Xã Song Lộc nằm về phía Tây Bắc huyện Can Lộc – tỉnh Hà Tĩnh, Bắc giáp xã Kim Lộc, Nam giáp xã Phú Lộc, Tây giáp xã Nga Lộc, Đông giáp xã Trường Lộc và Thanh Lộc. Diện tích tự nhiên của xã: 519,13 ha, trong đó đất nông nghiệp 324 ha.
Dân số: 1930 có 375 hộ
Tháng 9/1945 có 459
hộ
Năm 2010, toàn xã có 1047
hộ, 4284 khẩu, gồm 49 dòng họ.
Hệ thống chính trị trong xã có:
- Đảng bộ có 313 Đảng viên.
+ Trong đó: 60 tuổi Đảng: 8 đồng chí
50 tuổi Đảng: 17 đồng chí
40 tuổi Đảng: 51 đồng chí
30 tuổi Đảng: 98 đồng chí
Cán bộ tiền khởi nghĩa: 1 đồng chí
- Có 14 chi bộ (11 nông thôn, 3 trường học)
- Hội người cao tuổi có:
613 hội viên
- Hội nông dân có:
740 hội viên
- Hội Cựu chiến binh có: 225 hội viên
- Hội Cựu thanh niên xung phong có: 64 hội viên
- Hội Cựu giáo chức có: 61 hội viên
- Hội Phụ nữ có: 960 hội viên
- Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh có: 115
đoàn viên
- Hội đồng nhân dân: 23 đại biểu
Xã Song Lộc được thành lập từ tháng 12/1953 tách ra từ xã Lam Kiều
Song Lộc nay là phần đất của 2 xã Lai Thạch và Nguyệt Ao thuộc tổng Lai Thạch cũ gồm các làng:
– Làng Vĩnh Gia
– Làng Yên Thọ
– Làng Phúc Lộc
Ba làng này trước 1945 thuộc xã Lai Thạch
- Hơn ½ làng Nguyễn Xá thuộc xã Nguyệt Ao (gần 1/2 làng Nguyễn Xá cắt về Trường Lộc và Kim Lộc)
- Song Lộc ngày nay trước 1945 là vùng
trung tâm của tổng Lai Thạch.
Tổng Lai Thạch xưa, nay là các xã Trường Lộc, Song Lộc, Kim Lộc, Phú Lộc, Nga Lộc và (Thuận Lộc thuộc Thị xã Hồng Lĩnh). Trên đất Song Lộc có chợ Tổng, nhà Thánh Tống, trường học Tổng và thời kỳ 1930 – 1931 có đồn binh ở chợ Tổng do thực dân Pháp lập ra nhằm đàn áp phong trào cách mạng trong tổng.
Về hai từ tên xã Song Lộc đặt đầu năm 1954 khi lập xã có nhiều cách giải nghĩa khác nhau, nhưng nhiều người giải thích là: Song
có nghĩa là Song đôi vì khi xã Lam Kiều tách thành hai xã nhỏ là Trường Lộc và Song Lộc, còn Lộc là từ cuối của huyện Can Lộc.
Trước năm 1921, xã Song Lộc nói riêng và cả tổng Lai Thạch nói chung còn
thuộc về huyện La Sơn ( Đức Thọ). Sau năm 1921, triều Khải Định mới cắt về huyện Can Lộc.
1. Sông ngòi
Từ xưa, tổng Lai Thạch có sông Lai Giang (ở Tràng Lưu gọi là Phúc Giang) từ chợ Vi (Kim Lộc) lên chợ Tổng (Song Lộc) qua chợ Đò (thuộc làng Vĩnh Gia giáp làng Đông Tây
xã Phú Lộc) về chợ Quan (Trường Lộc) chảy xuống chợ Nhe đổ nước vào Sông Nghèn ở Ngã ba hạ Vàng.
Lai Giang là một con sông nhánh
của Sông Nghèn.
Mùa Xuân Mậu Dần năm 1878, triều Tự Đức năm thứ 31, thân hào tổng Lai Thạch bàn kế hoạch huy động sức dân khơi lại dòng sông cổ lâu ngày bị bồi lấp để chống hạn cho đồng ruộng. Tháng 05 năm ấy dân làng Vĩnh Gia đào được một cây gỗ quý nằm dưới đám ruộng trọt trước Văn Miếu tổng ở chợ Tổng cho là điều lành, hồn thiêng sông núi đã hiện về báo hiệu dấu vết của con sông cổ Lai Giang, nên vào tháng 07 năm ấy, hàng trăm trai tráng trong tổng đã tiến hành công cuộc đào lại sông đoạn từ chợ Tổng xuống chợ Vi qua làng Phúc
Lộc và Nguyễn Xá xã Song Lộc ngày nay. Đến cuối năm 1878,công việc hoàn tất đã tổ chức khắc bia chữ Hán đổi tên sông thành Linh Giang và dựng bên bờ sông trước Văn Miếu (nhà Thánh) tổng, đáng tiếc là nay không còn, song ta
còn được biết nội dung của bia “Linh Giang bia ký” ở các trang 94 – 96 sách Văn bia Hà Tĩnh do Sở Văn hoá thông tin xuất bản năm 2007.
Những năm đầu, giữa và cuối thế kỷ 20 nhân dân xã Song Lộc đã cùng với các xã bạn trong tổng Lai Thạch cũ 4 lần tiếp tục đào, nạo vét và tu sửa lại con sông Linh Giang.
- Năm 1910 đến 1913 đã đào và nạo vét 3 khúc.
- Từ chợ Tổng xuống chợ Vi dài gần 7000m.
- Từ cổng làng Phúc Xá đến chợ Vi dài 2000m.
Và cũng dựng bia đá thanh trước Văn Miếu có tên “Duy Tân Quý sửu xuân” ở làng Vĩnh Gia xã Song Lộc, hiện nay, tấm bia ấy không còn
nhưng nội dung trong bia đã được ghi lại rất rõ trong cuốn “Văn bia Hà
Tĩnh”
Cuối năm 1956, sau thắng lợi của cuộc cải cách ruộng đất, huyện Can Lộc huy động dân công các xã tổng Lai Thạch (cũ) đào mới đoạn sông từ cầu Đập. Lên cầu Cây Khế qua cầu Làng về Nhà Y, cầu Ròi xã trường Lộc dài gần 4000m.
Năm 1993, huyện Can Lộc tiếp tục huy động nhân dân các xã Song Lộc, Trường Lộc và Kim Lộc nạo vét mở rộng lòng sông Linh Giang từ cầu Cây khế xuống chợ Vi.
Trước đây, sông Lai Giang – Phúc Giang
– Linh Giang thuyền bè quanh năm
xuôi ngược ra Vinh, lên Hương Sơn, vào cửa Sót và một cảnh đẹp đã đi vào thơ văn của các bậc khoa bảng Lai Thạch và cả xứ Nghệ. Thám hoa Nguyễn Huy Oánh ở Tràng Lưu (1713 – 1789) đã lấy tên sông quê hương đặt tên trường đại tập dạy học trò đi thi tiến sĩ là Phúc Giang Thư Viện, tương truyền thời Lê Trịnh và Trịnh Nguyễn phân tranh các thế kỷ 15 – 17 trên sông Linh Giang, thuỷ quân đã chọn làm căn cứ luyện tập và trên dòng
sông đã diễn ra nhiều trận thuỷ chiến của các tập đoàn phong kiến Đàng ngoài (Lê Trịnh) và đàng trong (Nguyễn). Vì vậy, sông Lai Giang – Linh Giang ở tổng Lai Thạch đã đi vào tâm
thức của nhân dân, đã có nhiều câu ca dao, tục ngữ ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên và in đậm dấu ấn lịch sử:
“Núi Hồng ai đắp mà cao
Linh Giang ai bới ai đào mà sâu”
Và biết bao câu ví dặm, hò vè, hát ví Phường vải của ông, cha ta – xưa những cư dân suốt đời gắn bó với dòng sông quê hương:
“Con tằm chín khúc tơ vương
Chàng rời chợ Tổng thiếp ngẩn ngơ nỗi lòng”
Tình tứ biết bao câu ví đò dọc của các o hàng
xáo Lai Thạch trên con đò chở gạo ra Vinh:
“Bóng trăng em tưởng bóng đèn
Bóng cây em tưởng bóng thuyền anh xuôi”
2. Đường, cầu
Ngoài đường liên hương, liên xã, trên địa phận xã Song Lộc có đường tỉnh lộ 12 và đường Phan Kính chạy qua. Ngoài ra có Quốc lộ 15 chạy qua 500m ở phía Tây làng Vĩnh Gia giáp Nga Lộc và Phú Lộc, nguyên trước năm1945 là tỉnh lộ số 3 Ba Giang đi Lạc Thiện; đến năm 1962, đoạn đường Ngã ba Khiêm Ích vào Khe Giao Truông Bát được khai thông mới có quốc lộ 15 từ Nghệ An qua Hà Tĩnh vào Quảng Bình chạy gần song song với Quốc lộ số 1. Đường này đầu thế kỷ 21 được nâng cấp toàn tuyến rải nhựa bắc lại cầu.
- Tỉnh lộ 12 từ ngã ba chợ Đình Trung Lộc lên Quán Trại Nga Lộc, đoạn qua xã Song Lộc từ cầu cây khế ra cầu Cao dài hơn 2km. Đường này trước là huyện lộ, được xây dựng từ năm 1933 cùng thời với đê Linh Cảm. Sau ngày tái lập tỉnh Hà Tĩnh được nâng cấp lên tỉnh lộ, rải nhựa. nay đang được mở rộng và nâng cấp.
- Đường Phan Kính từ phường Nam Hồng thị xã Hồng Lĩnh đi lên đường 15 dài hơn 8 km là đường tỉnh lộ mới làm sau ngày thị xã Hồng Lĩnh thành lập 1995 đoạn chạy qua xã Song Lộc dài 5 km được rải nhựa xong vào năm
2004.
- Đường liên xã chợ Vi đi chợ Tổng và Nguyễn Xá đi Tràng Lưu được mở rộng, bê tông hóa. Ngày nay, về Song Lộc không còn cảnh bùn lầy nước đọng, vịn gốc tre để vào xóm. Đường xá trong xã được đổ bê tông, ô tô có thể vào tận tất cả các xóm và sang các xã bạn.
Cầu ở Song Lộc có 3 cầu lớn trọng tải lên tới 10 tấn mới làm và làm lại sau 1975.
Cầu Cây Khế trên tỉnh lộ 12 điểm giáp ranh giữa Song Lộc và Trường Lộc.
Cầu Xóm 8 trên đường Phan Kính.
Cầu Cao trên tỉnh lộ 12 địa giới giữa xã Song Lộc và Nga Lộc.
3. Chợ
- Chợ Đò: Xa xưa có chợ Đò bên bờ sông Linh Giang thuộc làng Vĩnh Gia, cạnh làng Kẻ Đò (dân cư của làng Tràng Lưu xưa), gọi là chợ Đò vì chợ họp cạnh bến Đò, gần làng Kẻ Đò. Bến đò ấy là vùng Xối Ải ngày nay. Đã từ lâu, chợ không họp.
- Chợ Tổng: Hiện nay, chưa có tài liệu thành văn nói về năm tháng thành lập chợ Tổng. Song ta có thể căn cứ vào lịch sử của dân tộc thời nào lập ra tổng thì mới có chợ của hàng tổng, chợ Tổng là chợ của cả tổng Lai Thạch xưa, họp vào các ngày
mùng 2, 6, 10 hàng tháng (mỗi tháng 8-9
phiên). Nền chợ trước ở phía Tây trụ sở cao tầng của xã, có cây đa, phố xá bán thuốc bắc của ông Chung Tràng
Lưu. Chợ là nơi giao lưu trao đổi hàng hoá của các xã Lai Thạch, Thường Nga, Nguyệt Ao, Phúc Hải. Ngày nay, chợ Tổng chuyển về phía đông trụ sở xã.
Như vậy, dựa vào các tài liệu trên, chúng ta có thể đoán rằng: nếu chợ ra đời cùng với chợ Quan ở Tràng Lưu thì bia chợ này có ghi cụ thể là năm 1752 chợ được thành lập; còn nếu cho rằng khi có tổ chức hành chính cấp Tổng thì có chợ. Nếu vậy thì cấp Tổng mãi đến triều vua Gia Long (1802 – 1819) mới được tổ chức. Từ Tây Sơn Nguyễn Huệ về trước chưa có cấp Tổng.
Chợ Tổng sau ngày tái lập tỉnh Hà Tĩnh, đầu thế kỷ 21 được xây dựng lại ở vị trí mới, phía Đông Nam chợ cũ, có đình, có 2 dãy lều chợ được xây kiên cố.
4. Các Di tích lịch sử văn hoá
Trước cách mạng tháng 8/1945, ở các làng trong xã Song Lộc ngày nay có nhiều đình chùa, miếu mạo, nền tế thần nông, văn miếu (nhà Thánh) bia
đá, lăng mộ và các nhà thờ họ.
Làng Nguyễn Xá có đình ở núi Quỳnh Côi
(nay thuộc xóm Quỳnh Sơn xã Trường Lộc) nhưng hiện nay không còn.
- Đình làng Vĩnh Gia cùng
là văn miếu của tổng Lai Thạch xây dựng thời Lê Trung Hưng thế kỷ 17 nay không còn, Ở đây có khoa danh của cả tổng Lai Thạch (đã bị vỡ, không còn) khắc 72 vị tiên hiền từ thám hoa, tiến sỹ đến hương giải (cử nhân) và các Võ Quan tiêu biểu của 4 xã Lai Thạch, Hằng Nga, Phúc Hải, Nguyệt Ao. Nơi đây vừa là nơi họp làng vừa là chỗ tổng Lai Thạch tế xuân, thờ Khổng Tử.
- Văn Miếu (nhà Thánh) Vĩnh Gia có tên là
Văn Miếu chợ Tổng, nơi có nhiều sự kiện lịch sử liên quan không chỉ xã Song Lộc mà cả Tổng Lai Thạch, như: năm 1878, 1913 thân hào cả tổng họp bàn khai lại dòng sông Linh Giang từ chợ Tổng đến chợ Vi; năm 1916, thân hào cả tổng họp bàn tổ chức vay lúa nhà giàu cứu đói người nghèo.
* Đền:
- Làng Nguyễn Xá có đền thời Thánh Hoàng ở núi Quỳnh Sơn (nay thuộc Trường Lộc).
- Làng Vĩnh Gia có đền Voi Mẹp vì trước đền có 2 con voi to, bằng đá thanh, đền này chính là
nhà thờ Phan Kính (1751
– 1761). Thám hoa Phan Kính là Thành Hoàng làng, nên đến ngày giỗ ông và lễ Kỳ Phúc hàng năm, làng tổ chức tế ông rất linh đình, đáng tiếc nay ngôi đền bị hỏng, chỉ còn 2 con voi đá và giếng trước cổng đền xưa, nay mới tôn tạo được Thượng điện.
- Làng Nguyễn Xá có văn miếu sau núi Quỳnh Côi,
nay không còn, nền là nơi xã Trường Lộc đặt máy bơm điện chống hạn.
- Làng Cồn Cải có đền Cồn Trạng, dấu tích còn lại đến ngày nay chỉ là nền đất ở xứ đồng xóm 4 canh tác
* Chùa:
- Làng Vĩnh Gia có chùa
Vĩnh Gia tên chữ là chùa Việt Ma xây dựng vào thời Lê Trung Hưng cùng thời với chùa Hân ở Tràng Lưu. Hiện nay, chùa không còn chỉ sót lại cổng Tam Quan đã bị hư hỏng nặng.
- Làng Yên Thọ có chùa Trôốc lập vào triều Nguyễn, nay chỉ còn nền chùa.
- Làng Nguyễn Xá có chùa Gia Hưng ở núi Quỳnh Côi (nay thuộc xã Trường Lộc), tuy chùa không còn nhưng tấm bia đá được dựng vào năm 1689 ghi lại công đức của quận công tổng thái giám Trần Tịnh quê ở Mật thôn, xã Nguyệt Ao nay thuộc Kim Lộc trùng tu
bia này hiện được họ Lê ở xóm Quỳnh Sơn đem về ở khuôn viên nhà thờ họ nhằm giữ lại dấu tích của cụ Lê Nhân Kiệt thủy tổ là người chữ đẹp viết vào bia để thợ khắc. Ông cũng là người đốc công đại tu chùa. Đây là
ngôi chùa vào loại cổ nhất ở tổng Lai Thạch, cũng là một di tích lịch sử, văn hóa và cách mạng, là địa điểm sinh hoạt, hội nghị, trạm liên lạc của chi bộ Nguyệt Ao thời Xô viết Nghệ Tĩnh.
* Lăng mộ:
Lăng mộ xưa nay ở Song Lộc có rất nhiều, được chôn cất rải rác trên các cánh đồng trong xã và một số ngôi ở các làng xã bạn.
Nhưng có giá trị lịch sử là hai lăng mộ của tiến sỹ Nguyễn Tâm Hoằng và thám Hoa
Phan Kính ở làng Vĩnh Gia.
- Mộ tiến sĩ Nguyễn Tâm Hoằng trước đây ở phía Đông chợ Tổng.
Năm 1980, được xã di dời về nghĩa trang Hoa Trạm, song nay rất ít người biết đến hiện nay chưa có bia, mộ chí và lăng.
- Lăng thám hoa Phan Kính
ở cạnh chùa Vĩnh Gia cũ, xưa có cây cối cổ thụ thâm nghiêm, có
2 con nghê chầu trước nền tế, có cột nanh to, cao phía cổng vào sau khi được xếp hạng di tích quốc gia, nhà nước, con cháu họ Phan đã bao tường, xây cổng và đào giếng hình bán nguyệt phía trước cổng.
* Nhà thờ họ
Trước năm 1945, ở xã Song Lộc có rất nhiều nhà thờ họ; sau năm 1975 đến nay các họ con cháu đều bỏ công sức, tiền của tu tạo nâng cấp, làm mới bái đường và xây thêm hàng chục nhà thờ mới. Nhưng nhà thờ họ Phan của thám hoa Phan
Kính là một nhà thờ lớn, còn giữ được đồ tế khí, bia đá và một số sắc phong có giá trị. Đây là một di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Từ sau ngày xếp hạng, con cháu họ Phan đã tôn tạo, làm mới bái đường, làm lại thượng điện và bao tường xây cổng hoành tráng.
Ngoài các di tích trên ở Song Lộc, tại các làng, xóm trước 1945 còn có các nền tế thần nông, miếu thờ ở một số gia đình và kho nghĩa thương.
* Trường học:
Trường học chợ Tổng, cạnh văn miếu Tổng. Năm 1923, trường được đặt ở xóm Trại gọi là trường Lai Vịnh (nay thuộc xóm Quỳnh Sơn xã Trường Lộc), hiệu trưởng là ông Trần Huy An ở Tràng Lưu (Giáo An). Khoảng năm 1926, trường dời lên chợ Cụp xã Thường Nga (Nga Lộc); đến năm 1928, dời về chợ Tổng làng Vĩnh Gia.
Cuối năm 1930, để đàn áp phong trào 1930 – 1931 ở tổng lai thạch bọn thống trị Hà Tĩnh cho 30
lính (1/2 là quân Lê Dương) do một tên quan người Pháp chỉ huy về lập đồn binh.
Sau cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (niên khoá 1932 – 1933), quân lính mới rút khỏi đồn, trường sơ học mới khai giảng lại. Năm 1933, trường được xây gạch, lợp ngói có 2 phòng học. Sau cách mạng tháng 8, tháng
10/1945, chính quyền cách mạng tổng Lai Thạch lập trường Tiểu học đủ các lớp do ông Nguyễn Huy Quế người Trường Lộc làm Hiệu trưởng. Trường được xây mới 2 phòng học.
Trường Sơ học – Tiểu học chợ Tổng ở Song Lộc là nơi ươm mầm học cho con em trong tổng. Hàng trăm học sinh đã từng học ở trường này sau thành nhân tài cho đất nước, từ sau cách mạng tháng 8/1945 đến nay.
Cũng tại làng Vĩnh Gia năm 1947 – 1948, xã
Lam Kiều mở trường Trung học tư thục Lai Thạch và niên khoá
1952 – 1953, huyện Can Lộc mở thêm trường cấp 2 quốc lập Lam Kiều. Hai trường này đều ở vùng chợ Tổng.
II. TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH LÀNG XÃ
Cho đến nay, chưa có cứ liệu lịch sử các làng ở xã Song Lộc được lập từ bao giờ, chỉ biết rằng ở làng Vĩnh Gia đầu thế kỷ 15 đã có ông tiến sĩ Nguyễn Tâm Hoằng (sinh năm 1434) người gốc Đức Thọ vào lấy vợ làng này và thi đậu tiến sỹ vào năm 1478 đồng khoa với Hoàng Hiền ở xã Kiệt Thạch (Thanh Lộc), ông không có con trai, mà có đến 10 cô con gái, làm quan với nhà Lê, chức cuối cùng là giám sát ngự sử. Ông là người đầu tiên đậu đại khoa ở tổng Lai Thạch. Từ sự kiện này chúng ta có
thể suy ra trước thế kỷ 15
làng Vĩnh Gia đã có người ở. Đây là một làng cổ, cùng thời với các làng xung quanh núi Cài (Sạc Sơn) như Tràng Lưu, Yên Huy, Kiệt Thạch…
Còn các làng Nguyễn Xá, Yên Thọ, Phúc Lộc hiện nay cũng chưa có cứ liệu để xác minh thời gian lập làng. Song cũng chỉ những làng cùng thời hay sau làng
Vĩnh Gia một ít, chứ không thể có trước.
Qua khảo sát, xã Song Lộc có 49 dòng họ, trong đó có một số dòng họ có trên dưới 20 đời. Còn số đông là từ 15 đời trở lại. Các dòng họ có đông người là họ Phan, họ Nguyễn, họ Trần, họ Võ…
Qua gia phả các dòng họ hiện nay ở xã chúng ta biết số đông người ở Song Lộc ngày nay có gốc từ nhiều nơi về tụ cư, như ở Bắc Bộ, Thanh Hóa, Nghệ An vào các thế kỷ 17, 18, 19.
Cũng như số đông các làng xã ven sông Linh Giang xưa, xã Song Lộc không có đồi núi đồng ruộng thấp trũng, độ màu mỡ, phù sa bồi tích nên nhiều cánh đồng sâu vào loại thâm điền, ruộng tốt, song có địa hành lòng máng, ven sông nên trước đây chưa có đê La Giang, chỉ làm được vụ Chiêm và một ít ruộng làm vụ bát (bát ngoạt) gặt sớm vào tháng 8 âm
lịch. Đời sống nhân dân Song Lộc từ buổi đầu lập làng đã sớm phải chịu cơ cực.
“Bão xô nghiêng mảnh ruộng cày
Nắng hun đến cái diệp cày cũng cong
Lụt mang đi hết của đồng
Bao nhiêu hạt mẫy đi không thấy về
Mấy đời tiến sĩ, quan nghè
Áo thâm guốc mộc, noi tre, seo cày”
(Trích Thơ Yến Thanh)
Các địa danh: xã Lai Thạch, Nguyệt Ao và các tên làng như: Vĩnh Gia, Nguyễn Xá… đến nay ta được biết mới xuất hiện vào khoảng 1460 – 1497
triều Lê Thánh Tông về sau.
Về bộ máy hành chính làng xã dưới chế độ phong kiến mỗi triều đại mỗi khác. Đời vua Trần Thái Tông (1225 – 1258) mới bắt đầu đặt các xã trưởng, xã giám, họ đều là quan triều đình ở cấp xã. Đến nhà Lê lại có sự thay đổi.
Sau khi Lê Lợi lên ngôi hoàng đế (1428) lại đặt xã quan. Đến đời Lê Thánh Tông đổi thành xã Trưởng, về sau cấp xã có 3 người gọi là xã chính, xã sử, xã tư (hoặc xãgiám) họ đều là nho sinh, sinh đồ (tú tài) do nhà vua chọn, bổ sung và phong phẩm hàm đến đời Vĩnh Hữu (1736 – 1749),
về sau các chức danh cấp xã đều do dân bầu.
Đến nhà Nguyễn (1802 – 1945), lại có sự thay đổi. Nơi nào có 140 suất đinh thì đặt chức xã trưởng. Thôn trưởng giúp xã Trưởng quản lý hành chính trong thôn. Dưới thôn có giáp (có giáp trưởng) chế độ này thực hiện từ Nghệ An trở ra các triều Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức cơ bản như thời Gia Long. Còn về cấp tổng mới tổ chức từ 1802 khi Gia Long lên ngôi. Còn trước đó chưa có. Như vậy, địa danh tổng Lai Thạch có sau địa danh xã Lai Thạch, và các làng trong xã. Sau ngày
thực dân Pháp đặt nền đô hộ, từng bước chúng thi hành một số cải cách hành chính ở nông thôn nhằm quản lý chặt bộ máy cai trị ở cơ sở. Tuy vậy, ở mỗi nơi cũng có sự khác nhau.
Tổng Lai Thạch từ Đức Thọ mới chuyển về Can Lộc sau 1921, cũng như các tổng Can Lộc cũ có Chánh tổng, Phó chánh tổng, tổng đoàn (chỉ huy phu đoàn các
xã, làng), từ 1930 về sau ,có thêm bang tá tổng chuyên trách nắm trị an, theo dõi bắt bớ người chống đối. Đây là lực lượng được bọn thực dân Pháp tin cậy nhất ở nông thôn. Nó cũng là kẻ tàn ác với dân hàng tổng. Còn cấp xã đứng đầu có lý tưởng (có mộc triện) chức này ở các xã trong tổng Lai Thạch gọi là cai xã. Còn ở các làng chỉ có Phó lý (không
có triện) phó lý là kẻ giúp cho Lý trưởng, Lý trưởng là cấp dưới của Chánh tổng.
Dưới triều Khải Định năm 1921, thực dân Pháp dật dây tên vua bù nhìn thực hiện cải lương hương chính buộc bọn hào lý địa phương quản lý dân ta ráo
riết hơn với 2 việc lớn như:
- Buộc các làng phải soạn hương ước trình lên cấp huyện mới được thi hành.
- Thực hiện cơ chế “ngụ hương” (Trước 1921 chỉ có trí bộ và kiểm đốc) Ngụ hương có ở tất cả các làng lớn nhỏ trong xã gồm 5 tên giúp việc phó lý là:
+ Hương bộ: lo sổ đinh, điền, sinh, tử, giá thú.
+ Hương kiểm: chuyên lo tuần phòng, an ninh
trật tự.
+ Hương bản: quản lý tiền quỹ, thóc quỹ, tài sản công.
+ Hương mục: chuyên lo đường xá, cầu cống, điều động phu phen, lính tráng.
+ Hương dịch: chuyên lo hội họp, lễ tế
Ngoài ra mỗi làng còn có một đội tuần phu (phu đoàn)
do hương kiểm chỉ huy, giúp việc phó lý ở làng có seo, mõ và người giữ đồng gọi là thủ khoán.
Trong mỗi làng còn có giáp, thông thường có 2 giáp nhất và nhị và các xóm (ấp đều có người chỉ huy)
Bộ máy hành chính ấy, sau 1921 còn có thêm hai hội đồng là hội đồng hào mục và hội đồng tộc biểu. Hội đồng hào mục là các quan lại về hưu, hào lý đã thôi
việc, tổ chức này còn có ở làng làm nhiệm vụ tư vấn cho bọn chức dịch đang làm việc, có con dấu riêng. Bọn chức dịch ở làng làm gì cũng phải thông qua hội đồng hào mục, đứng đầu hội đồng này là kẻ nào có phẩm hàm cao nhất trong làng.
Còn hội đồng tộc biểu là tất cả các tộc trưởng các dòng họ lớn nhỏ trong làng chỉ làm một việc chính là khuyên răn, can ngăn con cháu trong họ không làm gì có hại cho bọn hào lý và sự thống trị của thực dân phong kiến.
Cũng như các địa phương khác trong tỉnh, bộ máy hành chính ở nông thôn huyện Can Lộc có nhiều thay đổi sau cách mạng tháng 8/1945
- Sau khi giành chính quyền trong cách mạng tháng 8/1945 tổ chức Ủy ban nhân dân
cách mạng lâm thời ở tổng và ở làng (không tổ chức ở xã)
- Cuối tháng 12/1945, chính quyền cấp tổng và cấp làng giải thể thành lập Ủy ban nhân dân cấp xã. Xã Lam Kiều ra đời từ đó, gồm các làng 2 xã
Song Lộc và Trường Lộc ngày nay.
- Đến tháng 10/1949 thành lập xã lớn, Can Lộc có 11 xã, trong đó, Trà Linh gồm các xã Lam Kiều, Liên Nga, Linh Quy
và Minh Tân (là các xã Trường Lộc, Song Lộc, Phú Lộc, Nga Lộc, Kim Lộc, Thuận Lộc hiện nay)
- Đến năm 1952, giải thể xã lớn Trà Linh, xã
Lam Kiều được tái lập. Đến cuối 1953, chia
thành 2 xã như hiện nay là Song Lộc và Trường Lộc. Còn về cấp làng sau khi
giải thể chính quyền (12/1945) chỉ để lại một cán bộ làm thôn trưởng.
Trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp cho đến 1958 dưới thôn có xóm, mỗi xóm cũng có xóm trưởng. Làng có tổ Đảng, xóm có phân chi các đoàn thể.
Từ 1959 – 1990 Hợp tác xã nông nghiệp hình thành và phát triển, vai trò cấp làng, cấp xóm không tồn tại, Ban quản trị hợp tác xã kiêm luôn nhiệm vụ quản lý hành chính ở làng, cấp dưới là đội sản xuất tương tự như cấp xóm trước đây.
- Từ 1991 về sau, thực hiện chủ trương của UBND tỉnh Nghệ Tĩnh về thành lập tổ chức cấp xóm, Song Lộc thành lập 10 xóm theo từng đội sản xuất trước đó.
- Tháng 04/1946, sau bầu cử Hội đồng nhân dân xã (17/2/1946) bầu ra Ủy ban Hành chính xã.
- Tháng 05/1946, để chuẩn bị kháng chiến thành lập ở xã Ủy ban phòng thủ.
- Tháng 11/1946, Ủy ban phòng thủ giải thể, lập Ủy ban kháng chiến xã.
- Giữa năm 1947, hợp nhất 2 Ủy ban ở xã thành Ủy ban kháng chiến hành chính.
- Năm 1955, đổi Ủy ban kháng chiến hành chính
thành Ủy ban hành chính
xã.
- Năm 1976, đổi thành Uỷ ban nhân dân xã cho đến nay.
*
********************************************************
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét