua lấy kim bàn mời Kim Quy ngồi đó, hỏi rằng: “Ta đắp thành cớ sao lại đổ?”. Giang sứ nói: “Đấy là do lũ quỷ làm hại, phải trừ ngay tinh khí nó đi, thì thành xây tự khắc hoàn chỉnh”.
Phần sau của câu chuyện cũng tương tự như trên.
Thế rồi Tuyền Vương làm theo lời Rùa Vàng, trừ được tinh quỷ (chứ không phải tinh gà trắng như trong chuyện vua Thục sử sách vẫn ghi), quả nhiên, sau nửa tháng thì thành đắp xong. Rùa Vàng bèn từ tạ ra đi. Trước khi đi cũng rút một chiếc móng đưa cho Tuyền Vương để làm lẫy nỏ. “Tuyền Vương bèn sai bề tôi là Cao Lỗ chế nỏ thần, lấy chiếc vuốt thiêng làm máy, đặt tên là “Linh hoa kim trảo thần nỗ”. Sau khi có nỏ thần, Hùng Tuyền Vương thu họp tàn quân, tuyển thêm dân binh, rồi sai người đưa thư cho Tản Viên, nói: “Thục Vương đem binh sang đánh, đã chiếm đô thành của ta, khanh mau đem quân đến cứu viện”. Tản Viên bèn dẫn binh mã thẳng đến Loa Thành, dàn quân đối trận với Thục Vương để khuếch trương thanh thế.

3.Vua Hùng nhường ngôi cho vua  Thục

Tản Viên đem quân dàn trận thế nhưng rồi không đánh Thục mà lại khuyên Vua Hùng nhường ngôi cho vua Thục: “-Họ Hùng hưởng nước kể cũng đã lâu dài. Lòng trời ắt có hạn, khiến cho Thục vương thừa cơ gây hấn xâm lấn nước ta. Vả lại Thục vương vốn là bộ chủ Ai Lao, cũng là dòng phái của tiền hoàng đế. Nay quốc thế không được bình thường, cũng là chuyện do tiền định. Vua có yêu riêng gì một cõi đất phương nam mà cưỡng lại ý trời, làm hại sinh linh? Vả lại bệ hạ và thần đã có phép thần tiên, không gì hơn là quay về chốn Bồng Hồ, Lãng Uyển, tiêu dao ở làng quê bất lão, thanh nhàn nơi gác phượng lầu rồng, há phải nhiễm bẩn bụi trần, vàng ngọc châu báu cũng chẳng bằng mảy lông, ngọc nữ tiên đồng cũng chỉ mát mắt chốc lát. Trí lự như thế mới thật là cao!
Tuyền vương cho là phải. Rồi Tuyền vương sai đưa thư nhường nước cho Thục vương.” (Ngọc phả)
Kim Ngọc phả cũng ghi: “Tản Viên Sơn Thánh can Duệ Vương rằng: “Nhà Hùng hưởng nước lâu dài, ý hẳn lòng trời chiếu có hạn, khiến Thục Vương thừa hấn lại chiếu trung nguyên, nhưng Thục Vương vốn là Bộ chủ Ai lao, cũng là tông phái nhà Hùng. Thế nước chớ nên coi thường, đều do ý của Hiền Vương. Tiếc gì một cõi phương Nam, mà cưỡng ý Trời được chăng! Nếu tự đối địch hại đến sinh linh. Vả nay, bệ hạ cùng tôi, đã có thuật Thần tiên, chẳng gì bằng vườn lặng non bồng, dong chơi trên làng bất lão, lầu rồng gác phượng, tránh sao cái gợn bụi trần. Vàng mười báu lớn, coi nhẹ mảy bông, gái ngọc nàng tiên, nhìn vui hai mắt. Như thế mới là chí khí cao đại”.
Vua nghe theo, từ đấy đưa thư cho Thục Vương, nhường cho trị nước.
Không những nhường nước cho Thục Vương, Hùng Vương còn tặng lại Nỏ Thần “Linh Hoa kim trảo thần nỗ” là báu vật trấn quốc. Ngọc phả chép: “Tuyền vương nhân đó tặng cho Thục vương chiếc nỏ thần, rồi trở về núi Nghĩa Lĩnh cùng với Tản Viên Sơn Tinh biến hoá vào cõi hoá sinh bất diệt”
Kim Ngọc phả cũng chép: “.Thục Vương sai sứ lại tạ, Vua nhân đó trao cho Thục Vương một chiếc nỏ thần. Thục Vương nhận vận Thiên bảo, bái tạ Duệ Vương lên cầm chính nước. Vua bèn quay về núi Nghĩa Lĩnh hẹn với Tản Viên Sơn Tinh, cha con cùng lòng, hóa sinh bất diệt”.
Như vậy thì theo Ngọc phả Hùng Vương, việc xây Loa Thành và chế tạo nỏ thần đều được xây dựng, sáng tạo là sản phẩm của Hùng Vương thứ 18, chứ không phải của vua Thục An Dương Vương. Việc này không chỉ Ngọc phả và Kim Ngọc phả khẳng định mà một số bản Ngọc phả khác mà chúng tôi biết đều khẳng định điều này.
Bản Ngọc phả đền BÌNH NGÔ cũng xác nhận: “Về nỏ thần không phải bắt đầu từ An Dương Vương, mà hai bảo khí kiếm thần, nỏ thần trấn quốc có từ thời Hùng Duệ Vương. Thục Vương khi chiếm giữ đạo Ai Lao đã nhiều lần đem quân đánh Duệ Vương nhưng đều thất bại vì hai bảo khí này của Duệ Vương. Sau khi gả Mỵ Nương cho Sơn Tinh, Duệ Vương đã già, được Sơn Tinh báo vận số họ Hùng đã hết và khuyên nên nhường ngôi cho Thục Vương rồi cùng đi tu tiên bất sinh bất diệt. Duệ Vương bằng lòng nhường nước và truyền lại hai bảo khí kiếm thần, nỏ thần cho Thục Vương” (Theo Phạm Thuận Thành trong bài giới thiệu về bản Ngọc phả đền BÌNH NGÔ đăng ở phần Phụ lục sau).

4. Trọng Thủy hoán đổi lẫy nỏ thần, Triệu Đà thôn tính Âu Lạc.

Về việc Triệu Đà cho Trọng Thủy sang ở rể, Ngọc phả cũng viết khác với các tài liệu xưa nay: “Triệu Đà đóng quân ở núi Tiên Du, Bắc Giang giao chiến với An Vương. An Vương lấy nỏ thần ra bắn, Triệu Đà thua trận bỏ chạy. Đà biết Thục có nỏ thần, không thể đối địch được, bèn cho con là Trọng Thủy vào làm lính hầu (túc vệ) trong cung An Vương. Rồi Trọng Thủy cầu hôn Vương nữ Mỵ Châu. Trọng Thủy dụ Mỵ Châu lấy trộm nỏ thần cho xem rồi tháo đổi cái lẫy khác. Sau đó Thủy về báo cho cha biết. Triệu Đà bèn phát binh đánh An Vương. An Vương không ngờ cái lẫy thiêng đã bị mất, khi ấy đang đánh cờ vây, cười nói: “Đà không sợ nỏ thần sao?”. Quân Triệu Đà vây đến nơi, An Vương lấy nỏ ra bắn, không hiệu nghiệm. An Vương bẻ nỏ vứt đi rồi lui chạy. Thế là cơ đồ họ Hùng mất”. Ở đây chúng ta thấy, lúc đầu Trọng Thủy sang với triều đình An Vương chỉ như một người dân bình thường, chứ không phải tự nhận là con Triệu Đà. Có như thế y mới được nhận làm lính hầu, mới dễ bề hoạt động gián điệp. Còn nếu triều đình An Vương biết Trọng Thủy là con Triệu Đà (tức là con của kẻ đang đối địch) thì có hai khả năng xẩy ra: một là, nếu có ý cầu hòa, An Vương sẽ bố trí cho y một chức vụ cao hơn nhiều trong triều đình để mua chuộc y; hai là, nếu không có ý cầu hòa thì không nhận cho y ở trong cung. Chi tiết này xem ra hợp lý hơn những điều từng ghi chép trong Truyền thuyết Loa Thành hay Lĩnh Nam chích quái.
Xưa nay chúng ta đều quen với chuyện An Dương Vương xây thành Cổ Loa, An Dương Vương được tặng móng rùa, đã sai Cao Lỗ chế nỏ thần. Đây là lần đầu tiên chúng ta được tiếp cận một thông tin khác. Tất nhiên, chúng ta chưa thể khẳng định những hiểu biết xưa nay là sai, hay Ngọc phả Hùng Vương chép sai. Chúng ta chỉ có thể ghi nhận rằng, có một thông tin như thế, một văn bản như thế đã được viết từ thế kỷ 15, thời vua Lê Thánh Tông, để sau này còn tìm hiểu thêm. Tuy nhiên, chúng ta có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng, cho dù Hùng Vương hay Thục Vương thì việc xây Loa Thành và phát minh ra chiếc nỏ là những thành tựu kỹ thuật đỉnh cao của người Việt cổ mà tòa thành kỳ vĩ kia và những mũi tên đồng trong các di chỉ khảo cổ, đặc biệt là kho mũi tên đồng hàng vạn chiếc khai quật được ở Cổ Loa (vào năm 1956) chính là minh chứng .

 

II. ĐỌC NGỌC PHẢ HÙNG VƯƠNG: TIN ĐẾN ĐÂU, NGỜ Ở ĐÂU ?

1. Có lẽ nào các vị vua ngày xưa sống đến 200- 300 tuổi ?
Trước hết, khi tiếp cận Ngọc phả Hùng Vương, chúng ta cần hiểu một vấn đề cốt lõi này: Ngọc phả không phải là lịch sử. Đừng ngây thơ cả tin vào số tuổi đời và số năm trị vì của các vị vua Hùng mà Ngọc phả đã ghi lại. Trên thế giới này, từ xưa đến nay chẳng ai sống đến 200-300 tuổi cả. Ngày nay, điều kiện sống cao hơn xưa nhiều, tuổi bình quân của con người đã lên đến 70- 80 tuổi. Một số người trường thọ thì cũng chưa thấy ai sống quá 130 tuổi. Ngày xưa, điều kiện sống còn khó khăn, thiếu thốn thì tuổi thọ trung bình của người dân còn thấp hơn nhiều. Theo tài liệu nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới cho biết, con người thời cổ đại có tuổi thọ trung bình là 20- 30. Tuổi thọ của người Việt cổ của chúng ta chắc cũng xấp xỉ như thế, tức là chỉ bằng 1/10 số tuổi bình quân ghi trong Ngọc phả.
Vậy thì chúng ta hiểu thế nào về số tuổi và số năm trị vì của các đời vua Hùng?
Vấn đề này phụ thuộc vào việc xác định khung thời gian tồn tại của 18 đời vua Hùng. Tại sao vây? Bởi vì hiện nay vẫn có hai quan điểm về khung thời gian tồn tại của các vua Hùng.
2. Hai quan điểm của giới sử học về thời gian tồn tại của các vua Hùng
Quan điểm thứ nhất cho rằng, 18 đời vua Hùng tồn tại đến 2.622 năm. Căn cứ để tính khung thời gian này là Đại Việt sử ký toàn thư và Ngọc phả Hùng Vương. Nếu lấy 2.622 năm mà chia bình quân cho 18 đời thì trung bình mỗi đời vua là 145 năm. Một số nhà nghiên cứu giải thích rằng, không phải 18 đời vua mà là 18 chi, ngành (thập bát diệp) trong mỗi ngành như vậy có đến mấy ông vua “nối dây” nhau. Vì vậy, tổng số không phải là 18 ông vua trị vì mà có đến 118 ông vua. Như vậy, trung bình mỗi ông vua trị vì cũng chỉ 22 năm, một con số có thể chấp nhận được.
Tuy nhiên, con số 2622 năm trị vì của 18 đời Hùng Vương do Đại Việt sử ký toàn thư và Ngọc phả Hùng Vương đưa ra là không chính xác, không có cơ sở tin cậy. Đây chính là con số do Sử thần Ngô Sỹ Liên đưa ra, côt để cho phù hợp với chi tiết Kinh Dương Vương là “em” của Đế Nghi nên thời gian trị vì phải đồng thời với nhau. Chính trong phần phàm lệ của Đại Việt sử ký toàn thư, Sử gia Ngô Sỹ Liên đã xác nhận điều này: “Kinh Dương Vương là vua bắt đầu được phong của nước Đại Việt, cùng với Đế Nghi đồng thời, cho nên chép năm đầu ngang với năm đầu của Đế Nghi” (Sdd, Nxb Văn hóa – Thông tin, 2003, tr.128). Giải nghĩa ra là, thấy ông anh lên làm vua từ năm 2879 trước Công nguyên thì người em cũng phải lên làm vua từ năm đó cho phù hợp! Đại Việt sử ký toàn thư là bộ sử chính thống của nhà nước, vì vậy, các tài liệu ghi chép khác đều phải theo.
Quan điểm thứ hai cho rằng, thực ra, 18 đời vua Hùng chỉ tồn tại trong hơn 400 năm. Căn cứ để tính khung thời gian này là Đại Việt sử lược (hay còn gọi là Việt sử lược), bộ sử sớm nhất của nước ta. Nguyên văn Đại việt sử lược ghi như sau: “Đời vua Trang Vương nhà Chu (696-682 Tr.CN) ở bộ Gia Ninh có người dị kỳ biết dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, truyền được 18 đời, đều gọi là Hùng Vương”. Nếu lấy niên đại cụ thể này, trừ đi năm Thục Phán được nhường ngôi (258 Tr.CN), thì khung thời gian của 18 đời vua Hùng là trên 400 năm, bình quân mỗi đời vua kéo dài 24 năm, con số này cũng là chấp nhận được.
Đáng chú ý là trong tài liệu này, không hề có chuyện Kinh Dương Vương “sinh” ra Lạc Long Quân và Lạc Long Quân “sinh” ra Hùng Vương mà Hùng Vương là người “kỳ dị” (tức có tài lạ) đã “dùng ảo thuật áp phục các bộ lạc” để tự lập lên làm vua mà thôi.
Hiện nay, đa số các nhà nghiên cứu đồng tình với quan điểm thứ hai. Bởi vì, để hình thành một quốc gia thì đất nước đó, dân tộc đó phải có một trình độ kinh tế – kỹ thuật phát triển đến một mức độ nhất định. Theo kết quả khai quật Khảo cổ học thì cách đây 4.000 năm, chúng ta đang ở thời kỳ Văn hóa Phùng Nguyên, giai đoạn Hậu kỳ Đá mới. Thế mà, để tương ứng với khung thời gian tồn tại 2.622 năm của 18 đời vua Hùng thì đời vua Hùng đầu tiên còn phải xuất hiện trước Văn hóa Phùng Nguyên gần 1.000 năm nữa, tức là cách chúng ta ngày nay gần 5.000 năm. Một niên đại khó có thể chấp nhận! Thời kỳ Hùng Vương phải tương ứng với giai đoạn phát triển kinh tế - kỹ thuật ở trình độ cao: Thời đại đồ đồng, với những trống đồng, thạp đồng, qua đồng, vòng đồng, xuyến đồng  nổi tiếng, tức là tương ứng với nền văn minh Đông Sơn rực rỡ.

3. Về nhân vật Kinh Dương Vương
Khi tìm hiểu về Cổ sử Việt Nam cũng như  Ngọc phả Hùng Vương, điều chúng ta cấn cá nhất đó là nhân vật Kinh Dương Vương. Có hay không nhân vật Kinh Dương Vương, vị vua mở đầu triều đại Hùng Vương?
Như trên đã đề cập, những bộ sử của ta xuất hiện từ thế kỷ 14 như Đại Việt sử lược (khuyết danh) và An Nam chí lược (của Lê Tắc) đều chưa có nhân vật Kinh Dương Vương. Thực ra, nhân vật Kinh Dương Vương  chỉ là cây cầu nối mà các nhà nho, các nhà sử học nước ta ở thế kỷ 15 đã sáng tạo ra để:  
- Nối hệ thống truyền thuyết về thời dựng nước của dân tộc ta với truyền thuyết về nguồn gốc của người Trung Hoa .
- Nối nền Văn minh Việt Thường đã xuất hiện và phát triển ở miền Bắc  Trung Bộ  trước đó với nền văn minh sông Hồng của các Vua Hùng.
Thật vậy, vào cuối Thiên niên kỷ thứ 2, đầu Thiên niên kỷ thứ Nhất trước Công nguyên, trên đất nước ta có hai nền văn minh cùng tồn tại. Nền văn minh sông Lam mà trung tâm là Ngàn Hống, miền Bắc Hà Tĩnh, được sử sách Trung Quốc đề cập đến với tộc danh là Việt Thường thị và nền văn minh sông Hồng, mà trung tâm là vùng Việt Trì, Phú Thọ (lúc đó, khu vực Hà Nội đang là vùng đầm lầy, chưa được khai phá). Nền văn minh sông Lam ở miền Bắc Trung Bộ ra đời trước nền văn minh sông Hồng.
Cần phải nói rằng, từ trước cho đến thế kỷ XV, trong sử sách của ta chưa có một tài liệu nào nói rằng Kinh Dương Vương làm vua Châu Kinh, Châu Dương (bên hồ Động Đình, Trung Quốc) lấy con gái Long Vương mà sinh  ra Lạc Long Quân. Ngay trong bộ Đại Việt sử lược (Thế kỷ 14) của ta cũng chỉ nhắc đến nước Việt Thường mà người Trung Quốc gọi là Khuyết Địa (tức nằm ngoài 9 châu của họ, không chép trong sách Vũ Cống). Thời Việt Thường (ngang với thời Chu Thành Vương 1062-1026 TCN), sau mới đến thời Hùng Vương (ngang với thời Chu Trang Vương 696-682 tr.CN).
Sách An Nam chí lược của Lê Tắc (thế kỷ 14) trong phần Tổng tự cũng ghi: “Qua đời Chu Thành Vương (1115- 1079 tr.CN) họ Việt Thường qua 9 lần thông ngôn, tới cống hiến mà nói rằng: “Trời không có gió bão, không mưa dầm, ngoài biển không nổi sóng dữ đã ba năm nay, có lẽ ở Trung Quốc có đấng thánh nhân trị vì, sao chẳng tới chầu?”
Đặc biệt là trong các thư tịch cổ của người Trung Hoa, chúng ta không hề thấy một dòng nào ghi chép về nhân vật Kinh Dương Vương cả. Có lẽ nào hai anh em ruột, cùng một bố (Đế Nghi và Kinh Dương Vương cùng là con của Đế Minh) mà sử sách của người Tàu lại không ghi gì về người “em” cùng cha khác mẹ là Kinh Dương Vương?
Vào thế kỷ 15, Đại Việt sử ký toàn thưLĩnh Nam chích quái mới gắn Kinh Dương Vương với Lạc Long Quân bằng cách cho Kinh Dương Vương “sinh” ra Lạc Long Quân: “Kinh Dương Vương lấy con gái Long Vương ở hồ Động Đình sinh ra Lạc Long Quân. Kinh Dương Vương về sau không biết đi đâu” (Lĩnh Nam chích quái).
Ra đời vào thế kỷ 15, Ngọc phả Hùng Vương cũng chịu ảnh hưởng của quan điểm (được cho là chính thống) này. Chúng ta không thể tưởng tượng được rằng, Kinh Dương Vương là “anh em” cùng cha khác mẹ với Đế Nghi mà khi đoàn sứ giả của Việt Thường sang tặng rùa thần, chim trĩ cho nhà Chu, lại phải qua 9 lần thông dịch mới hiểu được nhau! Như vậy việc người Việt ta tự nhận là “anh em” với người Tàu như trong Ngọc phả là không đúng. Tuy nhiên, việc có một kinh đô ở vùng Ngàn Hống trước khi có kinh đô Văn Lang thì lại là chính xác, không phải sử ta mà sử Trung Hoa đã  từng ghi chép lại.
4. Những ghi chép về  kinh đô Ngàn Hống là chính xác?
Về vấn đề này, chúng ta không chỉ căn cứ vào ghi chép của Đại Việt sử lược. Trong thư tịch cổ của Trung Hoa từng ghi rằng: “Đời Đào Đường, Nam di có Việt Thường thị qua nhiều lần thông dịch đến hiến một con rùa thần, rùa được nghìn tuổi, rộng hơn ba thước, trên lưng có chữ khoa đẩu, chép việc từ lúc khai thiên lập địa đến nay, vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là quy lịch” (Sách Thông chí do Trịnh Tiêu đời Tống soạn). Sự kiện trên sách Thông giám cương mục của Chu Hi đời Tống soạn ghi là vào năm 2353 Tr.CN. Sách Sử ký Tư Mã Thiên thì ghi rằng: Năm Tân Mão Chu Thành Vương năm thứ 6 (1110 Tr.CN) đất Giao Chỉ ở phía Nam có Việt Thường Thị qua nhiều lần thông dịch đến hiến một con chim trĩ trắng”. Đại Việt sử lược của ta cũng chép sự kiện này và tách bạch hai thời kỳ Việt Thường và Hùng Vương thành hai thời kỳ khác nhau, cách nhau đến 400 năm: “Đến đời Chu Thành Vương, Việt Thường thị mới dâng chim trĩ trắng, sách Xuân thu gọi Việt Thường thị là Khuyết Địa, sách Đái Kỷ gọi là Điêu Đề. Đến đời Trang Vương nhà Chu ở bộ Gia Ninh có một người kỳ dị biết dùng ảo thuật khuất phục các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, gọi là nước Văn Lang, lấy sự thuần chất làm phong tục, buộc dây làm chính sự, truyền được 18 đời, đều xưng là Hùng Vương”. Sách Lâm ấp ký được dẫn lại trong Thủy kinh chú (Thế kỷ 6) của Trung Hoa thì định vị cụ thể:
“ Cửu Đức, cửu di sở cực”: quận Cửu Đức là đất cuối cùng cửa cửu di, cho nên lấy ý ấy để đặt tên quận. Trên đất của quận này thời nhà Chu có nước Việt Thường.
“ Lâm Ấp ký nói: Thời nhà Chu, có nước di Việt Thường là nước xa nhất của “cửu di” nói đến trong Chu lễ. Nước Việt Thường đem chi trĩ trắng và ngà voi, thông qua 9 lần dịch mà đến [thăm/ giao hảo]” (Thủy kinh chú, Lịch Đạo Nguyên)
Như vậy, với hai điều liên tiếp ghi trong cùng một trang:
-Quận Cửu Đức là nơi xa nhất của cửu di.
-Nước Việt Thường là nơi xa nhất của cửu di
Tức nước Việt Thường ở vào vị trí của quận Cửu Đức.  Cửu Đức là tên huyện thời Ngô, tương ứng với vùng bắc Hà Tĩnh ngày nay, nơi có Ngàn Hống (tức núi Hồng Lĩnh). Những ghi chép trên lại hoàn toàn phù hợp với Ngọc phả Hùng Vương, khi cho rằng Kinh Dương Vương vị vua đầu tiên của 18 đời Hùng Vương vốn đóng đô ở Ngàn Hống. Thậm chí, khi đã tìm ra đô mới ở Việt Trì thì ông cũng chỉ cử Hoàng thái tử là Lạc Long Quân ra đô mới, còn ông vẫn ở đô cũ (1) . Về vấn đề Kinh Dương Vương và kinh đô Ngàn Hống, Ngọc phả Hùng Vương và Đại Việt sử lược dường như ghi chép chính xác hơn là sự nhào nặn của Đại Việt sử ký toàn thư, bộ sử chính thống của thời Lê ! Ở đây, nhân vật Kinh Dương Vương lại đóng vai trò chiếc cầu nối, nối thời kỳ Việt Thường thị ở Ngàn Hống trước đó, với thời kỳ Hùng Vương với kinh đô Văn Lang ở Việt Trì sau này !
5. Chuyện hoang đường có khi lại là sự thật
Vậy thì, chúng ta đánh giá Ngọc phả Hùng Vương như thế nào?
Thử lấy chuyên Lạc Long Quân – Âu Cơ (Đời Hùng Vương thứ 2) làm thí dụ. Xưa nay làm gì có chuyện người đẻ ra trứng, mà trứng lại nở ra con, không phải một, hai con mà những 100 con một lúc? Thật là chuyện hoang đường, quái đản. Tuy nhiên, nếu chúng ta đặt vào bối cảnh lúc bấy giờ, đất rộng, người thưa, lên rừng, xuống biển đều gặp những loài thú dữ hại người, mỗi bước đi con người đều gặp hiểm nguy. Trong hoàn cảnh đó, người ta  mong muốn giống nòi sinh sôi nẩy nở thật nhiều, thật nhanh, càng đông đúc  càng tốt (Đã từng có rất nhiều lễ hội phồn thực ở nhiều địa phương, mà mục đích duy nhất là thúc đẩy nòi giống phát triển nhanh). Vậy thì việc sinh 100 con trai đâu phải là sự thật mà chỉ phản ánh một sự thật, đó là khát vọng nòi giống sinh sôi nẩy nở của tổ tiên ta mà thôi.
Hay thử lấy Truyện Thánh Gióng mà xét. Rõ ràng là một câu chuyện hết sức hoang đường. Một đứa trẻ lên 3 tuổi làm sao có thể đi đánh giặc đươc? Người lớn ở đâu mà một sự nghiệp to lớn, hệ trọng như đánh giặc ngoại xâm, lại được thực hiện bởi một đứa trẻ lên 3.Thực ra thì đây là cách nói cường điệu, ngoa ngôn  của dân gian. Tổ tiên chúng ta từ xưa đã sống, đã tồn tại bên cạnh một quốc gia khổng lồ, gấp 10 lần chúng ta, lại luôn luôn thường trực trong đầu ý thức “nuốt gọn” các nước láng giềng nhỏ bé bên cạnh mình để mở rộng lãnh thổ (mà thực tế lịch sử, Trung Quốc đã “nuốt gọn” rất nhiều quốc gia láng giềng để mở rộng lãnh thổ như ngày nay). Vì vậy, Tổ tiên ta luôn luôn thường trực ý thức đề cao cảnh giác, ý chí chống ngoại xâm. “Phá tặc đãn hiềm tam tuế vãn” (Phá giặc lên 3 hiềm vẫn muộn. Thơ Cao Bá Quát). Khi giặc đến nhà thì đến đứa trẻ cũng mong cao lớn vượt bậc để mà đánh giặc. Đó chính là ý nghĩa của truyền thuyết Thánh Gióng. Vậy thì truyền thuyết Thánh Gióng bắt nguồn từ cái gốc của lịch sử. Cái gốc đó là, ý thức thường trực trong đầu của dân tộc ta về một sự lớn mạnh vượt bậc để chống lại giặc ngoại xâm.
Chúng ta không thể đòi hỏi Ngọc phả phải chính xác như sự thật lịch sử. Nhưng trong Ngọc phả có bóng dáng của lịch sử mà ta cần tìm hiểu. Ngọc phả là tâm linh, tình cảm, là khát vọng tìm hiểu của ông cha ta xưa về cội nguồn dân tộc. Và, như nhận định của GS Ngô Đức Thọ sau khi dịch xong  văn bản quý báu này: “Đọc Ngọc phả Hùng Vương chúng ta bước vào thế giới của những huyền tích kỳ vĩ không chỉ liên quan đến thời kỳ lập quốc dựng nước mà còn xa hơn nữa đến cội nguồn dân tộc. Các địa danh, nhân danh trong Hùng Vương Ngọc phả sử sách đã viết nhiều, bàn nhiều nhưng hầu như cũng chưa vén được bao nhiêu lớp sương mù ngàn năm. Vì vậy, dịch xong Hùng Vương Ngọc phả, người dịch nhận ra rằng, ở đây không có ngôn ngữ cho người chú thích, khảo chứng để chứng minh những gì không đúng với lịch sử như chúng ta biết ngày nay. Thay vào đó, trong cuộc đi như hành trình của chàng Ô đi xê đi tìm dân tộc mình, rải rác ta có thể nhận ra những điều tưởng như hoang đường lại được xác nhận ở một nguồn tin độc lập nào đó” (Lời người dịch).
Ngọc phả Hùng Vương còn bỏ qua (hoặc là bỏ sót) một số sự kiện về thời đại Hùng Vương mà một số sách khác (xuất hiện cùng thời) có ghi chép lại. Ví dụ như các câu chuyện về Sự tích Trầu Cau, Sự tích Mai An Tiêm, Sự tích bánh chưng, bánh dày, Truyện Ngư tinh, Hồ tinh, Mộc tinh… những câu chuyện rất hay, rất có ý nghĩa về một thời mở nước mà đáng lẽ không nên bỏ sót.
Và cuối cùng, Ngọc phả không phải là lịch sử nhưng qua đó chúng ta có thể tìm thấy ánh hồi quang của lịch sử. Hãy đọc, suy ngẫm và tìm hiểu về Ngọc phả Hùng Vương, chúng ta có thể tìm ra được bóng dáng của lịch sử, những điều tưởng chừng như hoang đường có khi lại là sự thật. Đó chính là kỳ  vọng của chúng tôi khi biên tập, xuất bản cuốn sách này !
Hà Nội, tháng 12.2011 – tháng 12.2015
PHAN DUY KHA
.
Chú thích (1) : Không chỉ Ngọc phả Hùng Vương mà nhiều đền miếu ở vùng Đất Tổ Hùng Vương vẫn còn lưu lại những câu đối ghi nhận về một cựu đô thành ở Hoan Châu  (Nghệ Tĩnh) trước kinh đô Văn Lang của vua Hùng. Xin ghi lại một số cặp câu đối trong số đó :
- Hoan Châu thắng địa kiến lập đô thành
Nghĩa Lĩnh hình cường trùng tu miếu điện 
(Dịch nghĩa: Hoan Châu cảnh đẹp xây dựng đô thành/ Nghĩa Lĩnh hình oai sửa sang miếu điện)
- Khâm đế mệnh, trấn hoàng châu, Thứu Lĩnh thiên thu diễn phái
Hộ dân sinh, phù quốc vận, Bồ Sơn vạn cổ minh công
(Dịch nghĩa: Vâng mệnh vua giữ trấn, Thứu Lĩnh nghìn thu nối dõi/ Phò vận nước giúp dân sinh, Bồ Sơn muôn thuở thi công). Thứu Lĩnh: Hùng Bảo Thứu Lĩnh, tức Ngàn Hống, xem Ngọc phả, phần Kinh Dương Vương. (Theo Việt Nam thần thoại và truyền thuyết, Bùi Văn Nguyên, Nxb Khoa học Xã hội, 1993)



PHẦN PHỤ LỤC :

MỘT SỐ BẢN NGỌC PHẢ HÙNG VƯƠNG KHÁC
*
1. THƯ TỊCH NGỌC PHẢ, THẦN TÍCH VÀ VẤN ĐỀ LỊCH SỬ THỜI HÙNG VƯƠNG
Thời đại Hùng Vương là buổi bình minh của dân tộc Việt Nam với nền nông nghiệp lúa nước, với kỹ thuật chế tác gốm và đồng ở trình độ cao, với một nhà nước sơ khai là hình thức chính quyền đầu tiên của dân tộc, đó là nhà nước Văn Lang của triều nhà Hùng do các "Vua Hùng" hay dòng họ thủ lĩnh Đại liên minh bộ lạc Văn Lang quản lý đất nước.
Để có thể có những thông tin cần thiết về sự tồn tại của nhà nước Văn Lang, của triều nhà Hùng, người ta đã dựa vào nhiều nguồn tư liệu: dân tộc học, khảo cổ học, phong tục học... nhưng các tư liệu này chỉ có thể cung cấp những tín hiệu, những dữ liệu về xã hội học, về trình độ văn hóa và kỹ thuật v.v. của thời kỳ được gọi là "dựng nước"; còn những vấn đề cơ bản như: nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng tồn tại bao nhiêu thế hệ vương triều, thể chế của vương triều Hùng, nguồn gốc của dòng nhà Hùng và triều Hùng Vương, thủ đô nước Văn Lang là ở đâu v.v... Tất cả những vấn đề này là đối tượng nghiên cứu của sử học.
Các nhà sử học thời phong kiến đã dựa vào và tất yếu chỉ có thể dựa vào hai nguồn tư liệu: các truyền thuyết thần thoại về thời các Vua Hùng và các ngọc phả, thần tích được lưu giữ ở các đền miếu.
Nguồn truyền thuyết thần thoại cũng phản ánh lịch sử nhưng là phản ánh lịch sử qua tư duy thần thoại và được phổ biến bằng phương thức truyền miệng, do đó chỉ có thể coi là hồi quang lịch sử, là tư liệu tham khảo có điều hóa và mỹ hóa các nhân vật cũng như các sự kiện. Nguồn tư liệu văn bản chủ yếu để các nhà soạn sử thời phong kiến cũng như các nhà nghiên cứu lịch sử hiện nay dựa vào là các ngọc phả, thần tích chép về các Vua Hùng và các nhân vật thời Hùng Vương. Văn bản chép về các Vua Hùng được gọi là ngọc phả, còn các văn bản chép về các nhân vật khác như Tản Viên sơn thánh, Chử Đồng Tử, Thánh Gióng, Tiên Dung v.v...và các Lạc hầu Lạc tướng được gọi là thần tích. Các văn bản này được soạn bằng Hán văn. Vào khoảng đầu thế kỷ này, nhiều ngọc phả và thần tích đã được dịch sang chữ quốc ngữ.
Những ngọc phả chính được biết là các văn bản sau:
1- "Nam Việt Hùng Vương ngọc phả vĩnh truyền", còn gọi là Cổ Việt Hùng thị thập bát thế thánh vương ngọc phả cổ truyền, soạn năm Thiên Phúc nguyên niên (986 - Lê Đại Hành), bản sao vào triều Khải Định năm thứ 4 (1919), Kỷ Mùi, tháng 6, ngày 25.
2 - Hùng Vương ngọc phả thập bát thế truyền, soạn năm Hồng Đức nguyên niên (1470 - Lê Thánh Tông): " Hồng Đức nguyên niên, Nhâm Thìn xuân tam nguyệt cốc đán, Hàn lâm viện Trực học sĩ Nguyên Cố phụng soạn", năm Hoằng Định nguyên niên (1619- Lê Kính Tông) sao lại: Hoàng triều Hoằng Định Nguyên niên, Cánh tý đông thập nguyệt cát nhật, Hàn lâm thị độc Nguyễn Trọng trùng đính, Lễ phiên Lê Đình Hoan thừa sao".
3 - Hùng Vương sự tích ngọc phả cổ truyền, Hàn lâm học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572 - Lê Anh Tông).
Như vậy bản ngọc phả soạn năm Thiên phúc nguyên niên (986) là bản cổ nhất và có lẽ cũng là bản ngọc phả đầu tiên mà sự tích các Vua Hùng được soạn thành văn bản. Bản thứ 2 là bản Hồng Đức nguyên niên (1470) và bản thứ 3 là Hồng Phúc nguyên niên (1572). Đây có thể coi là 3 bản ngọc iphả chính để tìm hiểu về thời đại Hùng Vương, ngoài ra còn phải tham khảo thần tích các nhân vật thời Hùng trong đó quan trọng hơn cả là các thần tích Tản Viên sơn thánh.
Trong thời gian từ 1968 đến 1971, khi về các xã sưu tầm truyền thuyết Hùng Vương, khi hỏi đến các ngọc phả và thần tích, chúng tôi được các cụ từ 70 tuổi trở lên cho biết: Bằng Đắng là nơi còn lưu giữ nhiều bản của loại thư tịch đặc biệt này. Bằng Đắng thuộc xã Bình Đảng, huyện Bạch Hạc, phủ Tam Đái trấn Sơn Tây thời Nguyễn: thời Pháp thuộc huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên; nay là thôn Cao Bình xã Cao Đại, huyện Vĩnh Tường(Vĩnh Phú). Xưa kia, xã nào thiếu mất thần tích thường đến Bằng Đắng để xin sao chép.
Gần đây tôi được đọc Tạp chí Hán Nôm (Viện Hán Nôm thì thấy có bài của ông Nguyễn Hữu Mùi (Số 1 và 3 - 1995) và ông Hoàng Lê (số 3 - 1995) có bàn về vấn đề thần tích ở Bằng Đắng, càng chứng tỏ rằng lời các cụ nói với chúng tôi trước đây là có cơ sở. Nay ở Bằng Đắng không còn giữ được các thần tích này nữa mà đã chuyển về Đền Hùng, nên hiện nay ngọc phả Hùng Vương và các thần tích triều Hùng hiện được cất giữ ở Nhà bảo tàng Hùng Vương (Đền Hùng) và Nhà bảo tàng vỉnh Vĩnh Phú, phần lớn là có sự đóng góp của các bản ở Bằng Đắng nói trên.
Bản Thiên phúc có một giá tri đặc biệt vì đã cung cấp những tư liệu giúp giải mã những nghi vấn khi tìm hiểu về thời kỳ lịch sử Hùng Vương, đó là triều đại nhà Hùng kéo dài 2650 năm mà lại được truyền kể và cả ghi chép trong nhiều tư liệu thành văn là 18 đời vua. Bản Thiên Phúc chép là 18 chi,"thập bát diệp" và chép về từng chi theo thứ tự ngôi xin dẫn 1 chi cuối như dưới đây:
Hùng Duệ Vương húy là Huệ Đức Lang, làm vua 115 năm thọ 227 tuổi, mệnh Canh Thân, sinh ngày mồng 3 tháng 3, mất ngày 5 tháng5, hóa sinh cùng với rể hiền là đức thánh Tản Viên Sơn cùng ban ngày lên thượng điện trời thành tiên hóa sinh bất diệt, tung tích muôn đời làm thánh vương. Thiên Vương rất thiêng, đứng đầu thượng đẳng bách thần, truyền 4 người con, trước truyền ngôi cho con trưởng là Kính Vương, trị vì được 6 năm. Kính Vương mất, sau truyền ngôi cho con thứ là Cảnh Lang trị nước được 10 năm thì mất, sau lại truyền cháu hiền ở ngôi đước 3 năm lại mất. Duệ Vương lại truyền ngôi cho rể hiền là đức Tản Viên lên cầm quyền chính giữ ngôi vua thay mệnh vua cha cầm quyền chế tác, bình trị thiên hạ trong khoảng 10 năm". Như vậy, mọt đời Hùng Duệ Vương đã có 5 đời vua đề là Hùng Duệ.
Về việc nhường ngôi báu cho Thục An Dương Vương, ngọc phả chép cũng vào đoạn văn trên: "Cha con cùng lòng mong muốn thành thượng tiên, hiểu biết đạo pháp thần thông hưởng thiên tiên muôn đời bất diệt, bèn nhường ngôi cho Thục Dương Vương là hoàng tôn dòng Hùng Vương, trước kia là tông phái của Hoàng đế và là cháu thứ 19 của bộ chủ phụ đạo vậy".
Đoạn kết tóm lại: "Dĩ thượng Hùng đồ thập bát diệp, tỉ phù truyền ư thái bảo, nhất bách thập bát đại đế vương tốn vị nhất thống sơn hà" (18 nhành nhà Hùng, ngọc tỉ và ấn tín truyền quyền đại bảo trong khoảng 180 đợt nhường ngôi đế vương một mối non sông, xa thư trị nước). Tiếp theo là những dòng cuối: "Phàm thánh vương 18 đời...". Như vậy "đời" đây không phải là một đời vua (một người ở ngôi vua) mà là 18 triều vua nối tiếp nhau, mỗi triều có nhiều vua, vì nhà Hùng mỗi chi hay nhành là một triều đại, mà mỗi triều đại chỉ lấy một vương hiệu, nên nói "Hùng đồ thập bát diệp" rồi nói "thập bát thế".
Về vấn đè 18 đời Hùng Vương tôi đã dựa trên bản Thiên Phúc để phát biểu ý kiến in trên báo Giáo dục và thời đại số 14 (1-4-1995) với tựa đề "Góp bàn về 18 đời Hùng Vương".
Bản Hồng Phúc cũng chép việc Kinh Dương Vương lập đô ở Hoan Châu rồi tìm về Nghĩa Lĩnh - Bạch Hạc dựng đô chính thức cho nước Văn Lang v.v..., giá trị của bản Hồng Phúc là có nhiều nội dung chép suốt từ Kinh Dươg Vương tới 18 triều nhà Hùng, sự tích Sơn Tinh - Thủy Tinh tranh hôn, cuộc chiến tranh Hùng Thục, cho tới Triệu Đà cướp Âu Lạc, và đến cả thời kỳ Hai Bà Trưng khởi nghĩa lật đổ ách thống trị nhà Đông Hán.
Giáo sư Búi Văn Nguyên đã dựa vào thư tịch ngọc phả để viết bài nghiên cứu: "Tiến trình xây dựng địa bàn Tổ quốc từ xa xưa qua một số truyền thuyết và thư tịch thời Hùng Vương" (Tập san Đại học Sư phàm, số 2-1974) nói lên quá trình kiến lập kinh đô Văn Lang từ 99 ngọn Hồng Lĩnh tới Nghĩa Lĩnh, cũng như bước phát triển lịch sử thời Hùng Vương.
Nghiên cứu về thời kỳ lịch sử Hùng Vương qua ngọc phả và thần tích có 2 vấn đề cần bàn trong sử dụng, giới thiệu và xử lý tư liệu, đó là tính hoang đường kỳ ảo của các sự kiện và nhân vật và yếu tố ngoại lai của nguồn gốc triều nhà Hùng.
Về tính hoang đường của các ngọc phả, thần tích cũng không có gì là khó hiểu vì đây là "thần tích", là sự tích về "thần" mà đã là thần là phải có tính thiêng điềm lạ cùng những yếu tố kỳ ảo. Các nhân vật lịch sử được thờ ở đình miếu đều ít nhiều được thần hóa cũng như các thần là lực lượng tự nhiên được lịch sử hóa, đó là đặc điểm tín ngưỡng và là sáng tạo hình tượng theo tư duy thần thoại của nhân dân. Đối với các nhà nghiên cứu, ở đây không có vấn đề phải bàn, nhưng khi công bố một bản thần tích ra với đông đảo bạn đọc phổ thông, cần thận trọng có những lời bình chú để lường trước phản ứng: cho là đưa ra những chuyện mê tín dị đoan, đi đôi với sự hạ thấp nhân vật lịch sử vì dễ tạo sự nghi ngờ với những hư cấu khó được chấp nhận. Một điển hình loại này là bản ngọc phả Hồng Đức với sự xuất hiện của tứ vị thiên vương cho 100 trứng, bát bộ Kim Cương mang sắc lệnh của phật cho 100 con trai, tiên ông mang mũ nhà Phật đặt tên v.v..
Một vấn đề cũng cần được cân nhắc khi giới thiệu ngọc phả, thần tích về triều Hùng dó là phần mở đầu với câu chuyện Viêm Đế Thần Nông cho con trưởng Đế Nghi nối ngôi cai trị phương Bắc là Trung Quốc. Còn Lộc Tục là em cai trị phương Nam, động Xích Quỷ - tức Giao Chỉ. Cái nguồn gốc này được chép ở nhiều ngọc phả, thần tích đã gây không ít phân vân và tranh cãi.
Trong những trường hợp này, chúng ta nhìn nhận vấ đề này như thế nào?
Theo chúng tôi, trước hết về nguyên tắc, văn bản ngọc phả, thần tích phải được sao chép đúng nguyên tác, nguyên bản không được sửa, được lược, được viết sai từ để gìn giữ ở các cơ quan chức năng và để phục vụ cho yêu cầu nghiên cứu nhưng khi giới thiệu trên các sách báo cần nhìn nhận đối tượng bạn đọc. Nếu là đông đảo bạn đọc phổ thông, là học sinh trung học, là những người không có yêu cầu nghiên cứu v.v. thì cần xử lý tư liệu theo 2 cách: một là in cả phần nguồn gốc này nhưng phải có lời diễn giải của người sưu tầm hay người biên tập, hai là lược bỏ nguyên đoạn chứ không lược nửa vời và cũng nhất thiết phải có lời Ban biên tập cho biết có lược hay tạm lược với lý do (1) v.v.
Chú thích:
1. Niên đại các bản Thần tích, Ngọc phả là một vấn đề còn phải nghiên cứu thêm. Tác giả tham luận chưa nói rõ nơi tàng trữ văn bản cũng như xuất xứ các bản dịch. Chúng tôi tạm bằng lòng với tham luận hiện có (B.B.T)
                                                    Thông báo Hán Nôm học 1995 ( tr.461-467)
                                                                                        Nguyễn Khắc Xương
*

2. PHÁT HIỆN BẢN NGỌC PHẢ CỔ NHẤT

Việc tìm ra Nam Việt Hùng vương ngọc phả vĩnh truyền được viết từ thời Tiền Lê tại đền Vân Luông (thuộc xã Vân Phù) nằm trong khu di tích Đền Hùng đã khẳng định lại một lần nữa thân thế sự nghiệp của 18 chi đế vương được người đời kính trọng và tôn thờ.

Điều đáng tiếc là nhóm phóng viên Health+ đã không được tận mắt nhìn thấy ngọc phả viết trên giấy gió được cất giữ trong ngôi đền cổ. “Từ ngày biết được giá trị của những “tờ giấy” gió gập đôi, chữ viết hai mặt trước sau vốn được cất giữ cẩn trọng tại nơi trang trọng nhất của đền, chính quyền địa phương và ông từ của đền càng thận trọng hơn trong việc nói đến ngọc phả hơn 1.000 năm tuổi này”, nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Đài - người có công lớn trong việc tìm kiếm, dịch cũng như sắp xếp lại các trang ngọc phả nguyên bản - cho biết.
Ngọc phả cổ nhất Việt Nam
Nội dung ngọc phả nói về họ Hồng Bàng (họ vua Hùng), sử ký Việt Nam, ghi chép danh vị các vị vua Hùng được thờ cúng, trong đó viết từ chi đầu đến chi cuối, theo thứ tự. Mỗi vị vua có tên thường gọi, tên húy, tên thụy, tên mỹ tự truy phong, ngày sinh, ngày mất, số năm trị vì, tuổi thọ, vợ con, cháu chắt…
Nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Đài
“Nam Việt Hùng vương ngọc phả vĩnh truyền miêu duệ tôn điệt ức vạn niên hương hỏa tự điển truy sùng” là tên chính thức của Ngọc phả viết bằng chữ Hán được tìm thấy tại đền Vân Luông. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Đài, từ những thông tin trên ngọc phả cho thấy, bản ngọc phả Hùng Vương này được viết vào năm Thiên Phúc đầu tiên, tháng Giêng, ngày 25 thuộc thời vua Lê Đại Hành (dương lịch là năm 980, cách đây 1035 năm). Đây là bản ngọc phả cổ nhất về thờ cúng Hùng Vương. 
“Bản Ngọc phả đã ghi rõ 18 chi Hùng Vương, liên quan trực tiếp đến bài vị giúp ta biết Vua Hùng nào là thần chủ trong đền, miếu thờ để xin ngài phù hộ cho cuộc sống”, nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Đài cho biết.
Theo phân tích của các nhà nghiên cứu, trong đó có Giáo sư Vũ Khiêu, giá trị của ngọc phả Nam Việt Hùng Vương ngọc phả vĩnh truyền là di sản
văn hóa phi vật thể vô cùng độc đáo thắp sáng tình cảm và nhận thức tổ tiên rực rỡ, hùng cường, khẳng định “Nam quốc sơn hà nam đế cư/Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”, làm sâu sắc và phong phú tín ngưỡng thờ cúng Hùng vương là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Ngọc phả thờ cúng Hùng Vương ra đời trong thời kỳ vận nước “đổi gió”. Năm 980, sau hơn 1.000 năm đô hộ Bắc thuộc, nước ta giành được độc lập với sự lên ngôi hoàng đế của Đinh Tiên Hoàng. Năm Thiên Phúc đầu tiên, Lê Đại Hành cho viết Nam Việt Hùng Vương ngọc phả vĩnh truyền, chỉ ra 18 đời Vua Hùng đã làm bừng lên trong tâm thức người Việt các thời đại sự tự hào dân tộc, về nền độc lập dân tộc của nước nhà. Tâm thức ấy trải mãi theo dòng lịch sự, như tiếp sức cho mọi thế hệ dân tộc chống lại quân xâm lược. Cũng tâm thức ấy, việc nước Nam Việt hoàn toàn độc lập là lẽ tự nhiên của đất trời, của tạo hóa, như muôn quy luật của tự nhiên vậy.
Khác với những bản ngọc phả được tìm thấy và lưu truyền trước đó, Nam Việt Hùng Vương ngọc phả vĩnh truyền là bản ngọc phả dành cho việc thờ cúng nên ghi chép danh vị (tên thường gọi, tên húy, tên thụy và tên mỹ tự truy phong) từng chi, chỉ nêu người vua đầu tiên. Bản ngọc phả này góp phần làm sáng tỏ lịch sử cội nguồn. Trước đó, nhiều thế hệ tưởng rằng, 18 đời Vua Hùng bao gồm cả Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân. Nhưng thực tế, Nam Việt Hùng Vương ngọc phả vĩnh truyền cho thấy, 18 đời Vua Hùng không bao gồm Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân, mà chỉ tính từ Hùng Quốc Vương (Cấn chi, người con đầu của Lạc Long Quân và Âu Cơ).
Núi Nghĩa Lĩnh và một góc “nhìn” mới
Cùng với nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Đài, chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình “thăm lại” Đền Hùng. Về bố cục kiến trúc đền chùa trên núi Nghĩa Lĩnh theo lối Tiền Phật hậu Thánh. Thánh ở địa hình cao nhất và được phân nền cấp khác nhau: Đền Hạ, Đền Trung, Đền Thượng, đều có bài vị thờ. 
Đền Trung hay còn gọi là “Hùng Vương Tổ miếu” – là nơi phát tích đầu tiên có 3 ngai thờ có bài vị. Ngai giữa bài vị ghi: “Đột ngột cao sơn cổ Việt Hùng thị thập bát thế thánh vương vị”. Trước đó, nhiều người cho rằng, đó là thờ 18 đời Vua Hùng. Nhưng khi đối chiếu lại với Nam Việt Hùng Vương ngọc phả vĩnh truyền thì bài vị đó thờ Hùng Quốc Vương – vị Vua đầu tiên của nước Văn Lang, con trai trưởng của Lạc Long Quân, người anh cả của bọc trăm trứng. Ngai bên trái ghi “Viễn Sơn thánh vương vị” là thờ Hùng Nghi Vương, con trai trưởng của Hùng Quốc Vương. Ngai bên phải ghi “Ất Sơn thánh vương vị” thờ Hùng Huy Vương - con trai trưởng của Hùng Nghi Vương. “Nếu không có ngọc phả cổ này, có lẽ, chúng ta sẽ còn chưa chấm dứt được sự nhầm lẫn kéo dài trong việc cúng tế các thánh vương ở Đền Trung. Nói tâm linh một chút thì nếu không “kêu đúng tên, cầu đúng người” thì chưa chắc các ngài đã về nhận lễ mà chứng cho vậy”, nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Đài nói.
Tương tự Đền Trung, cấu trúc thờ tự Đền Thượng có 4 ngai, 3 ngai có bài vị xếp hàng chữ nhất ở vị trí cao, hướng về phía Nam, trong đó có ngai giữa có 34 chữ mỹ tự: “Đột ngột cao sơn hiển hùng ngao thống thủy hoằng tế chiếu liệt ứng thuận phả hộ thần minh thọ quyết ứng quảng huệ y diễn vệ hàm công Thánh vương vị”. Ngai bên trái và bên phải có 5 chữ mỹ tự: “Viễn Sơn Thánh vương vị”, “Ất sơn thánh vương vị”. Đây là tục thờ thần núi (Thiên thần) và thờ Hùng vương (Nhân thần). Đó là 3 quả núi: Núi Hùng, núi Văn, núi Trọc mà nhân gian gọi là “Tam sơn cấm địa” và tam vị thánh vương, đứng đầu 18 đời Vua Hùng: Hùng Quốc vương, Hùng Nghi vương – con vua Hùng, Hùng Huy Vương – cháu vua Hùng. Chính vì vậy, trong đền có đại tự “Triệu cơ vương tích” - dấu vết nền móng của vua. Mặt trước đền có 4 chữ đại tự Nam Việt triệu tổ - Tổ mở đầu nước Nam
Ngai thứ 4 nhỏ hơn, không bài vị, bố trí thấp hơn ngai trên, tọa ở góc hướng Đông Nam, hướng tới nơi hội tụ nguồn nước ngã ba sông – tụ thủy như tụ nhân, là tụ phúc, làm ăn thịnh vượng - là bàn thờ Mẫu, nhưng là mẫu chung thời nguyên thủy thị tộc, gắn với chế độ mẫu quyền. Sự dung hợp tuyệt vời thờ thần núi gắn liền với thờ Mẫu và thờ người có công dựng nước đã thiêng liêng hóa Vua Hùng và người mẹ qua thần linh. Sự thiêng liêng hóa ấy với mục đích cuối cùng là nêu cao đạo lý uống nước nhớ nguồn, là nền tảng của đạo đức và tín ngưỡng Việt Nam, sự dung hợp tài tình ấy, mỗi khi thắp hương trước bàn thờ Tổ cả nước như ta nghe thấy tiếng đồng vọng kỳ lạ của quá khứ sáng trong tim niềm tin thiêng liêng cao cả.
Hùng Vương lăng nằm ở phía trái Đền Thượng, nhìn ra ngã ba sông, được cho là mộ của vua Hùng đời thứ 6. Tuy nhiên, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Đài, Hùng Vương Lăng chỉ là một biểu tượng và là nơi thờ chung cho tam vị thánh vương đứng đầu của 18 đời Vua Hùng.
Cũng theo nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Đài, nhiều năm trước, trong thời gian trùng tu Hùng Vương lăng, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra một đôi cột đá đẹp, cao 1m2 với nhiều ký tự và chữ viết được đặt trước lăng. Mất nhiều năm nghiên cứu, cộng với những phát hiện mới về những đôi cột đá tương tự như vậy ở các khu thờ tự khác, ông mới phát hiện ra đó là hoa biểu – hay còn gọi là dấu tích của vua. Chỉ có những khu mộ dành cho vua hoặc cho những người trong hoàng tộc mới được đặt đôi hoa biểu này. Những văn tự ghi trên đó thế nào không rõ, nhưng hiện nay, đôi hoa biểu của Hùng Vương lăng được đặt chìm, chỉ hở ra đôi hàng chữ ghi khắc năm trùng tu thời Nguyễn.
Kết
Sau chuyến “thăm” Đền Hùng với nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Đài, chúng tôi còn dành một buổi thăm toàn thể khu di tích Đền Hùng với Đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân dưới chân núi Sim (Có một sự trùng hợp ngẫu nhiên là năm khởi công xây dựng đền thờ, đỉnh núi Sim phát lộ một đầu rồng hướng lên trời xanh, khiến không ít người tin rằng, nó thể hiện sự thương nhớ, hướng vọng về nơi đất mẹ, nơi Mẹ Âu Cơ cùng 50 người con trai sinh sống), Đền thờ Quốc Mẫu Âu Cơ trên đỉnh Ốc Sơn (Tượng Mẫu hướng về ngã ba sông, nhìn bao quát khắp trăm miền như mắt mẹ hướng về muôn người con phương xa để chăm sóc, bao bọc, trở che...) và tam đền Hạ, Trung, Thượng trên đỉnh Nghĩa Lĩnh với những câu chuyện kể muôn đời tượng trưng cho sức mạnh ngàn đời của toàn dân tộc. Câu chuyện của người hướng dẫn viên có khác, nhưng vẫn hàm chứa nhiều ý nghĩa của nơi chốn linh thiêng. 
Chợt nghĩ, chuyện về vua cha, mẫu mẹ và những người con trên khắp miền tổ quốc, dù theo cách giải nghĩa nào, vẫn là những tranh luận khó có lời giải chính xác. Điều quan trọng, đó là chốn thiêng, những di sản văn hóa, là mạch quốc thống, là niềm tự hào, lòng yêu nước đời đời cho con cháu noi theo.
                                             Nguồn: Health+ (Nhóm phóng viên Health+)
*
3. NGỌC PHẢ ĐỀN BÌNH NGÔ Ở THUẬN THÀNH, BẮC NINH
Tại một ngôi đền ở Bắc Ninh, hiện có cuốn ngọc phả ẩn chứa nhiều thông tin mới về tổ tiên ta trong thời đại Hùng Vương. Tác giả Phạm Thuận Thành là người địa phương đã dịch và giới thiệu cuốn ngọc phả này. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc và mong nhận được ý kiến của các học giả, nhà nghiên cứu, bạn đọc bổ sung, làm rõ vấn đề này...
Đền Bình Ngô (An Bình, Thuận Thành, Bắc Ninh) thờ 18 đời Hùng Vương là di tích quan trọng đã được xếp hạng quốc gia. Bản ngọc phả (thần phả, thần tích) dài 5.412 chữ Hán do Dưỡng Trai Nguyễn Tá Chính soạn thời Tự Đức còn truyền lại đến ngày nay. Nội dung bản Ngọc phả Bình Ngô này có nhiều thông tin mới về thời Hùng Vương, thời kỳ nhà sử học Ngô Sĩ Liên phụng mệnh vua Lê Thánh Tông soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư đã đưa dã sử vào phần Ngoại kỷ để lịch sử dân tộc thống nhất, liên tục từ thời cổ đến thời Lê (khi soạn sách, gọi là Bản kỷ). Về người soạn ngọc phả, Dưỡng Trai Nguyễn Tá Chính là nhà khoa bảng danh tiếng, đỗ Hoàng giáp khoa thi 1844 thời Thiệu Trị, làm quan đốc học Hải Dương. Ngoài bản Ngọc phả Bình Ngô, ông còn lại tác phẩm là Văn bia chùa Trấn Quốc bên bờ Hồ Tây (Hà Nội). Ông người làng Bình Ngô, là người đức độ, quan tâm đến văn hóa phong tục quê hương, còn được dân truyền tụng nhiều câu chuyện đẹp về lối hành xử lễ nghĩa. Ông còn con cháu ở quê Bình Ngô và học hành thành đạt. Về lý do Hùng Vương định đô ở núi Nghĩa Lĩnh (Phong Châu) là do chọn được đất có phong thủy đẹp, thế đại dài lâu: Dãy Tam Đảo là tả thanh long; dãy Tản Viên là hữu bạch hổ; sông Bạch Hạc là nội minh đường; sông lớn huyện Nam Xương là trung minh đường; Biển Đông là ngoại minh đường. Về thứ đại Hùng Vương 18 thì đời Kinh Dương Vương là Hùng Vương thứ nhất, người định đô ở Nghĩa Lĩnh, lập nước Văn Lang; Lạc Long Quân là Hùng Vương thứ hai; Hùng Duệ Vương là Hùng Vương thứ 18. Các đời Hùng Vương đều có miếu hiệu theo nghi thức hoàng đế. Kinh Dương Vương miếu hiệu là Hùng Dương Vương cao hoàng thái tổ đại bảo đức tôn hoàng đế. Lạc Long Quân là Hùng Hiền Vương, miếu hiệu là Cao hoàng thái tổ quang hưng hoàng đế. Hùng Duệ Vương miếu hiệu là Thiên tôn minh vương hoàng đế. Về bào thai trăm trứng nở ra trăm con trai của Lạc Long Quân và Âu Cơ do có thần tiên đến giúp đặt tên con và phân thứ bậc. Con trưởng được lập làm thái tử, sau kế vị là Hùng Quốc Vương, miếu hiệu là Thượng kim cao tôn quang triều hoàng đế. Các con thứ có tên gọi và thứ bậc rõ ràng. Một trăm con trai Lạc Long Quân do đó không phải là tổ của Bách Việt vì khi Kinh Dương Vương lập nước đã có dân sẵn rồi, và có dân thì mới có vua, chẳng lẽ làm vua một mình. Làm vua thì có triều đình riêng, có quan văn võ. Trong số họ không phải ai cũng là hoàng tử con vua, mà là người được tuyển lựa từ dân lên giúp việc vua. Và do đó Kinh Dương Vương cũng không phải là thủy tổ Bách Việt mà chỉ là thủy tổ các Hùng Vương thôi. Một trăm con trai tên gọi đều có chữ Lang ở sau, như Quỳnh Lang, Hoàng Lang, Thái Lang... Con trưởng kế vị ở kinh đô, con thứ được phân đất ở các địa phương (50 con về miền biển, 50 con về miền núi). Đây là mô hình phân phong sơ khai giống như Nhà Chu ở phương Bắc. Về hai công chúa của Hùng Duệ Vương có tên gọi là Mỵ Châu Tiên Dung và Mỵ Nương Ngọc Hoa. Như vậy Mỵ Châu là có ý chỉ công chúa trưởng, Mỵ Nương có ý chỉ công chúa thứ. Do đó Mỵ Châu không phải là tên gọi chính của công chúa con vua An Dương Vương. Nhưng có thể vua An Dương Vương chỉ có một công chúa nên chỉ có Mỵ Châu, không có Mỵ Nương và gọi Mỵ Châu là đủ phân biệt ngôi thứ rồi. Về nỏ thần không phải bắt đầu từ An Dương Vương, mà hai bảo khí kiếm thần, nỏ thần trấn quốc có từ thời Hùng Duệ Vương. Thục Vương khi chiếm giữ đạo Ai Lao đã nhiều lần đem quân đánh Duệ Vương nhưng đều thất bại vì hai bảo khí này của Duệ Vương. Sau khi gả Mỵ Nương cho Sơn Tinh, Duệ Vương đã già, được Sơn Tinh báo vận số họ Hùng đã hết và khuyên nên nhường ngôi cho Thục Vương rồi cùng đi tu tiên bất sinh bất diệt. Duệ Vương bằng lòng nhường nước và truyền lại hai bảo khí kiếm thần, nỏ thần cho Thục Vương. Thục Vương cảm động đến Nghĩa Lĩnh lập hòn đá thề giữ nước và thờ cúng họ Hùng như là thái tử kế vị của Hùng Vương. Nỏ thần là bảo khí trấn quốc nên khi bị Trọng Thủy phá hỏng thì An Dương Vương đã mất nước. Như vậy, ngay từ thời phong kiến đã có học giả có cách nhận định khác lạ về thời Hùng Vương, đặc biệt là thống nhất 18 đời Hùng Vương khởi từ Kinh Dương Vương đến Hùng Duệ Vương. Chi tiết nỏ thần do Duệ Vương truyền cho Thục Vương, đồng nghĩa là truyền nước cho cũng rất mới mẻ. Bản Ngọc phả Bình Ngô đã được nhà nho Lý Thanh phiên âm và dịch ra quốc ngữ, hiện do Ban quản lý di tích đền Bình Ngô quản lý. Đây thực là một tư liệu Hán Nôm quý hiếm và độc đáo cần được khai thác tốt hơn.
                                                                                         Phạm Thuận Thành
.
*
4. HÙNG VƯƠNG KIM NGỌC PHẢ
(LUUTOC.VN) – Trong dịp khảo sát họ Lưu vùng Cố đô Phong Châu – Việt Trì, Phú Thọ, Đoàn nghiên cứu Họ Lưu Việt Nam đã thu nhận được bản “Hùng Vương Kim Ngọc bảo giám thực lục” do Cụ Lê Đức Đỗng, nguyên Chủ tịch UBKCHC xã Lâu Thượng (huyện Hạc Trì, nay là TP Việt Trì) tỉnh Phú Thọ sưu tầm và dịch xong ngày 13/7/1974)[1].  BBT LUUTOC.VN trân trọng giới thiệu tới quý đồng tộc Họ Lưu, vì bản này nhiều năm đã được giới thiệu tại BQL Di tích Đền Hùng và còn có nhiều dữ liệu, cần được xem xét kỹ hơn, như Phật giáo xuất hiện tại Việt Nam từ thời Hùng Vương thứ 7, Thục Phán có mưu đồ chiếm nước Văn Lang từ thời Hùng Vương thứ 17, thành Cổ Loa được xây và nỏ thần Cao Lỗ được chế tạo từ thời Hùng Vương thứ 18…
.
Đây là cuốn Hùng Vương Ngọc phả của thôn Cá Đô, xã An Đạo, huyện Phù Ninh do vị Lý trưởng xã ấy tên là Hoàng Văn Nhị phụng lĩnh chính bản ở Huyện về thừa sao. Vị Tú tài lĩnh bang biện huyện là Nguyễn Đình Phụng khảo, vị Sỹ nhân là ông Hoàng Văn Chứ phụng tả vào ngày Tốt, tháng Mạnh Thu, năm Ất Dậu, niên hiệu Hàm Nghi năm đầu, triều đại nhà Nguyễn (1885).
Tác giả của bản Ngọc phả này là quan Hàn lâm Học sỹ Sung Quốc Tử Giám Nguyễn Đình Chấn, Ban giám khảo bản Ngọc phả này là ông Lễ bộ Tả Thị lang – thần Phạm Quỹ, Hình bộ Tả thị lang- thần Nguyễn Hanh, Binh bộ Tả thị lang – thần Trương Quốc Hoa, Binh bộ Hữu thị lang- thần Phạm Quĩ, Hình bộ Tả thị lang – thần Vũ Hồn, Quang lộc tự khanh Biện lý Lễ bộ sự vụ Lê Thiện, Hồng Lô tự kiêm Biện lý hộ, Bộ sự vụ – thần Mai Đức Thường, Lễ bộ lang Trung biên, Lý bộ vụ – thần Nguyễn Đức Tân. Quyển Ngọc phả này gồm 12 chương.
Chương I: Nói về căn nguyên họ Hồng Bàng.
Chương II: Nói về sử ký nước Việt Nam (trong chương này kể về 18 đời Vua Hùng, mỗi đời húy hiệu nhà vua và thị phi, hoàng tử, công chúa, thời gian vua trị vì, mồ mả v.v.
Đặc biệt, trong chương này đã nói đến lễ giáo, chính trị, văn hóa, thuế khóa, binh lính thời đó như thế nào. Trong đời vua nào có giặc ngoại xâm cũng được ghi rõ.
Chương III: Nói về 3 ngôi đền thờ trên núi Hùng Vương
Đền Thượng thờ những vị nào
Đền Trung thờ những vị nào
Đền Hạ thờ những vị nào
(Các chương 1, 2, 3 ghi năm Thiên Phúc nguyên niên, tháng Giêng ngày 25 thuộc thời đại Lê Đại Hành ghi chép lưu lại).

Chương IV: Nói về tôn lăng các vua nhà Hùng táng ở nơi nào và những đâu phụng sự, kể sự cầu đảo thiên địa thần kỳ theo truyền thuyết duy thần hư hay thực, phần nào đã có khoa học nghiên cứu. Cứ theo Ngọc phả mà dịch cho có liên tục.
Chương V: Nói về các vua nhà Hùng du lịch ở các nơi trong nước mà quan sát hình thế phong thủy.
Chương VI: Nói về một bọc 100 trứng sinh ra 100 con trai sinh trưởng thế nào, đặt tên 100 con trai, phân chia chấn tự những đâu.
Chương VII: Nói về sự tích Đổng Thiên Vương đánh giặc Ân khi thành công rồi đi đâu.
Chương VIII: Nói về đời vua nào có ai cho vuốt rồng và ngọc thiên bảo để làm ấn kiếm.
Chương IX: Nói về Sơn Tinh và Thủy Tinh thi tài diễn võ dương oai để lấy Mị Nương công chúa con gái vua Hùng Vương đời thứ 18.
Chương X: Nói về Kim Quy tuốt móng chế làm lẫy nỏ.
Chương XI: Nói về đời cuối nhà Hùng nhường nước cho Thục Phán.
Chương XII: Nói về nguyên thủy từ Trung quốc truyền sang Việt Nam liên tục thế nào. Sáng lập pháp chế ảnh hưởng đối với nhân dân, quan hệ thế nào.
Đây là bản dịch từ bản chữ Hán, chắc chắn bản dịch này cũng còn nhiều thiếu sót, song đây há chẳng phải là một sự đóng góp tích cực vào việc tìm hiểu Tổ tiên ta đó sao.

Trên đây là phần giới thiệu bản Hùng Vương kim Ngọc phả của Ban Biên tập Luutoc.vn. Toàn văn bản Ngọc phả này đã được BBT Họ Lưu đăng tải  trên trang mạng Luutoc.vn. Theo người dịch Kim Ngọc phả thì bản Ngọc phả này được sao chép lại vào năm Hàm Nghi nguyên niên tháng mạnh thu, Ất Dậu (1885), triều Nhà Nguyễn. Chúng tôi có sử dụng một số tư liệu trong bản Ngọc phả này. Xin cảm ơn những người biên tập trang mạng Luutoc.vn. Để tiện sử dụng, trong sách chúng tôi gọi bản Ngọc phả này là KIM NGỌC PHẢ  để phân biệt với bản Hồng Đức nguyên niên do GS Ngô Đức Thọ dịch mà chúng tôi gọi tắt là NGỌC PHẢ
















MỤC LUC:
Thay lời nói đầu: GS Ngô Đức Thọ và việc dịch Ngọc phả Hùng Vương
Phần thứ nhất: Toàn văn bản dịch Ngọc phả Hùng Vương
Giới thiệu văn bản và lời người dịch
Phần thứ hai: Ngọc phả Hùng Vương bình giải.
I.                  Những sự kiện nổi bật thời Hùng Vương
II.               Đọc Ngọc phả Hùng Vương: Tin đến đâu, ngờ ở đâu?
Phụ lục: Một số bản Ngọc phả Hùng Vương khác

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét