Thứ Sáu, 15 tháng 1, 2016

LẠI VIẾT VỀ SỰ KIỆN ĐẠO PHẬT TRUYỀN SANG VIỆT NAM TỪ THỜI HÙNG VƯƠNG

1. Đoàn Như Lai sứ giả thứ 8 và tháp A Dục
Đạo Phật ra đời tại Ấn Độ vào giữa thiên niên kỷ thứ I trước Công nguyên (Tcn). Theo truyền thuyết, người sáng lập ra đạo Phật là Thái tử Xi đạt ta Gottoma là con vua Sudodanna nước Capilavatxtu ở chân núi Hi ma lay a, miền đất bao gồm một phần nước Nê pan và một phần nước Ấn Độ ngày nay.

Năm 29 tuổi, Thái tử Xi đạt ta từ bỏ đời sống vương giả ở kinh thành, từ bỏ vợ con, xuất gia đi tìm đường cứu vớt nỗi khổ đau của chúng sinh. Đến năm 35 tuổi, sau 49 ngày thiền định dưới gốc cây bồ đề, ông thấy mình thấu triệt hết chân lý của vũ trụ và nguồn gốc sinh tử của con người do vòng luân hồi “sinh, lão bệnh tử” gây ra. Từ giây phút ấy, ông trở thành Buddha (tức là người đã giác ngộ, đã hiểu rõ cội nguồn chân lý, ta gọi là Phật hoặc Bụt). Đệ tử tôn xưng ông là Xakia Muni (Âm Hán – Việt là Thích ca Mầu ni). Học thuyết của ông được đệ tử đúc kết lại, bổ sung thêm, chỉnh lý dần và phổ biến rộng rãi, đó là giáo lý nhà Phật.
Thích ca Mầu ni sinh năm 624 Tcn và mất năm 544 Tcn. Tín đồ đạo Phật lấy năm mất của ông làm năm mở đầu kỷ nguyên Phật giáo. Ví dụ, năm 2012 Công lịch sẽ là năm 2556 Phật lịch.
Sau khi đạo Phật ra đời, từ thế kỷ V đến thế kỷ III Tcn, các nhà hoạt động Phật giáo đã tổ chức được 3 cuộc Đại hội Phật giáo (gọi là Đại hội Kết tập Kinh điển) để soạn thảo giáo lý, chấn chỉnh tổ chức và “Hoằng dương Phật pháp” (tức truyền bá đạo Phật ra rộng rãi hơn). Đáng chú ý nhất là Đại hội lần thứ 3 vào giữa thế kỷ II Tcn dưới thời vua A so ka (âm Hán – Việt là A dục vương). Vua A so ka (268 – 232 Tcn) trong thời gian trị vì đã thống nhất được toàn xứ Ấn Độ, là thời kỳ cường thịnh nhất trong lịch sử Ấn Độ cổ đại.
Theo sách Đại sử ký ( Mahavamsa) của Tích Lan (nay là Sri Lanka) thì Đại hội được tổ chức tại thành phố Pataliputta (âm Hán Việt là Hoa Thị) nước Magadca (âm Hán Việt là Ma kiệt đà) do vua A so ka cùng Đại lão Hòa thượng Moggaliputta Tissa (âm Hán Việt là Mục kiều liên tử đế tu) chủ trì .Đại hội đã cử 9 đoàn Như Lai sứ giả lên đường hoằng dương Phật pháp tới các vùng miền khác trong Ấn Độ, và tới các quốc gia xa xôi khác. Trong đó có 3 đoàn được cử đi truyền đạo rất xa. Đó là:
Đoàn thứ 6 do ngài Maharakhita dẫn đầu đến Hi Lạp
Đoàn thứ 9 do ngài Mahinda con trai A so ka dẫn đầu đến Tích Lan (S riLanka)
Và đặc biệt là đoàn thứ 8 do 2 cao tăng là ngài Sona và ngài Utara dẫn đầu đến vùng Kim Địa ( tức là phạm vi các nước Miên ma, Việt Nam, Lào, Căm pu chia và Ma lai xi a ngày nay) .Nhiệm vụ của đoàn là xây dựng giảng đường, hoằng dương Phật pháp, xây dựng các tháp để đánh dấu những nơi đoàn đến hoặc ghi lại những việc làm của đoàn. Những tháp đó sau này được gọi là tháp A dục (tức là tháp của vua A sô ka. Trên đất nước ta, dấu tích của các công trình mang tên tháp A dục vẫn còn để lại cho đến thời kỳ Bắc thuộc, thế kỷ IV đến VI sau Cn và đã được sử sách ghi lại. Theo Lưu Hân Kỳ trong Giao Châu ký (thế kỷ IV) thì: “Thành Nê Lê ở phía nam huyện Định An, cách sông bảy dặm, tháp và giảng đường do vua A dục xây dựng vẫn còn. Những người đốn hái củi gọi là Kim tượng”
Trong Thủy kinh chú của Lịch Đạo Nguyên (thế kỷ VI) cũng ghi về thành Nê Lê “ Từ Giao Chỉ đi về phíaNamcó ngách sông Đô Quan Tái Phố chảy ra. Con sông này từ phía đông đi qua huyện An Định, phía bắc kèm theo sông Trường Giang, ở trong sông có chiếc thuyền đồng do Việt Vương đúc, lúc nước triều xuống người ta thấy chiếc thuyền ấy. Con sông Trường giang lại chảy về phía đông, cách sông có thành Nê Lê, thành này do A dục vương xây. Lại chảy về phía đông nam hợp với sông Nam Thủy. Sông Nam Thủy lại chảy về phía đông nam, đi qua phía bắc quận Cửu Đức.”
Như vậy, di tích của đoàn truyền giáo thứ 8 để lại trên đất nước ta, cho mãi đến thế kỷ thứ IV – VI vẫn còn và đã được các sử gia Trung Hoa ghi lại.. Điều đó chứng tỏ rằng , từ thế kỷ III Tcn đã từng có các đoàn cao tăng từ Ấn Độ sang truyền giáo tại nước ta. Thế kỷ III Tcn tương ứng với thời kỳ Hùng Vương ( từ thế kỷ VII – III Tcn). Không nghi ngờ gì nữa, đạo Phật đã được truyền vào nước ta từ thời Hùng Vương và đã để lại các Thiền viện và các tháp mang tên A dục.
2. Truyền thuyết Chử Đồng Tử đi tu đạo Phật.
Quay trở lại thời kỳ Hùng Vương, chúng ta thấy có truyền thuyết Chử Đồng Tử – Tiên Dung kể về thiên tình sử diễm lệ giữa một chàng trai nghèo và một nàng công chúa nơi lầu son gác tía. Trong truyền thuyết ấy, có một chi tiết đặc biệt kể về Chử Đồng Tử đi học đạo ở núi Quỳnh Viên, được ghi lại như sau: “ Có núi Quỳnh Viên, trên núi có am nhỏ, bọn lái buôn thường ghé lại đó uống nước. Đồng Tử lên am chơi, có tiểu tăng tên là Ngưỡng Quang truyền phép cho Đồng Tử. Đồng Tử  lưu học ở đó, giao tiền cho bọn lái buôn mua hàng. Sau đó lái buôn quay lại đón Đồng Tử về. Sư tặng Đồng Tử một cây trượng và một chiếc nón mà nói rằng: “ Linh thiêng ở những vật này đây”. Đồng Tử trở về giảng lại  đạoPhật. Tiên Dung bèn giác ngộ, bỏ phố phường, chợ búa , cơ nghiệp rồi cả hai đều tìm thầy học đạo ( Trich truyện Chử Đồng Tử- Tiên Dung trong “Lĩnh Nam chích quái). Truyên thuyết này cho biết: Chử Đồng Tử trên đường đi buôn đã ghé vào núi Quỳnh Viên học đạo. Vậy núi Quỳnh Viên ở đâu? Vua Lê Thánh Tông trong một lần xa giá đến vùng Cửa Sót ( tức cửa Nam Giới) nay thuộc huyện Thạch Hà ( Hà Tĩnh), ông có để lại bài thơ vịnh cửa biển này trong đó có câu:
Di miếu mạn truyền kim Vũ Mục
Danh sơn do thuyết cổ Quỳnh Viên
( Dịch nghĩa: Ngôi miếu còn lại ngày nay truyền rằng đó là miếu thờ Vũ Mục. Kể về ngọn núi danh tiếng thì có núi Quỳnh Viên xưa)
Miếu Vũ Mục ở chân núi Nam Giới, thờ Lê Khôi một danh tướng có công lớn trải hai triều vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông. Ông đi đánh Chiêm Thành về qua đây và đột ngột từ trần vào năm 1447. Người ta đã lập đền thờ tại nơi ông mất, gọi là đền Vũ Mục. Còn núi Quỳnh Viên chính là núi Nam Giới. Theo Bùi Dương Lịch, tác giả Nghệ An ký thì : “Núi Nam Giới nằm trên bờ biển xã Dương Luật (nay thuộc huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh). Ngày trước phía nam nước ta giáp nước Chiêm Thành nên gọi là Nam Giới. Mạch đi từ núi Nhật Lệ lại, cao lớn, đẹp đẽ. Nơi cao nhất ở phía đông bắc như trán rồng. Liền ở dưới có một dải sống núi như mũi rồng. Hai bên tả hữu có hai tảng đá tròn như hình mắt rồng. Dưới mũi đột ngột nhô lên một ngọn núi tròn như đầu mũi rồng. Dưới đầu mũi có ao trời rộng độ vài mẫu như miệng rồng, sâu thăm thẳm (. . .) Trên bờ có hai nền nhà. Tục truyền đời Hùng Vương, Chử Đồng Tử và Công chúa Tiên Dung từng tu đạo ở đây, gọi là núi Quỳnh Viên. Lê Thánh Tông Thuần Hoàng Đế tuần du phương nam có câu thơ: “Danh sơn do thuyết cổ Quỳnh Viên” là núi này” (Trích Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch). Đặc biệt , chân núi phía nam có khe Hau Hau nước rất ngọt mát. Thuyền đi sông, đi biển đều ghé lại đây lấy nước. Khi xa giá vua Lê Thánh Tông qua đây, người ta đã lấy nước này dâng lên vua. Điều đó chứng tỏ nước khe này rất nổi tiếng. Điều này cũng phù hợp với truyền thuyết Chử Đồng Tử – Tiên Dung khi kể rằng, các thuyền buôn qua đây thường ghé lại lấy nước uống.
Từ các tư liệu trong sử sách, liên hệ với truyền thuyết Chử Đồng Tử – Tiên Dung, chúng ta có thể kết luận rằng, vào thời Hùng Vương, đạo Phật đã được truyền bá vào nước ta, mà cơ sở đầu tiên là núi Nam Giới, nơi biên giới giữa Văn Lang và Chiêm Thành vào thời Hùng Vương. Và như vậy thì việc Ngọc phả Hùng Vương ghi chép về sự kiện đạo phật được truyền vào nước ta từ thời Hùng Vương là có cơ sở  tin cậy. / .


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét