TÓM TẮT PHÁN QUYẾT CỦA TÒA TRỌNG TÀI VỀ THẨM
QUYỀN XÉT XỬ VÀ VỀ NỘI DUNG CÁC ĐỆ TRÌNH CỦA PHILIPPINES
1. Thông tin cơ bản về Vụ kiện Trọng tài
Vụ kiện Trọng tài Biển Đông giữa Philippines
và Trung Quốc liên quan đến đơn kiện của Philippines
đề nghị phán quyết về bốn vấn đề liên quan đến mối quan hệ giữa Philippines và
Trung Quốc ở Biển Đông. Thứ nhất, Philippines muốn Tòa phán quyết về nguồn luật
quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trên Biển Đông và hiệu lực của Công ước
Liên hợp Quốc về Luật Biển (Công ước) đối với yêu sách về quyền lịch sử bên
trong cái gọi là “đường chín đoạn” của Trung Quốc. Thứ hai, Philippines muốn
Tòa phán quyết về liệu một số cấu trúc mà cả Trung Quốc và Philippines cùng yêu
sách được xác định chính xác là đảo, đảo đá, bãi cạn lúc nổi lúc chìm hay bãi
chìm theo Công ước.
Quy chế pháp lý của các cấu trúc này theo Công ước quyết
định vùng biển mà những cấu trúc đó có thể có được. Thứ ba, Philippines muốn
Tòa phán quyết liệu một số hành động của Trung Quốc ở Biển Đông có vi phạm Công
ước không khi can thiệp vào việc Philippines thực thi các quyền chủ quyền và
quyền tự do phù hợp với Công ước, cũng như Trung Quốc đã làm tổn hại đến môi
trường biển thông qua các hoạt động đánh cá và xây dựng. Cuối cùng, Philippines
muốn Tòa phán quyết về một số hoạt động do Trung Quốc tiến hành, cụ thể là việc
cải tạo đất quy mô lớn và xây dựng đảo nhân tạo ở Trường Sa kể từ khi vụ kiện
bắt đầu đến nay đã làm mở rộng và làm phức tạp thêm tranh chấp.
Chính
phủ Trung Quốc theo quan điểm không chấp nhận và không tham gia vào trình tự tố
tụng của vụ kiện. Trung Quốc đã nhắc lại quan điểm trong các công hàm ngoại
giao, trong “Tài liệu lập trường của Chính phủ Cộng hòa nhân dân Trung Hoa về
vấn đề thẩm quyền trong Vụ kiện Trọng tài Biển Đông do Cộng hòa Philippines
khởi xướng” đề ngày 7/12/2014 (“Tài
liệu lập trường của Trung Quốc”), trong thư của Đại sứ Trung
Quốc tại Vương quốc Hà Lan gửi các thành viên của Tòa Trọng tài và trong rất
nhiều tuyên bố công khai. Chính phủ Trung Quốc đã bày tỏ rõ quan điểm rằng các
tuyên bố và tài liệu đó “không thể được giải thích là Trung Quốc tham gia vào
quá trình tố tụng của vụ kiện dưới bất kỳ hình thức nào”.
Trong
Công ước có hai điều khoản xư lý tình huống một bên phản đối thẩm quyền của Tòa
Trọng tài và từ chối tham gia vào trình tự tố tụng:
1.
Điều 288 của Công ước quy định: “Trong trường hợp có sự tranh
cãi về vấn đề một tòa án hoặc trọng tài có thẩm quyền hay không, thì vấn đề này
do tòa án đó quyết định.”
2.
Điều 9 Phụ lục VII, Công ước quy định:
“Khi
một trong các bên trong vụ tranh chấp không ra Tòa trọng tài hoặc không trình
bày các lý lẽ của mình, thì bên kia có thể yêu cầu Tòa tiếp tục trình tự tố
tụng và ra phán quyết. Việc một bên vắng mặt hay việc một bên không trình bày
các lý lẽ của mình không cản trở cho trình tự tố tụng. Trước khi ra phán quyết,
Tòa Trọng tài cần phải biết chắc chắn rằng không những Tòa có thẩm quyền xét xử
vụ tranh chấp mà còn chắc rằng đơn kiện có cơ sở về mặt thực tế và pháp lý.”
Trong
suốt quá trình tố tụng, Tòa Trọng tài đã tiến hành một số biện pháp nhằm hoàn
thành nghĩa vụ về việc phải tự mình bảo đảm rằng Tòa có thẩm quyền và rằng nội
dung kiện của Philippines là “có cơ sở về mặt thực tế và pháp lý”. Về vấn đề
thẩm quyền, Tòa đã quyết định xem các trao đổi không chính thức của Trung Quốc
tương đương với ý kiến phản đối thẩm quyền, Tòa đã tổ chức Tranh tụng riêng về
Thẩm quyền và Khả năng thụ lý diễn ra từ ngày 7-13/7/2015, đặt câu hỏi cho
Philippines cả trước và trong phiên tòa về thẩm quyền, bao gồm các vấn đề có
thể chưa được nêu trong các trao đổi không chính thức của Trung Quốc và Tòa đã
ra Phán quyết về Thẩm quyền và Khả năng thụ lý vào ngày 29/10/2015 (“Phán quyết
về thẩm quyền”), theo đó quyết định một số đệ trình mà Tòa có thẩm quyền và các
đệ trình khác được hoãn lại để xem xét chung với các vấn đề về nội dung thực
chất. Về vấn đề nội dung, Tòa đã tìm cách kiểm tra độ xác thực của các đệ trình
của Philippines bằng cách yêu cầu nước này nộp thêm văn ban bổ sung, Tòa đã tổ
chức phiên tranh tụng về riêng nội dung thực chất diễn ra từ ngày
24-30/11/2015, đặt câu hỏi cho Philippines về những nôi dung khởi kiện cả trước
và trong phiên tranh tụng, chỉ định các chuyên gia độc lập đê báo cáo cho Tòa
về các vấn đề kỹ thuật, và Toà đã thu thập các ghi chép lịch sử, dữ liệu điều
tra thủy văn về Biển Đông trong kho lưu trữ của Văn phòng Thủy văn Anh Quốc,
Thư viện Quốc gia Pháp, và Trung tâm lưu trữ Hải ngoại Quốc gia Pháp cũng như
cung cấp các tài liệu này, cùng các tài liệu liên quan đến từ các nguồn mở cho
các bên trong vụ kiện để các bên đưa ra bình luận.
2. Lập trường của các bên
1.
Phạm vi các vùng biển mà Trung Quốc có quyền được hưởng
trên Biển Đông, cũng giống như của Philippines, không thể vượt ra ngoài những
gì được Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển (“UNCLOS” hay “Công ước”) cho
phép;
2.
Các yêu sách của Trung Quốc về các quyền chủ quyền và quyền tài
phán, và đối với “các quyền lịch sử”, đối với các vùng biển trên Biển Đông nằm
bên trong gọi là “đường chín đoạn” là trái với Công ước và không có hiệu lực
pháp lý trong chừng mực mà chúng vượt quá các giới hạn địa lý và thực chất của
các vùng biển mà Trung Quốc có quyền được hưởng theo UNCLOS;
3.
Bãi Scarborough không được hưởng vùng đặc quyền kinh tế hay thềm
lục địa riêng;
4.
Bãi Vành Khăn (Mischief Reef), bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal)
và đá Xu-bi (Subi Reef) đều là các bãi cạn nửa nổi, nửa chìm và chúng không thể
có lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa, đồng thời không phải là
các cấu trúc có thể bị thụ đắc thông qua chiếm đóng hay thông qua cách khác;
5.
Bãi Vành Khăn (Mischief Reef) và bãi Cỏ Mây (Second Thomas
Shoal) là một phần của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines ;
6.
Đá Ga-ven (Gaven Reef) và đá Ken-nan (McKennan Reef) (bao gồm cả
đá Huy-gơ (Hughes Reef)) là các bãi cạn nửa nổi nửa chìm, không thể có lãnh
hải, vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa, nhưng ngấn nước thấp nhất của
chúng có thể được dùng để lần lượt xác định đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh
hải của đảo Nam Yết (Namyit) và Sinh Tồn (Sin Cowe);
7.
Bãi Gạc Ma (Johnson Reef), đá Châu Viên (Cuarteron Reef) và đá
Chữ Thập (Fiery Cross Reef) không thể được hưởng vùng đặc quyền kinh tế hay
thềm lục địa;
8.
Trung Quốc đã can thiệp một cách bất hợp pháp tới việc Philippines hưởng và thực thi các quyền chủ
quyền của mình liên quan đến các nguồn tài nguyên sinh vật và phi sinh vật
trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines ;
9.
Trung Quốc đã hành động một cách bất hợp pháp khi không ngăn cản
công dân và tàu thuyền của mình khai thác các nguồn tài nguyên sinh vật trong
vùng đặc quyền kinh tế của Philippines ;
10.
Trung Quốc đã ngăn cản một cách bất hợp pháp việc ngư dân Philippines theo đuổi sinh kế bằng việc can
thiệp vào các hoạt động đánh bắt cá truyền thống tại bãi Scarborough ;
11.
Trung Quốc đã vi phạm nghĩa vụ theo Công ước trong việc bảo vệ
và bảo tồn môi trường biển ở bãi Scarborough
và bãi Cỏ Mây;
12.
Việc Trung Quốc chiếm đóng và tiến hành các hoạt động xây dựng
tại bãi Vành Khăn:
(a) vi phạm các điều khoản của Công ước liên quan đến các đảo nhân tạo, thiết
bị và công trình;
(b) vi phạm nghĩa vụ của Trung Quốc trong việc bảo vệ và bảo tồn môi trường
biển theo Công ước; và
(c) cấu thành những hành vi bất hợp pháp trong việc cố tình chiếm đoạt theo
cách vi phạm Công ước;
13.
Trung Quốc đã vi phạm các nghĩa vụ theo Công ước trong việc sử
dụng các tàu chấp pháp một cách nguy hiểm, gây ra nguy cơ nghiêm trọng về va
chạm với tàu Philippines
hoạt động xung quanh bãi Scarborough ;
14.
Từ khi vụ kiện trọng tài này được bắt đầu vào tháng 1/2013,
Trung Quốc đã làm trầm trọng thêm và mở rộng các tranh chấp thông qua các việc
sau:
(a) can thiệp vào các quyền hàng hải của Philippines trong vùng nước tại và
tiếp giáp bãi Cỏ Mây;
(b) ngăn cản việc luân chuyển và tiếp tế cho lực lượng của Philippines đồn
trú tại bãi Cỏ Mây; và
(c) đe dọa đến sức khỏe và đời sống của lực lượng của Philippines đồn
trú tại bãi Cỏ Mây;
15.
Trung Quốc phải chấm dứt có thêm các yêu sách và hành động phi
pháp.
Liên
quan đến thẩm quyền của Tòa , Philippines đã đề nghị Tòa tuyên bố rằng các yêu
sách của Philippines
là “hoàn toàn nằm trong thẩm quyền và khả năng thụ lý của Tòa”.
Trung
Quốc không chấp nhận và không tham gia vào vụ kiện này, nhưng tuyên bố lập
trường của mình là “Tòa trọng tài không có thẩm quyền đối với vụ kiện này”.
Trong Tài liệu lập trường của mình, Trung Quốc đã đưa ra các lập luận sau:
–
Bản chất của vụ kiện là chủ quyền lãnh thổ đối với một số cấu trúc biển ở Biển
Đông, vấn đề này nằm ngoài phạm vi của Công ước và không liên quan đến việc
giải thích hay áp dụng Công ước;
–
Trung Quốc và Philippines đã thống nhất, thông qua các thỏa thuận song phương
và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông, giải quyết các tranh chấp
liên quan thông qua thương lượng. Việc Philippines đơn phương khơi kiện
tòa trọng tài này là vi phạm nghĩa vụ theo quy định của luật pháp quốc tế;
–
Ngay cả khi giả định rằng nội dung cua vụ kiện liên quan đến giải thích và áp
dụng Công ước, các nội dung này là một phần không tách rời của quá trình phân
định biển giữa hai quốc gia, như vậy sẽ rơi vào trường hợp tuyên bố năm 2006
của Trung Quốc phù hợp với Công ước, tong đó loại trừ các tranh chấp về phân
định biển khỏi cơ chế trọng tài bắt buộc hay các cơ chế giải quyết tranh chấp
bắt buộc khác;
Mặc
dù Trung Quốc không đưa ra các tuyên bố chính thức tương ứng với phần lớn các
đệ trình của Philippines, trong quá trình tố tụng Tòa đã cố gắng xác định lập
trường của Trung Quốc trên cơ sở các tuyên bố công khai và thư tín ngoại
giao.
3. Phán quyết của Tòa về Phạm vi thẩm quyền
Tòa
đã xem xét vấn đề phạm vi thẩm quyền xét xử các yêu sách của Philippines ở cả
Phán quyết về Thẩm quyền, ở chừng mực mà các vấn đề về thẩm quyền có thể được
xác định như một vấn đề ban đầu, và trong Phán quyết ngày 12 tháng 7 năm 2016,
ở chừng mực mà các vấn đề về thẩm quyền đan xen với các nội dung thực chất của
các yêu sách của Philippines. Phán quyết ngày 12/7/2016 của Tòa cũng lồng ghép
và tái khẳng định các quyết định về thẩm quyền được đưa ra trong Phán quyết về
Thẩm quyền.
Để
có bức tranh hoàn chỉnh, các quyết định của Tòa về thẩm quyền trong cả hai phán
quyết được tóm tắt chung ở đây.
a. Các vấn đề ban đầu
Trong
Phán quyết về Thẩm quyền, Tòa đã xem xét một số những vấn đề ban đầu liên quan
đến thẩm quyền của Tòa. Tòa nhận thấy rằng cả Philippines và Trung Quốc đều là
thành viên Công ước và Công ước không cho phép một Quốc gia tự loại trừ mình
khỏi cơ chế giải quyết tranh chấp được quy định trong Công ước. Tòa cho
rằng việc Trung Quốc không tham gia vào vụ kiện không tước bỏ thẩm quyền
của Tòa và Tòa đã được thành lập đúng với các điều khoản của Phụ lục VII
của Công ước, trong đó bao gồm một thủ tục thành lập tòa ngay cả trong trường
hợp một bên vắng mặt. Cuối cùng, Tòa đã không công nhận lập luận được nêu trong
Tài liệu lập trường của Trung Quốc và cho rằng chi riêng việc đơn
phương khởi kiện không thể được coi là sự lạm dụng đối với Công ước.
b. Sự tồn tại của một Tranh chấp Liên quan đến Giải thích
và Áp dụng Công ước
Trong
Phán quyết về Thẩm quyền, Tòa đã xem xét liệu tranh chấp của các Bên có liên
quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước hay không, đây là một điều kiện
để sử dụng các cơ chế của Công ước.
Tòa
đã bác bỏ lập luận nêu trong Tài liệu lập trường của Trung Quốc rằng tranh chấp
của các Bên thực ra là về chủ quyền lãnh thổ và do đó không phải là một vấn đề
liên quan đến Công ước. Tòa chấp nhận rằng tồn tại một tranh chấp giữa các Bên
liên quan đến chủ quyền đối với các đảo ở Biển Đông, nhưng Tòa cho
rằng các vấn đề được Philippines đệ trình để giải quyết bằng trọng tài lại
không liên quan đến chủ quyền. Tòa cho rằng không cần thiết phải ngầm
quyết định về chủ quyền để có thể xem xét các Đệ trình của Philippines và
rằng việc xem xét đó sẽ không hỗ trợ cho các yêu sách chủ quyền của bất kỳ
Bên nào đối với các đảo ở Biển Đông.
Tòa
cũng bác bỏ lập luận nêu trong Tài liệu lập trường của Trung Quốc rằng tranh
chấp của các Bên thực tế là về phân định ranh giới biển và do đó bị loại khỏi
cơ chế giải quyết tranh chấp bởi Điều 298 của Công ước và bởi một tuyên bố của
Trung Quốc vào ngày 25/8/2006 theo Điều khoản này. Tòa nhận thấy rằng một tranh
chấp về việc liệu một Quốc gia có quyền đối với một vùng biển hay không là một
vấn đề hoàn toàn khác biệt so với vấn đề phân định các vùng biển ở một khu vực
mà các vùng biển này chồng lấn.Tòa nhận thấy rằng các quyền được hưởng vùng
biển, cùng với nhiều vấn đề khác, thường được xem xét trong việc phân định ranh
giới, nhưng cũng có thể phát sinh trong những bối cảnh khác.Tòa quyết định
là từ đó không thể kết luận rằng một tranh chấp đối với từng vấn đề trên
có thể coi là tranh chấp về phân định ranh giới.
Cuối
cùng, Tòa quyết định rằng các Đệ trình của Philippines đều phản ánh một tranh
chấp liên quan đến Công ước. Với quyết định đó, Tòa đã nhấn mạnh rằng (a) tranh
chấp liên quan đến sự tương tác giữa Công ước và các quyền khác (bao gồm bất kỳ
“quyền lịch sử” nào của Trung Quốc) là một tranh chấp liên quan đến Công
ước và (b) do Trung Quốc không nêu rõ quan điểm của mình, sự tồn tại của một
tranh chấp có thể được hàm ý từ hành vi của một Quốc gia hoặc từ sự im lặng, và
đây là một vấn đề cần phải được xem xét một cách khách quan.
c. Sự tham gia của Bên thứ ba không thể thiếu
Trong
Phán quyết về Thẩm quyền, Tòa đã xem xét việc các Quốc gia khác cũng có
yêu sách đối với các đảo ở Biển Đông không tham gia vào vụ kiện trọng tài có
cản trở thẩm quyền của Tòa hay không. Tòa thấy rằng quyền của các Quốc gia khác
sẽ không cấu thành “nội dung chính của phán quyết” – tiêu chuẩn để bên thứ ba
có thể được coi là không thể thiếu. Tòa cũng lưu ý thêm rằng vào tháng 12/2014,
Việt Nam đã đệ trình một
tuyên bố lên Tòa, trong đó Việt Nam
tuyên bố rằng “không nghi ngờ gì Tòa có thẩm quyền trong vụ kiện này”. Tòa cũng
lưu ý rằng Việt Nam, Malaysia và Indonesia đã dự các phiên tòa về thẩm quyền
với tư cách quan sát viên, và không Quốc gia nào nêu lên lập luận rằng sự tham
gia của mình là không thể thiếu.
Trong
Phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa lưu ý rằng Tòa đã nhận được công hàm của Malaysia ngày 23/6/2016, trong đó nêu lại những
yêu sách của Malaysia
ở Biển Đông. Tòa đã so sánh những phán quyết về nội dung thực chất của Đệ trình
của Philippines với các quyền mà Malaysia yêu sách và tái khẳng định quyết định
của mình rằng Malaysia không phải là một bên không thể thiếu và rằng lợi ích
của Malaysia ở Biển Đông không ngăn cản việc Tòa xem xét các Đệ trình của
Philippines.
d. Điều kiện tiên quyết đối với thẩm quyền
Trong
Phán quyết về Thẩm quyền, Tòa đã xem xét khả năng áp dụng Điều 281 và 282 của
Công ước, là những điều khoản có thể ngăn một Quốc gia sử dụng các cơ chế theo
Công ước nếu những quốc gia đó đã đồng ý về việc sư dụng biện pháp khác để
giải quyết tranh chấp.
Tòa
đã bác bỏ lập luận nêu trong Tài liệu lập trường của Trung Quốc rằng Tuyên bố
về Ứng xử của các Bên ở Biển Đông năm 2002 ngăn Philippines khởi kiện trọng
tài. Tòa cho rằng Tuyên bố trên là một thỏa thuận chính trị và không
ràng buộc về pháp lý, không định ra một cơ chế giải quyết tranh chấp một cách
ràng buộc, không loại trừ các biện pháp giải quyết tranh chấp khác, và do đó
không hạn chế thẩm quyền của Tòa theo Điều 281 hay 282. Tòa cũng đã
xem xét Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á, Công ước về Đa dạng sinh
học và một loạt các tuyên bố chung của Philippines và Trung Quốc về việc giải
quyết tranh chấp thông qua đàm phán và kết luận rằng những văn kiện này đều
không cấu thành một thỏa thuận có tác dụng ngăn Philippines khởi kiện ra trọng
tài.
Tòa
cũng cho rằng các Bên đã trao đổi quan điểm của mình liên quan đến việc
giải quyết các tranh chấp, theo như yêu cầu của Điều 283 của Công ước, trước
khi Philippines khởi kiện trọng tài. Tòa kết luận rằng điều kiện này đã được
đáp ứng theo hồ sơ về trao đổi ngoại giao giữa Philippines và Trung Quốc, trong
đó Philippines đã thể hiện quan điểm muốn lựa chọn đàm phán đa phương, có sự
tham gia của cả những Quốc gia khác xung quanh Biển Đông, trong khi Trung Quốc
một mực quyết định rằng chỉ có các cuộc đàm phán song phương mới được
xem xét.
e. Ngoại lệ và giới hạn của thẩm quyền
Trong
phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa đã xem xét liệu Đệ trình của Philippines liên
quan đến các quyền lịch sử của Trung Quốc và ‘đường chín đoạn’ có bị ảnh hưởng
bởi việc loại trừ khỏi thẩm quyền các tranh chấp liên quan đến ‘danh nghĩa lịch
sử’ theo Điều 298 của Công ước hay không. Tòa đã rà soát nghĩa của cụm từ ‘danh
nghĩa lịch sử’ trong luật biển và quyết định là thuật ngữ này dẫn
chiếu đến những yêu sách về chủ quyền lịch sử đối với các vịnh và vùng biển gần
bờ. Sau khi xem xét các yêu sách và hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông,
Tòa kết luận rằng Trung Quốc đã yêu sách quyền lịch sử đối với các tài
nguyên trong ‘đường chín đoạn’, nhưng không yêu sách danh nghĩa lịch sử đối với
các vùng biển ở Biển Đông. Do đó, Tòa kết luận rằng Tòa có thẩm quyền để xem
xét các nội dung kiện của Philippines liên quan đến quyền lịch sử và về vấn đề ‘đường
chín đoạn’ giữa Philippines và Trung Quốc.
Trong
Phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa cũng xem xét liệu các Đệ trình của Philippines có
bị ảnh hưởng bởi việc loại trừ khỏi thẩm quyền theo Điều 298 những
tranh chấp liên quan đến phân định ranh giới biển. Trong Phán quyết về Thẩm
quyền, Tòa đã kết luận rằng các Đệ trình của Philippines không liên quan đến
việc phân định ranh giới, nhưng cũng lưu ý rằng một vài điểm trong Đệ trình của
Philippines phụ thuộc vào một số khu vực nhất định có cấu thành một phần vùng
đặc quyền kinh tế của Philippines không. Tòa quyết định rằng Tòa chỉ
có thể xem xét những đệ trình đó nếu Trung Quốc không có khả năng được
hưởng một vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế của
Philippines và đã hoãn đưa ra quyết định cuối cùng về thẩm quyền. Trong Phán
quyết ngày 12/7/2016, Tòa đã xem xét các bằng chứng về các bãi và đảo mà Trung
Quốc yêu sách ở Biển Đông và kết luận rằng không một đảo, bãi nào có khả năng
được hưởng vùng đặc quyền kinh tế. Do Trung Quốc không có khả năng được hưởng
vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế của Philippines ở quần đảo Trường Sa,
Tòa quyết định là các đệ trình của Philippines không phụ thuộc vào
việc phân định trước ranh giới.
Trong
Phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa cũng xem xét liệu Đệ trình của Philippines có
bị ảnh hưởng việc loại trừ khỏi thẩm quyền theo Điều 298 những tranh
chấp liên quan đến hoạt động của cơ quan thi hành pháp luật ở vùng đặc quyền
kinh tế hay không. Tòa nhắc lại rằng ngoại lệ ở Điều 298 chỉ có thể áp dụng nếu
Đệ trình của Philippines
liên quan đến hoạt động của cơ quan thi hành pháp luật ở vùng đặc quyền kinh tế
của Trung Quốc. Tuy
nhiên, do Đệ trình của Philippines liên quan đến các sự kiện diễn ra
trong chính vùng
đặc quyền kinh tế của Philippines
hoặc ở vùng lãnh hải, Tòa đã kết luận rằng Điều 298 không gây cản trở đối với
thẩm quyền của mình.
Cuối
cùng, trong Phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa đã xem xét liệu các đệ trình của Philippines có
bị ảnh hưởng bởi việc loại trừ khỏi thẩm quyền theo Điều 298
những tranh chấp liên quan đến hoạt động quân sự hay không. Tòa quyết
định là sự đụng độ giữa lực lượng lính thủy đánh bộ của Philippines ở Bãi
Cỏ Mây và hải quân, lực lượng thực thi pháp luật của Trung Quốc đã cấu
thành các hoạt động quân sự và kết luận rằng Tòa không có thẩm quyền đối với Đệ
trình số 14(a)-(c). Tòa cũng xem xét liệu các hoạt động cải tạo và xây dựng đảo
nhân tạo ở bảy cấu trúc thuộc quần đảo Trường Sa có cấu thành hoạt động quân sự
hay không, nhưng lưu ý rằng Trung Quốc đã liên tục nhấn mạnh bản chất phi quân
sự của những hoạt động của mình và đã tuyên bố ở cấp cao nhất rằng Trung Quốc
sẽ không quân sự hóa sự hiện diện của mình trên Trường Sa. Tòa đã quyết định
rằng Tòa sẽ không coi các hoạt động trên có tính quân sự khi mà bản thân Trung
Quốc đã liên tục khẳng định điều ngược lại. Do đó, Tòa kết luận rằng Điều 298
không cản trở thẩm quyền của Tòa.
4. Phán quyết của Tòa liên quan đến Nội dung khởi kiện thực chất
của Philippines
a. ‘Đường chín đoạn’ và Yêu sách Quyền lịch sử của Trung Quốc trên
các vùng biển thuộc Biển Đông
Trong
Phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa đã xem xét đến giá trị của ‘đường chín đoạn’ của
Trung Quốc và liệu Trung Quốc có quyền lịch sử đối với các tài nguyên ở Biển
Đông bên ngoài giới hạn của các vùng biển mà nước này được hưởng theo Công ước
hay không.
Tòa
đã xem xét lịch sử của Công ước và những điều khoản của nó liên quan đến các
vùng biển và kết luận rằng mục đích của Công ước là phân bổ một cách toàn diện
các quyền của các Quốc gia đối với các vùng biển. Tòa nhận thấy rằng câu hỏi về
những quyền tồn tại từ trước đối với tài nguyên (đặc biệt là đối với tài nguyên
cá) đã được xem xét cẩn thận trong các cuộc đàm phán về sự hình thành vùng đặc
quyền kinh tế và rằng một số Quốc gia đã có mong muốn bảo tồn các quyền đánh cá
lịch sử ở vùng biên mới này. Tuy nhiên, quan điểm này đã bị bác bỏ và văn bản
cuối cùng của Công ước chỉ cho các Quốc gia khác một quyền hạn chế trong việc
tiếp cận về đánh cá ở vùng đặc quyền kinh tế (trong trường hợp Quốc gia ven
biển không thể khai thác hết lượng cá cho phép) mà không cho các quốc gia khác
quyền gì đối với dầu khí hay tài nguyên khoáng sản. Tòa nhận thấy rằng yêu sách
về quyền lịch sử của Trung Quốc đối với các tài nguyên là không phù hợp với sự
phân bổ chi tiết về quyền và vùng biển của Công ước và kết luận rằng, nếu
Trung Quốc có quyền lịch sử đối với tài nguyên ở các vùng biển ở Biển Đông,
những quyền đó đã bị xóa bỏ bởi việc Công ước có hiệu lực ở chừng mực mà chúng
không phù hợp với hệ thống các vùng biển của Công ước.
Tòa
cũng xem xét hồ sơ lịch sử để xác định liệu Trung Quốc có thật là có quyền lịch
sử đối với tài nguyên ở Biển Đông trước khi Công ước có hiệu lực hay không. Tòa
lưu ý rằng có chứng cứ cho thấy người đi biển và ngư dân của Trung Quốc, cũng
như của các nước khác, trong lịch sử đã sử dụng các đảo ở Biển Đông, mặc dù Tòa
nhấn mạnh rằng Tòa không có thẩm quyền để xác định chủ quyền đối với những đảo
đó. Tuy nhiên, Tòa quyết định là trước khi có Công ước, các vùng biển
ở Biển Đông bên ngoài vùng lãnh hải về pháp lý đều là một phần của vùng biển
quốc tế, tại đó tàu thuyền của bất kỳ Quốc gia nào đều có thể qua lại và đánh
cá một cách tự do. Vì vậy, Tòa đã kết luận rằng việc Trung Quốc qua lại và đánh
cá trong lịch sử ở vùng biển của
Biển Đông đã thể hiện các quyền tự do trên biển cả, thay vì một quyền lịch sử,
và rằng không có chứng cứ nào cho thấy rằng trong lịch sử Trung Quốc đã một
mình thực hiện việc kiểm soát các vùng biển ở Biển Đông hay ngăn cản các quốc
gia khác khai thác những tài nguyên của mình.
Do
đó, Tòa kết luận rằng, giữa Philippines và Trung Quốc, không có căn cứ pháp lý
nào để Trung Quốc yêu sách các quyền lịch sử đối với tài nguyên, bên ngoài
những quyền quy định trong Công ước, tại các vùng biển nằm bên trong ‘đường
chín đoạn’.
b. Quy chế của các cấu trúc tại Biển Đông
Trong
Phán quyết ngày 12 tháng 7 năm 2016, Tòa Trọng tài đã xem xét quy chế của các
cấu trúc tại Biển Đông và các quyền đối với vùng biển mà Trung Quốc có thể đòi
hỏi theo Công ước.
Trước
hết, Tòa Trọng tài thực hiện đánh giá kỹ thuật về việc liệu một số bãi san hô
mà Trung Quốc đòi hỏi có nổi trên mặt nước khi thủy triều lên hay không. Theo
Điều 13 và 121 của Công ước, các cấu trúc nổi trên mặt nước vào lúc thủy triều
lên cao sẽ ít nhất được hưởng lãnh hải 12 hải lý, trong khi những cấu trúc bị
chìm khi thủy triều lên sẽ không có quyền có các vùng biển. Tòa Trọng tài ghi
nhận rằng nhiều rặng san hô tại Biển Đông đã bị thay đổi nặng nề do việc cải
tạo và xây dựng đảo gần đây và nhắc lại rằng Công ước phân loại các cấu trúc
dựa trên điều kiện tự nhiên của nó. Tòa Trọng tài đã chỉ định một chuyên gia
thủy văn học để hỗ trợ Tòa trong việc đánh giá các bằng chứng kỹ thuật của Philippines và
dựa chủ yếu vào các tài liệu lưu trữ và các đánh giá thủy văn trước đây để đánh
giá các cấu trúc này. Tòa Trọng tài nhất trí với Philippines rằng bãi
Scarborough, Gạc Ma, Châu Viên và Chữ Thập là các cấu trúc nổi và Xu Bi,
Huy-gơ, Vành Khăn và Cỏ Mây là cấu trúc chìm trong điều kiện tự nhiên. Tuy
nhiên, Tòa Trọng tài không nhất trí với Philippines về quy chế của Ga Ven
(phía Bắc) và Ken Nan và kết luận rằng cả hai đều là cấu trúc nổi.
Tòa
Trọng tài tiếp theo đã xem xét liệu có cấu trúc nào mà Trung Quốc yêu sách có
thể tạo ra các vùng biển ngoài 12 hải lý hay không. Theo Điều 121 của Công ước,
các đảo tạo ra vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và có thềm lục địa, nhưng “các
đảo đá không thích hợp cho con người đến ở hoặc không có đời sống kinh tế riêng
sẽ không có vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa”. Tòa Trọng tài thấy rằng
quy định này liên hệ chặt chẽ với việc mở rộng quyền tài phán của Quốc gia ven
biển với việc hình thành vùng đặc quyền kinh tế và nhằm để ngăn ngừa việc các
cấu trúc không lớn có thể tạo ra các vùng biển lớn, mà điều này xâm phạm vào
vùng biển của các lãnh thổ có người ở hoặc vùng biển quốc tế và vùng đáy biển
vốn là di sản chung của nhân loại. Tòa Trọng tài giải thích Điều 121 và kết
luận rằng các quyền có vùng biển của một cấu trúc phụ thuộc vào (a) năng lực
khách quan của cấu trúc; (b) trong điều kiện tự nhiên, nó có thể duy trì hoặc
(c) một cộng đồng dân cư ổn định hoặc (d) hoạt động kinh tế mà không phụ thuộc
vào tài nguyên bên ngoài và cũng không thuần túy mang tính chất khai thác.
Tòa
Trọng tài thấy rằng nhiều cấu trúc tại Trường Sa hiện đang được một hoặc nhiều
quốc gia ven biển kiểm soát và họ đã xây dựng các cấu trúc và duy trì nhân lực
tại chỗ. Tòa Trọng tài thấy rằng sự hiện diện thời nay phụ thuộc vào các nguồn
lực và hỗ trợ bên ngoài và thấy rằng nhiều cấu trúc đã bị biến đổi để nâng cao
khả năng sinh sống của con người, kể cả thông qua cải tạo đảo và xây dựng các
cơ sở hạ tầng như các nhà máy xử lý nước mặn. Tòa Trọng tài kết luận rằng việc
hiện diện của các nhân viên công quyền trên nhiều cấu trúc không chứng minh
được khả năng của các cấu trúc này, trong điều kiện tự nhiên, để duy trì cộng
đồng cư dân ổn định và cho rằng các bằng chứng lịch sử về việc định cư hoặc đời
sống kinh tế có ý nghĩa hơn đối với năng lực khách quan của các cấu trúc. Qua
đánh giá hồ sơ lịch sử, Tòa Trọng tài thấy rằng các đảo Trường Sa trong lịch sử
từng được các nhóm nhỏ ngư dân từ Trung Quốc và các nước khác sử dụng, và một số
công ty khai thác phân chim và đánh cá của Nhật đã có hoạt động tại đây vào
những năm 1920 và 1930. Tòa Trọng tài kết luận rằng việc sử dụng tạm thời các
cấu trúc của ngư dân không dẫn đến việc cư ngụ của một cộng đồng ổn định và tất
cả các hoạt động kinh tế trong lịch sử đều chỉ có tính chất khai thác. Theo đó,
Tòa Trọng tài kết luận rằng tất các cấu trúc nổi tại Trường Sa (bao gồm, ví dụ,
Ba Bình, Thị Tứ, Bến Lạc, Trường Sa, Song Tử Đông, Song Tử Tây) đều là “đảo đá”
về mặt pháp lý và không tạo ra vùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa.
Tòa
Trọng tài cũng kết luận rằng Công ước không quy định việc một nhóm các đảo như
quần đảo Trường Sa sẽ có các vùng biển với tư cách là một thực thể thống nhất.
c. Các hành vi của Trung Quốc tại Biển Đông
Trong
Phán quyết ngày 12 tháng 7 năm 2016, Tòa Trọng tài đã xem xét tính hợp pháp
theo Công ước đối với nhiều hành động của Trung Quốc tại Biển Đông.
Sau
khi kết luận Vành Khăn, Bãi Cỏ Mây và Bãi Cỏ Rong là cấu trúc chìm, tạo thành
một phần của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines và không
chồng lấn với bất kỳ vùng biển nào Trung Quốc có thể có, Tòa Trọng tài kết luận
rằng Công ước đã rõ ràng trong việc trao quyền chủ quyền cho Philippines đối
với các khu vực biển trong vùng đặc quyền kinh tế của nước này. Tòa Trọng tài
xác định, trên thực tế, Trung Quốc đã (a) can thiệp vào việc thăm dò dầu khí
của Philippines tại Bãi Cỏ Rong; (b) chủ ý cấm các tàu Philippines đánh bắt cá
trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines và (c) bảo vệ cho và không ngăn
ngừa các ngư dân Trung Quốc đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế của
Philippines tại Vành Khăn và Bãi Cỏ Mây, và (d) xây dựng các công trình và đảo
nhân tạo tại Vành Khăn mà không được sự đồng ý của Philippines. Do vậy Tòa
Trọng tài kết luận rằng Trung Quốc đã vi phạm quyền chủ quyền của Philippines đối
với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước này.
Tiếp
theo Tòa Trọng tài xem xét quyền đánh cá truyền thống tại bãi Scarborough và
kết luận rằng ngư dân từ Philippines, cũng như Trung Quốc và các nước khác, đã
đánh cá tại bãi Scarborough từ lâu và có quyền đánh cá truyền thống tại khu vực
này. Do bãi cạn Scarborough nổi trên mặt nước lúc thủy triều lên, cấu trúc này
có quyền có lãnh hải, vùng nước xung quanh cấu trúc này không tạo thành vùng
đặc quyền kinh tế và quyền đánh cá truyền thống không bị mất đi do Công ước. Dù
Tòa Trọng tài nhấn mạnh rằng Tòa không quyết định về vấn đề chủ quyền đối với
bãi cạn Scarborough, Tòa xác định rằng Trung Quốc đã vi phạm nghĩa vụ tôn trọng
quyền đánh cá truyền thống của ngư dân Philippines khi ngăn chặn tiếp cận bãi
cạn Scarborough sau tháng 5 năm 2012. Tuy nhiên, Tòa Trọng tài thấy rằng Tòa
cũng sẽ có kết luận tương tự đối với quyền đánh cá truyền thống của ngư dân
Trung Quốc nếu Philippines có hành động ngăn cản việc đánh cá của công dân
Trung Quốc tại bãi Scarborough.
Tòa
Trọng tài cũng xem xét tác động của các hành vi của Trung Quốc đối với môi
trường biển. Để làm việc này, Tòa Trọng tài đã có sự trợ giúp của 3 chuyên gia
độc lập về sinh học của rặng san hô được chỉ định để đánh giá các chứng cứ khoa
học có được và các báo cáo của chuyên gia của Philippines. Tòa Trọng tài xác
định rằng việc Trung Quốc cải tạo đất quy mô lớn và xây dựng đảo nhân tạo gần
đây tại bảy cấu trúc tại Trường Sa đã gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đối với môi
trường rặng san hô và Trung Quốc đã vi phạm nghĩa vụ của mình theo Điều 192 và
194 của Công ước trong việc bảo tồn và bảo vệ môi trường biển đối với các hệ
sinh thái dễ bị tổn thương và môi trường sinh sống của các loài động vật bị đe
dọa, sắp cạn kiệt. Đồng thời Tòa Trọng tài cũng xác định rằng ngư dân Trung
Quốc đã thực hiện việc khai thác động vật bị đe dọa như rùa biển, san hô và
trai khổng lồ ở quy mô lớn tại Biển Đông, sử dụng các biện pháp gây hủy hoại
nghiêm trọng đối với môi trường rặng san hộ. Tòa Trọng tài xác định rằng chính
quyền Trung Quốc đã nhận thức được các hành vi này và không thực hiện nghĩa vụ
cẩn trọng theo Công ước để ngăn chặn.
Cuối
cùng, Tòa Trọng Tài đã xem xét tính hợp pháp của các hành vi của tàu chấp pháp
Trung Quốc tại bãi Scarborough trong hai tình huống vào tháng 4 và 5 năm 2012
khi các tàu Trung Quốc đã tìm cách cản trở tàu Philippines tiếp cận hoặc tiến
vào bãi Scarborough. Để làm việc này, Tòa Trọng tài đã được một chuyên gia độc
lập về an toàn hàng hải được chỉ định để hỗ trợ trong việc xem xét các báo cáo
bằng văn bản do các sĩ quan tàu Philippines cung cấp và các chứng cứ chuyên gia
về an toàn hàng hải do Philippines cung cấp. Tòa Trọng tài xác định rằng các
tàu chấp pháp của Trung Quốc đã liên tiếp tiếp cận tàu Philippines với tốc độ
cao và cố gắng cắt đầu các tàu này ở khoảng cách gần, tạo ra nguy cơ đâm va cao
và nguy hiểm cho tàu và người của Philippines. Tòa Trọng tài kết luận rằng
Trung Quốc đã vi phạm nghĩa vụ theo Công ước về Quy định Quốc tế để Ngăn ngừa
Va chạm trên Biển 1972 và Điều 94 của Công ước liên quan đến an toàn hàng hải.
d. Làm trầm trọng thêm tranh chấp giữa các Bên
Trong
Phán quyết ngày 12 tháng 7 năm 2016, Tòa Trọng tài đã xem xét liệu các hoạt
động cải tạo đất quy mô lớn gần đây và xây dựng các đảo nhân tạo của Trung Quốc
tại 7 cấu trúc tại Trường Sa từ khi bắt đầu thủ tục trọng tài có làm gia tăng
tranh chấp giữa các Bên. Tòa Trọng tài nhắc lại rằng các bên tham gia vào cơ
chế giải quyết tranh chấp có nghĩa vụ kiềm chế việc làm trầm trọng thêm hoặc mở
rộng một tranh chấp hoặc các tranh chấp về các vấn đề đang được thụ lý. Tòa
Trọng tài thấy rằng Trung Quốc đã (a) xây dựng một đảo nhân tạo lớn tại Vành
Khăn, một cấu trúc lúc chìm lúc nổi nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của
Philippines; (b) gây ra hủy hoại lâu dài, không thể phục hồi đối với hệ sinh
thái rặng san hộ và (c) phá hủy lâu dài các chứng cứ về điều kiện tự nhiên của
các cấu trúc này. Tòa Trọng tài kết luận rằng Trung Quốc đã vi phạm các nghĩa
vụ về kiềm chế làm trầm trọng thêm và kéo dài tranh chấp giữa các Bên trong khi
chờ quá trình xét xử.
e. Hành vi tương lai của các Bên
Cuối
cùng, Tòa Trọng tài xem xét đề nghị của Philippines về việc đưa ra tuyên bố
rằng, từ nay về sau, Trung Quốc cần tuân thủ các quyền và quyền tự do của Philippines
và tuân thủ các nghĩa vụ của nước này theo Công ước. Về vấn đề này, Tòa Trọng
tài thấy rằng cả Philippines
và Trung Quốc đều đã nhiều lần thừa nhận Công ước và các nghĩa vụ chung về
thiện chí trong xác định và điều chỉnh các hành vi của mình. Tòa Trọng tài xét
rằng cốt lõi của tranh chấp trong vụ kiện này không nằm ở ý định của Trung Quốc
hay Philippines trong việc xâm phạm quyền lợi pháp lý của bên kia, mà chính là
do có sự hiểu khác nhau cơ bản về các quyền của nước mình theo Công ước đối với
các vùng nước thuộc Biển Đông. Tòa Trọng tài nhắc lại rằng trong luật pháp quốc
tế có nguyên tắc cơ bản là “không thiện chí” không thể tự suy diễn và thấy rằng
Điều 11 của Phụ lục VII đã quy định “phán quyết…sẽ được các bên trong tranh
chấp tuân thủ”. Vì vậy, Tòa Trọng tài thấy không cần thiết phải đưa ra tuyên bố
nào nữa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét